Bài Thơ Nguyên Tiêu Của Bác (Nội Dung, Phân Tích, Đọc Hiểu)

Thohay.vn chia sẻ cho các bạn đọc nội dung, đọc hiểu ý nghĩa, soạn bài, giáo án và những mẫu bài văn phân tích bài thơ Nguyên Tiêu của Bác tại bài viết dưới đây.

Giới Thiệu Bài Thơ Nguyên Tiêu

Bài thơ được Bác Hồ sáng tác khi còn ở chiến khu Việt Bắc, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954). Cuối năm 1947, quân Pháp ồ ạt tấn công lên căn cứ Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não và lãnh đạo của quân ta. Nhưng với sự đồng lòng cùng sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chiến dịch Việt Bắc đã làm thất bại kế hoạch của quân địch.

Nội dung bài thơ miêu tả cảnh đêm rằm tháng Giêng với ánh trăng tròn và sáng, hòa quyện với cảnh sông nước mùa xuân. Trong không gian yên tĩnh và thơ mộng đó, Bác Hồ cùng các đồng chí bàn bạc việc quân sự. Hình ảnh thuyền chở đầy ánh trăng trở về vào nửa đêm tạo nên một bức tranh đẹp và đầy cảm xúc.

Bài thơ không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên mà còn phản ánh tinh thần lạc quan, niềm tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Bạn xem chi tiết 💛 Bài Thơ Rằm Tháng Giêng 💛 Nội Dung + Phân Tích

Nội Dung Bài Thơ Nguyên Tiêu Của Bác

Sau đây là nội dung bài thơ Nguyên Tiêu của Bác mà có thể bạn chưa biết đến.

NGUYÊN TÁC:

元宵Nguyên tiêu
今夜元宵月正圓,
春江春水接春天。
煙波深處談軍事,
夜半歸來月滿船。
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên,
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

DỊCH NGHĨA:

Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng vừa đúng độ tròn đầy,
Sắc xuân của sông, vẻ xuân của nước tiếp liền với sức xuân của bầu trời.
Bàn việc quân ở nơi thâm sâu mịt mù khói sóng.
Trở về vào lúc nửa đêm, trăng ăm ắp đầy thuyền.

DỊCH THƠ:

Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

Gửi đến bạn 💕 Bài Thơ Ngắm Trăng 💕 Nội Dung + Phân Tích

Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Nguyên Tiêu

Nhan đề bài thơ – Nguyên tiêu, nghĩa là “đêm rằm tháng giêng”, đêm rằm mở đầu của mùa xuân, của một năm. Tác giả ở đây không chỉ nhạy cảm nắm bắt cảnh đẹp của đêm trăng rằm tháng giêng mà quan trọng hơn là nắm bắt cái thời điểm đẹp nhất của đêm trăng trong hành trình vận động của nó; để biểu thị cho sức sống của tâm hồn, của con người, của đất trời: tất cả đều tươi mới, đầy sức sống.

Đọc Hiểu Bài Thơ Nguyên Tiêu

Mời bạn xem thêm đọc hiểu bài thơ Nguyên Tiêu của Bác tại phía dưới bài viết này.

1. Hai câu đầu: Cảnh thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng

– Hình ảnh ánh trăng: “nguyệt chính viên” – trăng đúng lúc tròn nhất.

–  Không gian bao la, tràn ngập ánh trăng.

– Sức sống của mùa xuân: “xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên”

– Ba chữ “xuân” nối tiếp nhau thể hiện sức xuân và sắc xuân đang trỗi dậy. Thể hiện khung cảnh tràn đầy sức sống.

=> Hai câu đầu đã khắc họa bức tranh thiên nhiên đêm rằm mùa xuân đẹp, bát ngát, rộng lớn và tràn đầy sức sống.

2. Hai câu sau: Con người cách mạng trong đêm trăng.

– Công việc: “đàm quân sự” – bàn việc quân nghĩa là bàn việc kháng chiến, những quyết định liên quan đến vận mệnh dân tộc.

– Hình ảnh “trăng ngân đầy thuyền”: gợi sức lan tỏa của ánh trăng trong đêm rằm và qua đó thể hiện ý nguyện, mong muốn vươn tới thành công trong sự nghiệp cách mạng.

=> Hai câu thơ cuối cho thấy phong thái ung dung, lạc quan, luôn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng và tâm hồn giao cảm, hòa hợp với thiên nhiên của Bác Hồ.

Tổng hợp cho bạn những bài thơ ❤️️ Hồ Chí Minh ❤️️ hay nhất

Giá Trị Nghệ Thuật Nguyên Tiêu

Bạn chưa biết giá trị nghệ thuật bài thơ Nguyên Tiêu của Bác là gì thì hãy xem ngay bài viết sau đây để biết rõ hơn nhé.

  • Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt mang phong vị Đường thi đã dựng xây nên bức tranh thiên nhiên trong đêm trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp vừa cổ điển, lãng mạn lại vừa hiện đại, đồng thời đã làm nổi bật hình tượng Bác giao hoà giữa vẻ đẹp của người chiến sĩ với thi sĩ
  • Biện pháp điệp ngữ và những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, ngôn ngữ giàu nhạc điệu, gợi cảm cộng hưởng với phong cách thơ vừa cổ điển vừa hiện đại, Bác đã vẽ nên bức tranh trăng trên sông nức tràn đầy sắc xuân.

