Chiều Sông Thương: Nội Dung Bài Thơ + Nghệ Thuật + Phân Tích

Chiều Sông Thương ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích ✅ Chia Sẻ Ý Nghĩa, Gợi Ý Cách Soạn Bài, Đọc Hiểu Tác Phẩm Chiều Sông Thương.

Nội Dung Bài Thơ Chiều Sông Thương

Nội dung bài thơ Chiều sông Thương khắc họa cảnh chiều thu đẹp mộng mơ bên sông Thương dưới con mắt của đứa con xa quê trở về say sưa ngắm nhìn cảnh vật của quê hương mình.

Chiều sông Thương
Tác giả: Hữu Thỉnh

Đi suốt cả ngày thu
Vẫn chưa về tới ngõ
Dùng dằng hoa quan họ
Nở tím bên sông Thương

Nước vẫn nước đôi dòng
Chiều vẫn chiều lưỡi hái
Những gì sông muốn nói
Cánh buồm đang hát lên

Đám mây trên Việt Yên
Rủ bóng về Bố Hạ
Lúa cúi mình giấu quả
Ruộng bời con gió xanh

Nước màu đang chảy ngoan
Giữa lòng mương máng nổi
Mạ đã thò lá mới
Trên lớp bùn sếnh sang

Cho sắc mặt mùa màng
Đất quê mình thịnh vượng
Những gì ta gửi gắm
Sắp vàng hoe bốn bên

Hạt phù sa rất quen
Sao mà như cổ tích
Mấy cô coi máy nước
Mắt dài như dao cau

Ôi con sông màu nâu
Ôi con sông màu biếc
Dâng cho mùa sắp gặt
Bồi cho mùa phôi phai

Nắng thu đang trải đầy
Đã trăng non múi bưởi
Bên cầu con nghé đợi
Cả chiều thu sang sông.

Đọc hiểu 🌊Bài Thơ Gửi Em Ở Cuối Sông Hồng🌊 Nội Dung, Cảm Nhận

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Chiều Sông Thương

Cùng Thohay.vn tìm hiểu về hoàn cảnh sáng tác bài thơ Chiều sông Thương ngay sau đây:

  • Tác phẩm Chiều Sông Thương được trích trong tập Tiếng Hát Trong Rừng đặc sắc của nhà thơ Hữu Thỉnh với những cảm xúc bâng khuâng, nhẹ nhàng, thoáng hiện cùng một số hình ảnh ẩn dụ đẹp, sáng tạo, thi vị.
  • Bài thơ “Chiều sông Thương” được Hữu Thỉnh sáng tác vào tháng 10 năm 1973, in trong tập thơ ‘Từ chiến hào tới thành phố”…

Ý Nghĩa Bài Thơ Chiều Sông Thương

Bài thơ Chiều sông Thương diễn tả cuộc sống lao động, sinh hoạt tươi vui, yên bình của một vùng quê Bắc Bộ trong buổi chiều thu trong trẻo. Qua đó thể hiện sức sống của miền quê Quan họ bên dòng sông Thương cùng nỗi niềm bâng khuâng của người đi xa về “thăm quê nhà một chiều thư êm ái”.

Chia sẻ thêm tác phẩm🌿Đôi Mắt Người Sơn Tây🌿 Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích

Đọc Hiểu Bài Thơ Chiều Sông Thương Lớp 7

Chia sẻ thêm cho các em học sinh nội dung đọc hiểu bài thơ Chiều sông Thương lớp 7 ngay sau đây.

1. Khung cảnh sông Thương hiện lên từ xa

  • Không gian: bên dòng sông Thương.
  • Thời gian: chiều thu thơ mộng
  • Sông Thương được miêu tả dưới góc nhìn nghệ thuật của người lính trở về thăm quê
  • Cảm xúc của nhân vật trữ tình: bâng khuâng, trìu mến, dõi nhìn mọi cảnh vật.

=> Người đi xa trở về thăm quê, mắt như ôm trùm cảnh vật, hồn như đang nhập vào cảnh vật, bước chân thì “dùng dằng”, níu giữ, vấn vương.

  • “Đi suốt cả ngày”: Thời gian dài đi đường nhưng người lính trở về không hề mệt mỏi
  • Có lẽ vì cô gái Kinh Bắc xinh đẹp (hoa Quan họ) mà chàng trai thấy “nở tím” cả dòng sông quê nhà
  • Bầu trời, cánh buồm, dòng sông, ruộng lúa, con gió, lòng mương, nương mạ, nước phù sa…

=> Những chi tiết nghệ thuật gợi tả vẻ đẹp bình dị, thân thuộc một buổi chiều sông Thương, một chiều thu Kinh Bắc.

=> Những nét chấm phá cảnh sắc làng quê, tác giả chỉ gợi mà rung động, thấm thía.

  • Nghệ thuật: ẩn dụ, nhân hóa kết hợp với chuyển đổi cảm giác đã tạo nên những hình tượng nên thơ.
  • Chiều uốn cong lưỡi hái”: Ngày đã tàn, mặt trời đã lặn, trăng non lấp ló chân đồi uốn cong như chiếc liềm, uốn cong như lưỡi hái.

=> Hình ảnh trong trẻo thơ mộng một chiều thu đồng quê gợi lên thời gian thu hoạch mùa màng đang đến, đã đến với xóm thôn.

  • “Lúa cúi mình giấu quả” như e thẹn, dịu dàng.
  • “Con gió xanh”, một nét vẽ siêu thực, phong tình, tài hoa.

