Bài Thơ Chốn Quê: Nội Dung, Ý Nghĩa, Phân Tích

Bài Thơ Chốn Quê ❤️️ Nội Dung, Ý Nghĩa, Phân Tích ✅ Thohay.vn Chia Sẽ Một Số Mẫu Văn Cảm Nhận, Phân Tích Hay Nhất Về Bài Thơ Cho Các Bạn Tham Khảo.

Nội Dung Bài Thơ Chốn Quê

Bài thơ: Chốn quê
Tác giả: Nguyễn Khuyến

Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.

Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Cần kiệm thế mà không khá nhỉ,
Bao giờ cho biết khỏi đường lo?

Thohay.vn Tặng Bạn ❤️️ Đêm Mùa Hạ [Nguyễn Khuyến] ❤️️Ý Nghĩa, Phân Tích Bài Thơ

Ý Nghĩa Bài Thơ Chốn Quê

Bài thơ Chốn Quê có ý nghĩa về sự phản ánh và phê phán sự bóc lột và áp bức của thực dân Pháp và triều đình phong kiến đối với người dân. Bài thơ cũng là lời ca tụng và gửi gắm nỗi niềm của người nông dân Việt Nam, là lớp người lao động chịu nhiều khổ cực nhất trong xã hội.

5+ Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Chốn Quê Hay Nhất

Qua những bài văn mẫu cảm nhận bài thơ “Chốn Quê” bên dưới sẽ giúp bạn có nhiều ý tưởng làm văn hơn.

☛ Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Chốn Quê Hay Nhất

Nguyễn Khuyến là một nhà văn và nhà chính trị nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt Nam, có đóng góp to lớn trong mảng thơ Nôm. Bài thơ Chốn quê miêu tả lại cuộc sống của người dân nông thôn trong thời kỳ phong kiến còn tồn tại. Bài thơ khắc họa sự áp bức và khốc liệt của thực dân Tây và triều đình phong kiến đối với người dân.

  Cuộc sống của người dân hay những người nông dân trong bài thơ bị đảo lộn bởi mất mùa và nợ nần. Họ phải đối mặt với việc đánh thuế cao, phải trả nợ và chỉ được hưởng một phần công lao từ vất vả của mình. Từ những câu thơ “Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua, Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa”, Nguyễn Khuyến cho người đọc cảm nhận được sự tàn bạo của chế độ thực dân và vất vả của người nông dân.

Tác giả truyền tải tâm trạng của mình thông qua hình ảnh và ngôn ngữ tình cảm được thể hiện trong bài thơ. Ông phản cho thấy bản thân không thể chịu đựng được trước sự bóc lột và đối xử bất công từ phía chế độ phong kiến và thực dân phương Tây. Câu thơ “Cần kiệm thế mà không khá nhỉ, Bao giờ cho biết khỏi đường lo?” thể hiện sự bất mãn và lòng hối tiếc về tình hình đất nước khi ấy.

 Đọc bài thơ “Chốn quê”, người đọc không chỉ cảm nhận được sự vất vả và khó khăn của cuộc sống nông dân mà còn nhìn thấy sự bóc lột và tàn phá của thực dân và phong kiến. Tác phẩm này gợi lên trong ta một cảm giác thương cảm và phẫn uất, đồng thời khơi dậy lòng tự hào dân tộc trong mỗi người dân.

Dù bị áp bức, người nông dân vẫn không ngừng lao động, cần kiệm và hy vọng một ngày nào đó tình hình sẽ thay đổi. Từ những cảm xúc chân thật và sâu sắc của tác giả, ta nhận thấy rằng bài thơ không chỉ là một phản ánh thực tế về cuộc sống đau khổ mà người dân phải trải qua, mà còn là một lời kêu gọi đấu tranh và khát vọng thay đổi xã hội. 

     Tuy đã qua hơn một thế kỷ kể từ khi bài thơ được sáng tác, nhưng thông điệp của nó vẫn còn hiện hữu và cảm động lòng người. Từ những hình ảnh sống động và ngôn ngữ chân thật, tác giả đã thành công trong việc tả lên nỗi khổ và hy vọng của người dân nông thôn.