Bố Cục Bài Thơ Nguyên Tiêu

Chia sẻ cho những bạn nào chưa biết bố cục bài thơ Nguyên Tiêu tại bài viết dưới đây nhé.

  • Phần 1 (hai câu thơ đầu): Cảnh trăng rằm tháng giêng trên sông ở chiến khu Việt Bắc
  • Phần 2 (hai câu còn lại): Hình ảnh con người

Dàn Ý Bài Thơ Nguyên Tiêu

Gửi đến bạn dàn ý bài thơ Nguyên Tiêu của Bác sau đây. Mời bạn tham khảo.

  1. Mở bài
  • Giới thiệu khái quát về tác giả Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ tài ba vĩ đại của dân tộc Việt Nam, lại vừa là một nhà thơ xuất sắc.
  • Giới thiệu về bài thơ “Rằm tháng giêng”: Bài thơ được sáng tác vào những năm kháng chiến chống Pháp. Khi ấy Hồ Chí Minh còn đang lo cho các cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp. Vì không ngủ được nên Bác bầu bạn với thiên nhiên. Bác đã viết lên bài thơ này.
  1. Thân bài

a. Cảnh trăng rằm tháng Giêng trên sông Việt Bắc.

  • Thời gian và không gian trong 2 câu thơ đầu tràn ngập vẻ đẹp và sức xuân: “Rằm xuân” là lúc mặt trăng tròn đầy, ánh trăng bao trùm vạn vật trong đêm nguyên tiêu.

⇒ Có cảm giác ánh trăng chưa bao giờ đẹp và tròn như thế.

  • Dưới ánh trăng, điệp từ “xuân” gợi hình ảnh thiên nhiên tràn đầy sức sống của mùa xuân: Cây cối, sông nước, bầu trời, mây gió,… trong đêm rằm đầu năm .
  • Cảnh mở rộng với không gian ba chiều: vừa có chiều cao của ánh trăng vừa có chiều rộng của sông nước tiếp giáp với bầu trời → Tạo ra không gian bao la vô tận.
  • Hai câu thơ không tả mà giàu sức gợi hình ảnh, gợi màu sắc dù nó là bức tranh về cảnh khuya chỉ có 2 gam màu trắng và đen, sáng tối

⇒ Người đọc thích thú khi hình dung cảnh đêm xuân đẹp bao nhiêu thì càng cảm phục cái tài thơ của Bác bấy nhiêu.

b. Hình ảnh con người.

  • Trong khung cảnh nên thơ ấy, giữa nơi mịt mù khói sóng Bác Hồ đang làm gì?
  • Ánh trăng tuyệt đẹp kia không làm Bác xao lãng việc nước, việc quân mà trên cái nền thiên nhiên tươi đẹp đó, Người vẫn một lòng hướng về đồng bào của mình.

 – “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”: Khuya rồi mà trăng vẫn “mãn thuyền” vẫn ngân nga đầy thuyền. Trăng tràn ngập khắp nơi, tràn cả không gian rộng lớn, vẫn chờ, vẫn đợi cho dù Bác có bận đến đâu.

  • Thuyền lờ lững xuôi dòng trong đêm có trăng đồng hành như một người bạn chung thủy sâu sắc. Ở đây ta thấy được sự giao cảm giữa thiên nhiên với thiên nhiên và giữa con người với con người. Điều đó làm cho bức tranh thơ trở nên có hơi thở, có linh hồn.

=> Trăng gắn bó với người nghệ sĩ biết thưởng lãm, biết trân trọng vẻ đẹp của trăng. Trong hoàn cảnh đất nước còn khó khăn gian khổ, ta vẫn cảm nhận sự hòa hợp kì diệu giữa cảnh và người đó là một phong thái ung dung, một tinh thần lạc quan của vị lãnh tụ vĩ đại.

  1. Kết bài
  • Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ
  • Nội dung: vẻ đẹp đêm trăng rằm tháng Giêng ở Tây Bắc và tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước và phong thái ung dung, lạc quan của Bác
  • Nghệ thuật: thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, hình ảnh thơ mang màu sắc cổ điển mà bình dị, gần gũi…
  • Bài thơ “Rằm tháng giêng” giúp em hình dung một cách cụ thể bức tranh đêm trăng trên sông nước thật đẹp. Hiểu thêm tấm lòng yêu dân, yêu nước, yêu thiên nhiên sâu sắc của vị lãnh tụ vĩ đại, vị cha già kính yêu của dân tộc.

Bạn xem chi tiết 👉 Tự Khuyên Mình Của Hồ Chí Minh

Sơ Đồ Tư Duy Nguyên Tiêu

Thohay.vn chia sẻ thêm sơ đồ tư duy bài thơ Nguyên Tiêu của Bác cho những bạn nào cần tại bài viết sau đây nhé.

Sơ đồ tư duy Nguyên Tiêu
Sơ đồ tư duy Nguyên Tiêu

Soạn Bài Nguyên Tiêu

Hướng dẫn cho những bạn nào chưa biết cách soạn bài bài thơ Nguyên Tiêu của Bác sau đây nhé.

