Anh Giả Điếc Của Nguyễn Khuyến [Nội Dung + Ý Nghĩa]

Anh Giả Điếc [Nguyễn Khuyến] ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Ý Nghĩa ✅ Thohay.vn Chia Sẽ Những Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm Hay Nhất Để Bạn Đọc Tham Khảo.

Nội Dung Bài Thơ Anh Giả Điếc

Bài thơ: Anh giả điếc
Tác giả: Nguyễn Khuyến

Trong thiên hạ có anh giả điếc,
Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
Chẳng ai ngờ “sáng tai họ, điếc tai cày”,
Lối điếc ấy sau này em muốn học.
Tọa trung đàm tiếu, nhân như mộc
Dạ lí phan viên, nhĩ tự hầu.
Khi vườn sau, khi ao trước; khi điếu thuốc, khi miếng trầu.
Khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu;
Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc
Điếc như thế ai không muốn điếc?
Điếc như anh dễ bắt chước ru mà.
Hỏi anh, anh cứ ậm à.

Thohay.vn Tặng Bạn ❤️️ Chợ Đồng ️❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích

Ý Nghĩa Bài Thơ Anh Giả Điếc

Bài thơ “Anh giả điếc” của Nguyễn Khuyến là một bài thơ trào phúng châm biếm một ông bạn thân giả cách điếc để trốn việc làm và tránh bị sỉ nhục. Bài thơ dùng hình ảnh anh giả điếc để phê phán thái độ ích kỷ, xảo quyệt và thiếu trung thực của người bạn. Bài thơ là một bức tranh hài hước về cuộc sống xã hội ở thời kỳ phong kiến, với những nghĩa vụ và áp lực đè nặng lên người dân. 

Đôi Nét Về Tác Giả Nguyễn Khuyến

Chia sẽ thêm đôi nét về tác giả Nguyễn Khuyến.

– Nguyễn Khuyến sinh ngày 15-2-1835, có tên thật là Nguyễn Văn Thắng, tự Miễn Chi, hiệu Quế Sơn, là một nhà thơ nổi tiếng với các tác phẩm viết theo thể thơ Nôm thất ngôn bát cú đến Đường luật.

– Quê ngoại của ông ở làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ (tục gọi là làng Và), xã Yên Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

– Thuở nhỏ, ông theo học ở trường Hoàng giáp Phạm Văn Nghị. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, ham học.

– Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân trường Hà Nội.

– Năm 1865, ông trượt thi Hội nên ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám và đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến, nhằm tự nhủ phải luôn cố gắng hơn nữa.

– Năm 1871, ông thi đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp).

– Năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, sau đó được thăng lên làm Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa.

– Năm 1877, Nguyễn Khuyến được thăng chức lên làm Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán.

– Nhà thơ Nguyễn Khuyến qua đời ngày 05/02/1909, hưởng thọ 75 tuổi.

Thohay.vn Chia Sẽ ❤️️ Tự Trào ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Đọc Hiểu, Phân Tích

Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Anh Giả Điếc Hay Nhất

Những cảm nhận, phân tích bài thơ anh giả điếc

Bài thơ “Anh giả điếc” là một trong những tác phẩm hài hước và châm biếm của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Bài thơ được viết bằng chữ Nôm và thuộc thể lục bát. Bài thơ kể về một anh chàng giả điếc để trốn việc làm và tránh bị sỉ nhục. Bài thơ là một bức tranh châm biếm về cuộc sống xã hội ở thời kỳ phong kiến, với những nghĩa vụ và áp lực đè nặng lên người dân. Bài thơ cũng là một minh chứng cho tài năng thi ca và tinh thần dân chủ của Nguyễn Khuyến.

Bài thơ có cấu trúc đơn giản, gồm ba khổ thơ. Khổ đầu giới thiệu nhân vật chính là anh giả điếc. Khổ hai miêu tả cách anh ta giả điếc để trốn việc làm. Khổ ba diễn tả kết cục bi hài của anh ta khi bị phát hiện. Ba khổ thơ có sự liên kết chặt chẽ về nội dung và hình ảnh. Nhân vật và sự việc được miêu tả một cách sinh động và hóm hỉnh.

Bài thơ sử dụng nhiều phép tu từ để làm giàu ngôn ngữ và tạo hiệu ứng hài hước. Ví dụ: “Anh giả điếc” là phép ẩn dụ để biểu hiện sự lười biếng và xảo quyệt của nhân vật. “Điếc không nghe gà gáy” là phép so sánh để nhấn mạnh sự giả điếc của anh ta. “Điếc không nghe tiếng trống” là phép liên tưởng để ám chỉ sự trốn tránh nghĩa vụ quân sự của anh ta. “Điếc không nghe tiếng chuông” là phép liên tưởng để ám chỉ sự trốn tránh nghĩa vụ thuế của anh ta. “Điếc không nghe tiếng chửi” là phép liên tưởng để ám chỉ sự trốn tránh sự sỉ nhục của anh ta.

Bài thơ có giá trị văn học cao, là một trong những bài thơ hài hước và châm biếm nổi tiếng của Nguyễn Khuyến. Bài thơ cho thấy tài năng thi ca và tinh thần dân chủ của Nguyễn Khuyến, một thi hào dân tộc đã đóng góp nhiều cho sự phát triển của văn học Việt Nam.

Viết một bình luận