☛ Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Chốn Quê Ngắn Nhất

Bài thơ “Chốn Quê” của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm thơ ca về cuộc sống của người nông dân miền quê Việt Nam thời kỳ đầu thế kỷ XX. Bức tranh về nỗi khổ khó, tính kiệm kẹm và mâu thuẫn trong cuộc sống của người dân nông thôn được tác giả khắc họa một cách chân thực, đem đến sự đồng cảm và suy ngẫm sâu sắc về hoàn cảnh của họ.

Bài thơ bắt đầu với những dòng chữ đầy cay đắng: “Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua, Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa”. Điều này cho thấy cuộc sống làm ruộng của người dân nông thôn là một chuỗi thất bại, vất vả và đầy nhọc nhằn.

Nỗi khổ khó trong cuộc sống được thể hiện qua việc phải đối mặt với nợ nần, thuế quan, phải dùng nửa công đứa ở, nửa thuê bò. Tác giả cũng miêu tả cảnh đời sống thiếu thốn của người dân nông thôn khi phải sớm trưa dưa muối để qua bữa, không dám mua búa trầu chè tại chợ, cho thấy tính kiệm kẹm và khó khăn trong việc chi tiêu.

Tuy nhiên, điều đáng suy ngẫm là dù đã sống kiệm kẹm, cần cù làm việc nhưng người dân nông thôn vẫn chưa có khả năng khá hơn trong cuộc sống. Tác giả đặt câu hỏi “Cần kiệm thế mà không khá nhỉ, Bao giờ cho biết khỏi đường lo?” để thể hiện sự mâu thuẫn trong cuộc sống của người dân nông thôn.

Họ đã nỗ lực, làm việc cật lực nhưng vẫn không thoát khỏi đường đời khốn khổ, vất vả. Đó là sự bóc lột của biết bao nhiêu tầng lớp lên đầu những người dân nghèo khổ và yếu đuối. Không có ai ra mặt giúp những người thấp cổ bé họng đó cả, vậy nên họ luôn phải chịu những ách áp bức nặng nề.

Bài thơ “Chốn Quê” là một lời ca tụng và gửi gắm nỗi niềm của người nông dân Việt Nam thời bấy giờ. Đó là cuộc sống khó khăn, nhọc nhằn, nơi mà họ phải sống tích cực, đương đầu với khó khăn và bất công của xã hội.

☛ Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Chốn Quê Học Sinh Chuyên Văn

Trong những năm đầu khi phong kiến vẫn còn tồn tại, cuộc sống của những người nông dân vô cùng vất vả. Họ phải chịu hoàn cảnh 1 cổ nhiều tròng, chịu nhiều tầng áp bức bóc lột. Chốn quê của Nguyễn Khuyến thể hiện rõ hoàn cảnh trớ trêu đó.

Bài thơ miêu tả cuộc sống khó khăn của người dân nông thôn, được thể hiện qua những từ ngữ như “mấy năm làm ruộng vẫn chân thua”, “phần thuế quan Tây, phần trả nợ”, “nửa công đứa ở, nửa thuê bò”. Bài thơ cho thấy cuộc sống của người nông dân đầy gian khổ, phải đối mặt với nhiều khó khăn về mặt kinh tế, phải chịu cảnh đói khổ, thiếu thốn và không có tiền để mua thực phẩm, đồ dùng cần thiết.

Bài thơ đặt ra câu hỏi “Cần kiệm thế mà không khá nhỉ, Bao giờ cho biết khỏi đường lo?” để phản ánh sự mâu thuẫn trong cuộc sống của người dân nông thôn, khi họ phải sống kiệm kẹm, tiết kiệm nhưng vẫn không có đủ để khỏi đường lo. Điều này cho thấy sự bất công và khó khăn trong cuộc sống của người nông dân, khi công lao lao đầu đều không đủ để cải thiện đời sống.

“Chốn Quê” là một tác phẩm thơ ca đầy cảm xúc, thể hiện cái nhìn sâu sắc và góc nhìn chân thực của tác giả về cuộc sống của người dân nông thôn Việt Nam thời kỳ đầu thế kỷ XX. Đồng thời, nó cũng là lời hồi chuông cảnh tỉnh về những bất công và khó khăn mà người dân nông thôn phải đối mặt, gửi gắm thông điệp về sự cần thiết của sự công bằng xã hội và quan tâm đến cuộc sống của những người làm ruộng, đồng bào nông dân – những người góp phần xây dựng và phát triển đất nước.