Câu 1: Phần phiên âm của bài thơ được viết theo thể thơ nào?

 A. Thất ngôn bát cú.

 B. Thất ngôn tứ tuyệt.

 C. Lục bát.

 D. Ngũ ngôn tứ tuyệt.

Đáp án: B. 

Câu 2: Nhận định nào dưới đây thể hiện đúng nhất giá trị nội dung của bài thơ Nguyên tiêu?

 A. Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, sự lo lắng cho đất nước của Bác Hồ.

 B. Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm, lòng yêu nước sâu nặng và phong thái ung dung, lạc quan của Bác Hồ.

 C. Bài thơ tái hiện khung cảnh đêm trăng huyền ảo ở chiến khu Việt Bắc. Qua đó phản ánh vẻ đẹp của chiến khu cùng nỗi suy tư của Bác về việc quân việc nước.

 D. Bài thơ thể hiện tâm thế ung dung, tự do tự tại của Bác trước cảnh đẹp đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc.

Đáp án: B

Câu 3: Bài thơ trên được viết theo phương thức biểu đạt nào?

 A. Tự sự

 B. Miêu tả

 C. Biểu cảm

 D. Nghị luận

Đáp án: C

Tặng bạn 👉 Những Bài Thơ Về Trăng Của Bác

Giáo Án Nguyên Tiêu

Sau đây là giáo án bài thơ Nguyên Tiêu của Bác cho những bạn nào đang cần nhé.

I.Mục tiêu.

  • Cảm nhận và phân tích được tình yêu TN gắn liền với lòng yêu nước, phong thái ung dung của HCM.
  • Biết được thể thơ và chỉ ra được nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ.
  • Tích hợp: văn biểu cảm.
  • Rèn kĩ năng: đọc, phân tích thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, đối chiếu bản dịch và phiên âm chữ Hán, so sánh đối chiếu với các bài thơ Đường và thơ Đường luật đã học.

II.chuẩn bị.

  • GV: soạn bài, nghiên cứu…
  • HS: học bài cũ, soạn bài mới…

III. Tiến trình.

  1. Ổn định tổ chức.
  2. Kiểm tra bài cũ.
  3. Bài mới.
  4. Củng cố, luyện tập
  5. Hướng dẫn về nhà

Xem thêm chùm 👉 Thơ Về Sự Giản Dị Của Bác

5+ Mẫu Phân Tích Bài Thơ Nguyên Tiêu Hay Nhất

Thohay.vn tổng hợp cho các bạn đọc 5+ mẫu phân tích bài thơ Nguyên Tiêu của Bác hay nhất mà chúng tôi đã chọn lọc tại bài viết sau đây. Mời bạn tham khảo.

Phân Tích Bài Thơ Nguyên Tiêu Của Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh – cái tên mà mỗi nhắc đến trong lòng mỗi chúng ta lại có những cảm xúc riêng. Bác không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại, vị cha già kính yêu giàu lòng nhân ái mà Bác còn là nhà thơ, nhà văn lỗi lạc của dân tộc Việt Nam ta.

Trong thơ Bác, trăng luôn là đề tài bất tận để tạo nên vẻ đẹp riêng trong thơ Người. Và Rằm tháng giêng là một bài thơ như vậy. Qua bài thơ, ta có thể thấy được tình yêu thiên nhiên hoà quyện với tình yêu quê hương, đất nước và niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

Rằm tháng giêng là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật được viết bằng chữ Hán. Tác phẩm viết về đề tài thiên nhiên, cảm hứng sáng tác bài thơ bắt nguồn từ cảnh trăng sáng ở chiến khu Việt Bắc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Bài thơ được viết năm 1948 xuất hiện trên báo “Cứu quốc” như truyền thêm cho quân và dân ta tình yêu thương vô bờ đối với quê hương đất nước, đồng thời đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm, lòng yêu nước sâu nặng của Bác Hồ.

Mở đầu bài thơ là khung cảnh tuyệt vời trong đêm nguyên tiêu. Thời gian và không gian trong 2 câu thơ đầu tràn ngập vẻ đẹp và sức xuân:

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên

Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên

( Rằm xuân lồng lộng trăng soi

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)

Ánh trăng đêm rằm tháng giêng mang vẻ đẹp khác thường vì trời đất lúc này đang vào xuân. Trong đêm rằm, mặt trăng tròn đầy, ánh trăng bao trùm lên vạn vật. Ánh trăng khiến cho cảnh vật mang vẻ đẹp thật hữu tình và ta có cảm giác như trăng chưa bao giờ đẹp và tròn như vậy.

Quê hương, đất nước bao trùm là một màu xanh bát ngát của xuân giang, dòng sông lúc này như được tiếp thêm thứ sức sống mới dưới không khí mát lành của mùa xuân và tiếp nối đó màu xanh của xuân thiên. Mùa xuân là mùa của lộc non. Xuân phơi phới có ở muôn nẻo, xuân của dòng sông, dòng nước và xuân trong cả không gian cao rộng của bầu trời.

Từ “xuân” được điệp lại ba lần làm nổi bật lên vẻ đẹp của cây cối, sông nước, bầu trời, mây gió,… trong đêm rằm đầu năm. Chỉ với một chữ “tiếp” mà câu thơ như bừng sáng. Câu thơ trở nên có hồn và sống động hơn. Cả dòng sông và bầu trời như đang nối liền với nhau tạo ra không gian bao la đến vô tận.

Hai câu thơ không tả mà giàu sức gợi hình ảnh, gợi màu sắc dù nó là bức tranh về cảnh khuya có hai gam màu trắng và đen, sáng và tối. Người đọc thích thú khi hình dung cảnh đêm xuân đẹp bao nhiêu thì càng cảm phục cái tài thơ của Bác bấy nhiêu.

Trên khung cảnh thiên nhiên vào đêm rằm tháng giêng hình ảnh con người xuất hiện thật thú vị, ta có thể cảm nhận rõ nét vẻ đẹp tâm hồn con người trên nền thiên nhiên tuyệt diệu:

Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

( Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.)

Trên một chiếc thuyền nhỏ trôi lênh đênh giữa dòng sông, Bác đang cùng với những người chiến sĩ của mình bàn bạc việc nước. Hình ảnh “Yên ba thâm xứ” gợi lên không gian sông nước mênh mang, sâu thẳm mịt mù khói sóng.

Từ ngàn xưa, khói sóng thường là không gian gợi nỗi sầu li hương, khoảnh khắc nhớ nhà của những tao nhân mặc khách. Thế nhưng trong câu thơ này “yên ba thâm sứ” được kết hợp với “đàm quân sự” đã hoàn toàn xóa đi nội dung của ý thơ xưa.

Tình yêu thiên nhiên hòa lẫn tình yêu và trách nhiệm với quê hương, đất nước. Ánh trăng kia như đang đồng cảm cho nỗi vất vả, lo toan của người thi nhân- người chiến sĩ cộng sản. Có lẽ từ đây, ta đã đủ nhận ra được tinh thàn trách nhiệm và mong muốn đất nước được độc lập có Bác lớn lao như thế nào. Đêm đã khuya nhưng vầng trăng vẫn luôn dõi theo Bác, đợi Bác trở về:

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền

Trời khuya vậy mà ánh sáng của trăng vẫn tràn ngập khắp nơi, trăng như đang đồng hành cùng với thi nhân. Hình ảnh “trăng ngân đầy thuyền” thật đẹp và kì lạ, ánh trăng đang soi dòng nước hay ánh trăng đã rơi xuống mạn thuyền để cùng với thi nhân bạc bạc việc chung của đất nước.

Trăng gắn bó với người nghệ sĩ biết thưởng thức vẻ đẹp của trăng và chính người nghệ sĩ phải có tâm hồn giao hoà, lãng mạn thì mới có thể nhìn thấy trăng đang đồng hành với mình. Và chỉ sau khi bàn bạc việc nước xong xuôi, Người mới có thời gian ngắm nhìn thiên nhiên bằng một trái tim say mê nhất.

Như vậy, chúng ta có thể thấy được một tâm hồn thi sĩ cao đẹp của Bác Hồ. Hai câu thơ vừa mang nét hiện đại vừa mang nét cổ điển, chất hiện đại đó chính là tinh thần thép, là chất chiến đấu của Bác:

Nay ở trong thơ nên có thép

Nhà thơ cũng phải biết xung phong

(Nhật kí trong tù)

Bài thơ đã khép lại nhưng ấn tượng về bức tranh thiên nhiên trong đêm nguyên tiêu cùng tâm hồn yêu thiên nhiên, trách nhiệm tinh thần với dân tộc, đất nước của Bác vẫn vẹn nguyên trong lòng mỗi độc giả.

Như vậy, chỉ qua bốn câu thơ ngắn gọn được viết theo thể thể thơ thất ngôn tứ tuyệt mang phong vị Đường thi đã dựng xây nên bức tranh thiên nhiên trong đêm trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp vừa cổ điển, lãng mạn lại vừa hiện đại, đồng thời đã làm nổi bật hình tượng Bác giao hoà giữa vẻ đẹp của người chiến sĩ với thi sĩ.

Bằng biện pháp điệp ngữ và những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, ngôn ngữ giàu nhạc điệu, gợi cảm cộng hưởng với phong cách thơ vừa cổ điển vừa hiện đại, Bác đã vẽ nên bức tranh trăng trên sông nước tràn đầy sắc xuân. Qua đây, ta cũng nhận ra được tâm hồn yêu thiên nhiên và phong thái lạc quan của người chiến sĩ cộng sản.

Tóm lại, Rằm tháng giêng có thể được xem là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật đặc sắc, giàu ý nghĩa. Bài thơ giúp ta hình dung một cách cụ thể bức tranh đêm trăng trên sông nước thật đẹp, hiểu thêm tấm lòng yêu dân, yêu nước, yêu thiên nhiên sâu sắc của vị lãnh tụ vĩ đại, phong thái ung dung, tự tại, lạc quan của vị cha già kính yêu của dân tộc.

Chia sẻ các cảm nhận về 🔰Bài Thơ Không Ngủ Được Của Bác🔰 Nội Dung, Nghệ Thuật

Phân Tích Bài Thơ Nguyên Tiêu Ngắn Gọn

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cách mạng, mà còn là một tác giả lớn. Các tác phẩm của Người để lại nhiều giá trị, trong đó có bài thơ Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng).