Bên cạnh đó, trong bài thơ “Chốn Quê”, Nguyễn Khuyến cũng thể hiện sự đối diện và chấp nhận thực tế cuộc sống của người dân nông thôn. Họ chấp nhận số phận, không dám mua những món đồ xa xỉ như dưa muối, trầu chè, chỉ cần đủ qua bữa là đủ. Tuy nhiên, tác giả cũng lên tiếng về sự bất công và khó khăn trong việc kiếm sống của họ, với việc công việc làm ruộng vẫn chưa đủ để giúp họ thoát khỏi đường lo khốn khổ.

Tóm lại, bài thơ “Chốn Quê” của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm thơ ca sâu sắc và đầy cảm xúc, thể hiện cái nhìn chân thực về cuộc sống nông thôn và những bất công xã hội. Đồng thời, nó cũng là lời kêu gọi sự quan tâm và quan tâm đến cuộc sống của người dân nông thôn, và hy vọng vào một tương lai công bằng hơn cho xã hội.

☛ Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Chốn Quê Đặc Sắc

 Nguyễn Khuyến đã có một thời gian dài gắn bó với chốn quan trường, phục vụ cho dân cho nước. Song ông sớm từ bỏ chốn danh lợi thị phi do bất mãn với chính quyền để về quê ở ẩn. Với tư cách là một người trong cuộc ông thấu hiểu với nỗi vất vả, khốn khó của người dân dưới ách áp bức của thực dân phong kiến. Bài thơ Chốn quê được sáng tác với cảm hứng như thế. Toàn bài thơ là nỗi lòng của ông về cuộc sống khốn khổ trăm đường của nhân dân, ông thương cảm, xót xa cho những cảnh bất hạnh quần quật quanh năm mà đói nghèo vẫn đeo bám.

     Thật ra đề tài về cuộc sống khốn khó của người nông dân trước cách mạng tháng tám không hiếm. Phải nói rất nhiều, những tác phẩm truyện ngắn hiện thực của Nguyễn Công Hoan, Phạm Duy Tốn, những bài thơ của nhiều tác giả khác cùng thời với Nguyễn Khuyến đều đã phản ánh rất nhiều. Song đến với bài thơ Chốn quê của Nguyễn Khuyến chúng ta thấy một màu sắc rất riêng.

Ông khai thác trên nền đề tài vốn đã cũ để thổi vào đó luồng gió mới. Cũng là cảnh khổ, cái đói nghèo, cái sự khốn cùng của nhân dân nhưng lại được Nguyễn Khuyến diễn tả một cách nhẹ nhàng, thấm thía. Với những thi liệu rất gần gũi, quen thuộc bài thơ đã mở ra một không khí của chốn làng quê, tuy đói nghèo nhưng vẫn không túng quẫn. Đó là cái nhìn trân trọng của nhà thơ với số phận của những người nông dân trước cách mạng:

Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.

     Những câu thơ như là ông đang nói hộ nỗi niềm của những người nông dân nghèo khổ trong xã hội. Họ như đang ngồi lại với nhau để bộc bạch sự khốn khó của mình. Đó là những cảnh nghèo vất vả trong nhiều năm, bán mặt cho đất bán lưng cho trời vẫn chẳng ăn thua nghĩa là công cốc, chả bỏ ra được gì. Bởi đâu do như vậy? Chẳng phải do người lao động không cố gắng mà vì rất nhiều lý do chủ quan và khách quan khác. Thứ nhất là do mùa màng thất bát, thời tiết không ủng hộ.

Thứ hai là do thuế sưu quá nặng, thuế để nộp quan tây, thuế để nộp địa chủ. Thứ ba là công thuê mướn người làm nửa công cho đứa ở, nửa công thuê bò làm ruộng… thành thử trừ tất cả đi người nông dân chẳng còn lại là bao. Cả một mùa vất vả một nắng hai sương ngoài ruộng đồng, thứ họ nhận lại được chẳng đáng với công sức đã bỏ ra. Phép đối và liệt kê đã được sử dụng rất chuẩn chỉnh thể hiện những khó khăn chồng chất khó khăn của người lao động. Đồng thời cũng thể hiện thái độ trân trọng, cảm thông của nhà thơ với những lo toan của người nông dân.

Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Cần kiệm thế mà không khá nhỉ,
Bao giờ cho biết khỏi đường lo?

    Bốn câu thơ cuối là tiếng thở dài của người lao động. Vì cuộc sống vất vả, khốn khó nên họ đã tằn tiện tiết kiệm từng đồng hào. Bữa ăn đạm bạc chẳng có gì “sớm trưa dưa muối” để cho qua bữa, những thú vui giản dị như trầu chè cũng chẳng dám mua. Mọi thứ đã tiết kiệm hết mức có thể ấy thế mà đời sống vẫn chẳng thay đổi, chẳng khấm khá hơn được.

  Câu thơ cuối khép lại bài thơ bằng một câu hỏi tu từ “Bao giờ cho biết khỏi đường lo?” đầy tâm trạng của người lao động. Bao giờ cho hết đường lo đây, nếu xã hội vẫn bất công, chế độ thực dân phong kiến vẫn đàn áp như bây giờ thì đời sống của người nông dân sẽ chẳng bao giờ tốt hơn được.

    Bài thơ miêu tả cảnh sống khốn khó của người nông dân bằng ngòi bút chân thực. Nhà thơ như sống cùng với họ, thấu hiểu tâm trạng và nỗi niềm của họ, nói thay nỗi lòng của họ bằng một giọng thơ ngậm ngùi, chua xót. Qua đó chúng ta cũng hiểu thêm về con người Nguyễn Khuyến, một nhà thơ của làng quê Việt Nam, luôn sống và thấu hiểu người dân bằng tất cả tấm lòng của mình.

Thohay.vn Chia Sẽ ❤️️ Anh Giả Điếc [Nguyễn Khuyến] ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Ý Nghĩa

☛ Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Chốn Quê Nâng Cao

Bài thơ “Chốn quê” của tác giả Nguyễn Khuyến là một bức tranh hiện thực về sự khốn khó của người nông dân nghèo dưới thời quan Tây. Bằng những lời thơ hóm hỉnh, tác giả đã thể hiện sự bất mãn hiện thực một cách nhẹ nhàng nhưng vẫn sâu cay.

Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Cần kiệm thế mà không khá nhỉ,
Bao giờ cho biết khỏi đường lo?

Bài thơ được viết theo thể Thất ngôn bát cú đường luật. Hình ảnh người nông dân trong bài được hiện lên qua từ ngữ và hình ảnh: làm ruộng, chân thua, thuế quan Tây, trả nợ, nửa công đứa ở, nửa thuê bò, sớm trưa dưa muối, chợ búa trầu chè chẳng dám mua, cần kiệm, không khá, đường lo.

Bài thơ được tác giả Nguyễn Khuyến sử dụng phép nghệ thuật đặc trưng nhất mà người đọc có thể nhận thấy là phép điệp ngữ. Các từ “phần” và “mất” được lặp lại trong các câu thơ chính là nét đặc trưng khi mới vào đầu bài thơ. Pháp nghệ thuật điệp ngữ giúp thể hiện tâm trạng của nhà thơ về cuộc sống nông dân khó khăn, đặc biệt là trong việc bày tỏ sự đau khổ, sự mất mát, sự chịu đựng và sự bất công của đời sống nông thôn.

Những câu hỏi đối thoại như “Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua, Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa” giúp nhà thơ thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn rầu, và tạo nên một không khí u ám và đầy bi thương trong bài thơ.

Nó còn giúp nhà thơ tạo nên một sự gần gũi, dễ tiếp cận với độc giả khi gợi được những suy ngẫm và đặt độc giả vào hoàn cảnh của nhà thơ, gợi lên lòng đồng cảm và thấu hiểu về hoàn cảnh khó khăn của người nông dân, tạo nên một tác dụng gợi cảm, chân thật trong lòng độc giả. Nhờ vậy, người đọc càng dễ dàng đón nhận và thấu hiểu hơn về con người tác giả.

Viết một bình luận