Bài thơ được Bác Hồ sáng tác khi còn ở chiến khu Việt Bắc, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954). Cuối năm 1947, quân Pháp ồ ạt tấn công lên căn cứ Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não và lãnh đạo của quân ta. Nhưng với sự đồng lòng cùng sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chiến dịch Việt Bắc đã làm thất bại kế hoạch của quân địch.

“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,”

(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất)

Thiên nhiên Việt Bắc được khắc họa trong một đêm trăng, nhưng không phải là đêm trăng bình thường mà vào rằm tháng giêng. Trăng lúc này đang ở độ tròn trịa, đẹp nhất – “nguyệt chính viên”.

“Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên;”

(Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)

Điệp từ “xuân” nhằm nhấn mạnh sức sống và sắc xuân đang trỗi dậy khắp mọi không gian từ cao đến thấp. Từ “tiếp” gợi ra cảm giác trời và đất đang giao hòa bởi sắc xuân.

Ở trong bức tranh thiên nhiên đó, con người đã xuất hiện với công việc của mình:

“Yên ba thâm sứ đàm quân sự,”

(Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân)

Trong hoàn cảnh bấy giờ, các hoạt động cách mạng phải diễn ra một cách bí mật. Bác Hồ cùng với các chiến sĩ mới lựa chọn thời điểm đêm khuya để bàn bạc việc quân – một công việc hệ trọng của đất nước. Trong thơ cổ, con người xuất hiện với vẻ nhỏ bé giữa thiên nhiên rộng lớn. Nhưng trong thơ Bác, con người trở thành trung tâm của bức tranh thiên nhiên.

“Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”

(Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền)

Do quá mải mê với công việc, khi trở về thì cũng là lúc đêm đã khuya. Ánh trăng càng thêm sáng hơn, rõ hơn. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” thật độc đáo, thể hiện sức lan tỏa mạnh mẽ của ánh trăng.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật mang đậm nét cổ điển. Nhà thơ còn khéo léo trong việc sử dụng các biện pháp tu từ, giọng thơ đầy lạc quan, vui tươi. Hình ảnh thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng rằm tháng giêng cùng với tâm thế ung dung, lạc quan của người chiến sĩ cách mạng hiện lên vô cùng chân thực.

Rằm tháng giêng mang đậm phong cách của Hồ Chí Minh. Bài thơ đã bộc lộ tình yêu thiên nhiên, tấm lòng yêu nước và niềm tin chiến thắng vào sự nghiệp cách mạng của đất nước.

Tặng bạn trọn bộ 🌸Thơ Của Bác Hồ ❤️️ Tuyển Tập 45+ Bài Hay Nhất

Phân Tích Nguyên Tiêu Hay

Nguyên tiêu là bài thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh được viết trong thời gian kháng chiến chống Pháp tại chiến khu Việt Bắc. Sau chiến thắng Việt Bắc, Thu Đông 1947 sang Xuân Hè 1948 quân ta lại thắng lớn trên đường số 4. Niềm vui thắng lợi tràn ngập tiền tuyến, hậu phương. Trong không khí sôi động và phấn chấn ấy bài thơ Nguyên tiêu của Bác Hồ xuất hiện trên báo Cứu quốc như một đoá hoa xuân ngọt ngào rực rỡ sắc hương.

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên

Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên

Yên ba thâm xứ đàm quân sự

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền

Mở đầu bài thơ là cảnh tuyệt vời trong đêm nguyên tiêu. Trên bầu trời vầng trăng tròn vành vạnh:

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên

(Rằm xuân lồng lộng trăng soi)

Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường vì có hơi thở của mùa xuân. Đêm rằm, trăng sáng ánh trăng lồng lộng dát vàng trên nền trời, phủ khắp chốn trần gian, ánh trăng tràn mọi nẻo… Ánh trăng làm cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình lung linh sinh sắc. Đất nước, quê hương bao la một màu xanh bát ngát, màu xanh lấp lánh của xuân giang, dòng sông như được tiếp thêm sức sống mới dưới khí trời mát dịu. Dòng sông trở nên đẹp hơn, hữu tình hơn, dòng sông xanh xuân thủy và tiếp nối với màu xanh của xuân thiên.

Mùa xuân là mùa của chồi non, sự sống. Xuân phơi phới có ở khắp mọi nơi, xuân của dòng sông, dòng nước, không gian cao rộng của bầu trời. Khí xuân tràn ngập sự sống, ba từ xuân làm nổi bật cái thần của cảnh vật, sông nước và bầu trời:

Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên

(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)

Xuân trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ và vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả màu xanh của sông nước, đất trời vào xuân. Khi vào xuân, con người tạo vật như bừng tỉnh, rạo rực trong cuộc sống mới. Nhà thơ Thanh Hải đã từng cảm nhận mùa xuân của thiên nhiên và đất trời qua những tín hiệu đặc sắc:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi! Con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng…

(Mùa xuân nho nhỏ)

Xuân đến, tiếng chim hót vang lừng, giọt mùa xuân long lanh do đất trời ban tặng làm cho sự sống rạo rực hơn và bất tận. Trong câu thơ của Bác xuân còn gợi tả màu xanh của sông nước, trời đất vào xuân, sức sống mãnh liệt, trẻ trung căng tràn nhựa sống. Niềm vui sướng tự hào phơi phới của Bác đang ngây ngất say sưa giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử – đất nước đang anh dũng kháng chiến.

Với Bác, yêu trăng, yêu xuân chính là yêu cuộc đời. Trái tim mênh mông của người chan hoà với thiên nhiên, sông núi, hoa lá cỏ cây thật hữu tình. Có trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa, trăng vào cửa sổ đòi thơ trong niềm vui thắng trận. Và xem sách chim rừng vào cửa đậu – phê văn hoa núi ghé nghiêng soi. Thiên nhiên trong thơ Bác thật phong phú và chan chứa chất thơ. Đến hai câu thơ cuối, ta thấy cảm nhận về dòng sông, về khói sóng, và con thuyền được nâng lên một mức:

Yên ba thâm xứ đàm quân sự

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền

Nhớ ánh trăng ngày nào khi Bác còn bị giam dưới ngục lạnh nơi đất khách quê người (1942-1943) thì đêm nay – đêm rằm tháng giêng (1948) lại bắt gặp ánh trăng nơi chiến khu Việt Bắc. Con thuyền xuôi mái giữa dòng sông trăng, tựa mạn thuyền người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh đang đàm quân sự. Ánh trăng đêm này là ánh trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm được nhân dân đón đợi với bao tình cảm nồng hậu. Trăng đêm nay không phải là ánh trăng bình thường trước sân nhà, đầu ngõ.

Bác thưởng trăng trên khói sóng, người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các bậc tao nhân mặc khách ngày xưa mà còn là con người hành động, người chiến sĩ cộng sản đánh giặc. Vị lãnh tụ đang bàn bạc việc quân trên con thuyền nhẹ lướt giữa sông nước trời xuân đây là trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt, yên ba là khói sóng, thi liệu cổ của Đường thi.

Vậy là câu thơ có nét cổ điển và có nét hiện đại, chất hiện đại đó chính chất thép, chất chiến đấu của người chiến sĩ cộng sản: Nay ở trong thơ nên có thép – Nhà thơ cũng phải biết xung phong. Sau quãng thời gian bàn bạc việc quân, đêm đã về khuya, nửa đêm (dạ bán). Con thuyền kháng chiến trở thành con thuyền trăng trên vời sông nước mênh mông:

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền

(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)

Hình ảnh nguyệt mãn thuyền gợi cho chúng ta nhớ đến những vần thơ cổ thi hoa lệ:

Thuyền mấy lá đông, tây lặng ngắt

Một vầng trăng trong vắt lòng sông…

(Bạch Cư Dị)

Nước biếc non xanh thuyền gối bãi

Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu

(Nguyễn Trãi)

Trở lại bài thơ Nguyên tiêu ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ ẩn hiện sau màn sương khói. Trên chiếc thuyền hình ảnh thi sĩ – chiến sĩ hiện lên thật đẹp đẽ với bàn bạc việc quân trong đêm trăng, tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, quyết chiến đấu giành lại độc lập tự do cho dân tộc.

Nguyên tiêu là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, mang phong vị Đường thi. Bài thơ có nét thơ cổ thể: con thuyền, trăng, sóng, xuân, nước xuân, trời xuân, khói sóng… điệu thơ thanh nhẹ. Trong khung cảnh ấy chất chiến sĩ là trung tâm. Bài thơ như một đoá hoa xuân, tinh hoa kết tụ tâm hồn trí tuệ, đạo đức Hồ Chí Minh.

Văn là người, thơ là tấm lòng. Bài thơ này thể hiện tình yêu thiên nhiên đất nước, đồng thời bộc lộ tình yêu nước sâu sắc. Cốt cách thi sĩ hoà quyện chất chiến sĩ chất chứa đầy ắp trên chiếc thuyền kháng chiến đang tiến nhanh về bến bờ độc lập tự do.

Mời bạn đọc thêm 🌱Bài Thơ Bác Hồ Của Em ❤️️ý nghĩa

Phân Tích Bài Thơ Nguyên Tiêu Của Bác Chọn Lọc

“Nguyên tiêu” nằm trong chùm thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh viết trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, tại chiến khu Việt Bắc: “Nguyên Tiêu”,… Sau chiến thắng Việt Bắc, thu đông 1947, sang xuân hè 1948, quân ta lại thắng lớn trên đường số Bốn. Niềm vui thắng trận tràn ngập tiền tuyến hậu phương.

Trong không khí sôi động và phấn chấn ấy, bài thơ của Bác Hồ xuất hiện trên báo “Cứu quốc” như một đóa hoa xuân ngào ngạt và rực rỡ sắc hương. Xuân Thủy đã dịch khá hay bài thơ này. Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, dịch giả đã chuyển thành thơ lục bát:

“Rằm xuân lồng lộn trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”

Đêm nguyên tiêu trăng sáng ngời trên một không gian bao la. Bài thơ nói lên cảm xúc và niềm tin dào dạt trong tâm hồn lãnh tụ đêm nguyên tiêu lịch sử.

Hai câu đầu vẽ lên cảnh đẹp tuyệt vời đêm nguyên tiêu. Trên bầu Trời, vầng trăng vừa tròn (nguyệt chính viên).Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường vì mùa xuân làm cho trăng thêm đẹp. Và trăng cũng làm cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình. Đất nước quê hương bao la một màu xanh bát ngát. Màu xanh lấp lánh của “xuân giang”, màu xanh ngọc bích của “xuân thuỷ” tiếp nối với màu xanh thiên thanh của “xuân thiên”. Ba từ “xuân” trong câu thơ thứ hai là những nét vẽ đặc sắc làm nổi bật cái “thần” của cảnh vật sông, nước và bầu Trời:

“Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên”
(Sông xuân nước lẫn mầu trời thêm “Xuân”)

“Xuân” trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả màu xanh của sông nước, đất Trời vào xuân. Nó thể hiện vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong lửa đạn vẫn dào dạt một sức sống trẻ trung, tiềm tàng. Ngoài giá trị miêu tả cảnh đẹp đêm nguyên tiêu, vần thơ còn biểu hiện tinh tế cảm xúc tự hào, niềm vui sướng mênh mông của một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử, đất nước đang anh dũng kháng chiến.

Với Bác Hồ, yêu vẻ đẹp nguyên tiêu, yêu thiên nhiên cũng là yêu đời tha thiết. Bác yêu thiên nhiên nên sông, núi, cỏ cây, hoa lá, tạo vật trong thơ Bác rất hữu tình. Có “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”. Có “Trăng vào cửa sổ đòi thơ” trong niềm vui thắng trận. Bác yêu hoa núi, chim rừng Việt Bắc: “Xem sách, chim rừng vào cửa đậu – Phê văn hóa núi ghé nghiên soi”, yêu ngọn gió, giọt mưa báo mùa thu chợt đến… Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh là một trong những yếu tố tạo nên sắc trữ tình và màu sắc cổ điển.

Hai câu thơ cuối nói về dòng sông, khói sóng và con thuyền trăng:

“Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”

Ánh trăng ngày trước (1942-1943) chiếu vào nhà ngục lạnh nơi đất khách quê người, thì đêm nguyên tiêu này (1948), trăng lại soi xuống con thuyền trong đó Bác đang “đàm quân sự” (bàn bạc việc quân). Trăng nguyên tiêu là trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm, được nhân dân đón đợi với bao hi vọng, bao tình cảm nồng hậu.

Lại nữa, trường hợp thưởng trăng không phải là trường hợp bình thường diễn ra trên sân nhà, ngõ xóm, hay “đăng lâu vọng nguyệt”… mà là thưởng trăng trên khói sóng, nơi “yên ba thâm xứ” – cõi sâu kín, bí mật trên dòng sông, giữa núi rừng chiến khu bao la!. Người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các tao nhân mặc khách ngày xưa, mà còn là con người hành động, người chiến sĩ đánh giặc, vị lãnh tụ đang “bàn bạc quân” để lãnh đạo nhân dân kháng chiến, bảo vệ non sông đất nước.

Quả thật, đây là một trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt: “Yên ba thâm xứ đàm quân sự”. “Yên ba” là khói sóng, một thi liệu cổ được Bác Hồ vận dụng rất sáng tạo làm cho bài thơ “Nguyên tiêu” mang phong vị Đường thi. Ba chữ “Đàm quân sự” đã khu biệt thơ Bác với thơ của người xưa, làm cho văn thơ mang màu sắc hiện đại và không khí lịch sử của thời đại.

Sau những canh dài bàn bạc việc quân căng thẳng nơi khói sóng sâu kín, Trời đã về khuya. Nửa đêm (dạ bán), Bác trở về bến, tâm hồn sảng khoái vô cùng. Con thuyền trở thành con thuyền trăng, nhẹ bơi trên sông nước mênh mông, chở đầy ánh trăng vàng:

“Dạ bán quy lai, nguyệt mãn thuyền”
(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)

“Nguyệt mãn thuyền” là một hình ảnh rất đẹp và trữ tình nó làm ta nhớ đến những vần thơ cổ thi hoa lệ:

– “Bạn chơi năm ngoái nào đâu tá?”
Trăng nước như xưa chín với mười”

(Triệu Hỗ – Đường thi)

– “Thuyền mấy lá đông, tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông…”

(Bạch Cư Dị)

– “Nước biếc non xanh thuyền gối bãi,
Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu”

(Nguyễn Trãi)

Trở lại bài thơ Hồ Chí Minh, ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ trên sông, ẩn hiện trong màn khói sóng, mang theo bao ánh trăng, hiện lên một thủ lĩnh quân sự giàu hồn thơ đang lãnh đạo quân dân ta kháng chiến để giành lại độc lập, tự do, để giữ mãi những đêm nguyên tiêu trăng đầy Trời quê hương thanh bình. Hình ảnh con thuyền trăng trong bài thơ này cho thấy tâm hồn Bác Hồ rất yêu thiên nhiên, trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.

Qua bài thơ “Nguyên tiêu”, ta có thể nói, trăng nước trong thơ Bác rất đẹp. Chính vầng trăng ấy đã thể hiện phong thái ung dung, tâm hồn thanh cao của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc mang cốt cách nghệ sĩ, nhà hiền triết phương Đông.

“Nguyên tiêu” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, man mác phong vị Đường thi. Bài thơ có đầy đủ những yếu tố của một bài thơ cổ: một con thuyền, một vầng trăng, có sông xuân, nước xuân, Trời xuân, có khói sóng. Điệu thơ thanh nhẹ. Không gian bao la, yên tĩnh… Chỉ khác một điều, ở giữa khung cảnh thiên nhiên hữu tình ấy, nhà thơ không có rượu và hoa để thường trăng, không đàm đạo thi phú từ chương, mà chỉ “đàm quân sự”.

Bài thơ như một đóa hoa xuân đẹp trong vườn hoa dân tộc, là tinh hoa kết tụ từ tâm hồn, trí tuệ, đạo đức của Hồ Chí Minh.

Văn tức là người. Thơ là tấm lòng, là tiếng lòng cộng hưởng từ một người với muôn người. Thơ Bác Hồ tuy nói đến “trăng, hoa, tuyết, nguyệt..” nhưng đã phản ánh tâm tư, tình cảm, lẽ sống cao đẹp của Bác. Bác yêu nước, thương dân tha thiết nên Bác càng yêu đêm nguyên tiêu với vầng trăng xuân thơ mộng. Trong kháng chiến gian khổ, Bác đã hướng tới vầng trăng rằm tháng giêng, hướng tới bầu Trời xuân với tâm hồn trong sáng và phong thái ung dung.

Cuộc đời không thể thiếu vầng trăng. Biết yêu trăng cũng là biết sống đẹp. “Nguyên tiêu” là một bài thơ trăng tuyệt bút của nhà thơ Hồ Chí Minh. Con thuyền chở đầy ánh trăng cũng là con thuyền kháng chiến đang hướng tới chiến công và niềm vui thắng trận.

Chia sẻ thêm các 🌸Bài Thơ Về Bác Hồ Cho Trẻ Mầm Non ❤️️Hay nhất

Phân Tích Nguyên Tiêu Đặc Sắc

Bài thơ “Nguyên tiêu” (Rằm tháng giêng) là một trong những bài thơ nổi tiếng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ đã khắc họa được khung cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc trong đêm trăng cũng như qua đó bày tỏ tấm lòng yêu nước sâu nặng của Người:

“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”

Có lẽ hình ảnh ánh trăng không còn xa lạ gì trong thơ ca. Ta đã từng bắt gặp ánh trăng nhớ trong thơ Lý Bạch:

“Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.”

(Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương)

Ánh trăng trong thơ Lý Bạch dường như mang nỗi nhớ về quê hương. Còn trong “Rằm tháng giêng” của Hồ Chí Minh, ánh trăng lại mang một ý nghĩa khác.

Nhà thơ đã xây dựng hình ảnh ánh trăng trong một đêm rằm tháng giêng với vẻ đẹp “nguyệt chính viên” – đó là lúc trăng ở vào độ tròn đầy và sáng nhất. Ánh trăng trong đêm rằm vốn đã đẹp nhưng ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng lại đẹp hơn cả.

Không chỉ vậy, sắc xuân từ ánh trăng giống như đang bao trùm lên mọi cảnh vật khiến cho “sông xuân”, “nước xuân” và “trời cũng thêm xuân”. Từ “xuân” được điệp lại tới ba lần như muốn khẳng định sắc xuân đang lan tỏa khắp không gian.

Không gian ấy mở rộng ra cả ba chiều: chiều cao, chiều rộng và chiều sâu làm cho cảnh vật thiên nhiên trở nên rộng lớn hơn chứ không bó hẹp. Sự nối tiếp giữa “sông xuân”, “nước xuân” và “trời xuân” cũng gợi ra vẻ đẹp giao hòa giữa bầu trời và mặt đất đều tràn ngập ánh trăng.

Trong bức tranh thiên nhiên đầy thơ mộng đó, người chiến sĩ cách mạng vẫn không quên đi một nhiệm vụ quan trọng. Những năm tháng chiến tranh, mọi công việc hoạt động cách mạng đều phải diễn ra một cách âm thầm và kín đáo.

Chính vì vậy, những người chiến sĩ cách mạng đã lựa chọn thời điểm trong đêm khuya để bàn bạc việc quân việc nước. Vì quá say sưa bàn luận mà họ dường như quên mất đi thời gian, để đến khi công việc đã xong xuôi mới nhận ra đêm đã khuya. Và ánh trăng lúc này cũng là sáng nhất.

Hình ảnh “con thuyền” ẩn dụ cho sự thắng lợi của cách mạng. Con thuyền chứa đầy ánh trăng giống như thắng lợi của cách mạng không còn xa nữa. Đó chính là niềm tin của Bác Hồ vào sự nghiệp đấu tranh của dân tộc.

Như vậy, bài thơ “Rằm tháng giêng” đã khắc họa được bức tranh thiên nhiên trong đêm rằm tháng giêng đầy thơ mộng cùng tình yêu nước sâu sắc của Hồ Chí Minh. Không chỉ vậy, người đọc cũng thấy được một tâm hồn thi sĩ đầy tinh tế nhạy cảm của Bác Hồ.

Chia sẻ chi tiết 💚💚 Bài Thơ Cháu Thăm Nhà Bác 💚💚

Viết một bình luận