2. Quang cảnh dọc sông Thương và tình cảm với quê hương của người trở về

* Quang cảnh dọc sông Thương

  • Nước màu đang chảy ngoan: Một chữ “ngoan” tài tình gợi tả dòng nước “đỏ nặng phù sa” êm trôi trong lòng mương lòng máng
  • Mạ đã thò lá mới: Động từ “thò” thú vị, ây mạ mới gieo được nhân hóa, trông thật đáng yêu
  • Lớp bùn “sếnh sang” màu mỡ, mạ mới gieo “đã thò lá mới”, chuẩn bị cho một mùa cày cấy nay mai, hứa hẹn một mùa bội thu sắp tới.

=> Ước mơ và niềm tin về quê hương ấm no, giàu có, thịnh vượng cứ dâng lên trong lòng dào dạt

  • Giọng thơ: thầm thì, nhà thơ bổi hồi gửi gắm bao ước mơ hi vọng.
  • Hạt phù sa”: Quen thuộc với làng quê, tưới tắm cho đồng ruộng
  • So sánh: như cổ tích

=> Câu thơ đậm đà, ý vị, chứa đầy tâm trạng.

  • “Mấy cô coi máy nước / Mắt dài như dao cau”: Lần thứ hai, nhà thơ nói đến cô gái vùng Kinh Bắc, Quan họ duyên dáng, đa tình

* Tình cảm với quê hương của người trở về

  • Điệp từ ôi: Chàng trai về thăm quê xúc động, khẽ cất lên lời hát.
  • Câu cảm thán →  giọng thơ trở nên bồi hồi, say đắm
  • Bức tranh quê nhà với nhiều sắc màu: màu nâu, xanh biếc.
  • Nghệ thuật: So sánh Vầng trang non lấp ló như “múi bưởi”
  • Màu nắng thu nhạt nhòa trong chiều tàn
  • Con nghé đứng đợi mẹ bên cầu

=> Chi tiết nào cũng giàu sức gợi, dân dã, thân thuộc, yên bình

=> Cảnh sắc quê hương hữu tình, nên thơ, một tình quê trang trải trong chất thơ, tình thơ.

Soạn Bài Chiều Sông Thương Lớp 7

Hướng dẫn các em học sinh cách soạn bài Chiều sông Thương lớp 7 chi tiết.

👉Câu 1 (trang 55 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Những nét đặc sắc nghệ thuật của bài thơ: thể thơ, từ ngữ, hình ảnh, vần, nhịp, biện pháp tu từ,…

Đáp án:

  • Thể thơ: năm chữ
  • Từ ngữ: giản dị, dễ hiểu, sử dụng một số địa danh.
  • Vần: liền
  • Nhịp: 2/3, 3/2 linh hoạt.
  • Biện pháp tu từ: so sánh, điệp ngữ, nhân hoá.

👉Câu 2 (trang 55 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Vẻ đẹp của sông Thương khi chiều buông.

Đáp án: Vẻ đẹp của sông Thương khi chiều buông được nhìn một cách rất rộng, từ cảnh vật tới con người:

  • Hoa Quan họ nở tím bên sông Thương
  • Đám mây trên Việt Yên/rủ bóng về Bố Hạ
  • Nước màu đang chảy ngoan
  • Mạ đã thò lá mới
  • Sắp vàng hoe bốn bên
  • Mấy cô coi máy nước/ mắt dài như dao cau
  • Con sông màu nâu, màu biếc
  • Nắng thu đang trải đầy
  • Trăng non múi bưởi

👉Câu 3 (trang 55 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Cảm xúc, suy nghĩ của nhà thơ về sông Thương, về quê hương quan họ.

Đáp án:

Cảm xúc, suy nghĩ của nhà thơ về sông Thương, về quê hương quan họ đó là: cảm xúc nhẹ nhàng, và đầy tự hào đối với vùng “đất quê mình thịnh vượng”. Bên cạnh đó, tác giả cũng có những suy nghĩ về con người nơi đây hết sức chân phương, giản dị. Qua cảm nhận về cảnh vật, con người, ta thấy tác giả là một người có tình yêu mến thiên nhiên, quê hương tha thiết.

Đón đọc tập thơ🌨Mây Đầu Ô [Quang Dũng] 🌨Nội Dung, Phân Tích

5 Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Chiều Sông Thương Hay Nhất

Sưu tầm 5 mẫu cảm nhận, phân tích bài thơ Chiều sông Thương hay nhất gửi đến bạn đọc.

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Chiều Sông Thương Hay – Mẫu 1

Đọc thơ Hữu Thỉnh, ta cảm nhận được sự sâu lắng, tinh tế về vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời, con người Việt Nam. Đặc biệt, bài thơ “Chiều sông Thương” với hình ảnh gần gũi, quen thuộc, lời thơ da diết đã mang đến cho bạn đọc những rung động sâu sắc về cảnh sắc bên dòng sông Thương cùng tình cảm chân thành ở nhà thơ.

Mở đầu bài thơ, ta thấy được hoàn cảnh của nhân vật trữ tình:

“Đi suốt cả ngày thu
Vẫn chưa về tới ngõ
Dùng dằng hoa Quan họ
Nở tím bên bờ sông”

Buổi chiều thu man mác buồn như bao trùm toàn bộ cảnh vật. Không khí lắng đọng của tiết trời ấy đã níu kéo bước chân người xa quê “vẫn chưa về tới ngõ”. Trong giây phút bắt gặp hình ảnh thân quen “hoa Quan họ” bung nở sắc tím bên bờ sông, nhân vật trữ tình lại đưa mắt ngắm nhìn toàn bộ cảnh sắc:

“Nước vẫn nước đôi dòng
Chiều vẫn chiều lưỡi hái
Những gì sông muốn nói
Cánh buồm đang hát lên”

Với biện pháp điệp cấu trúc “nước vẫn nước đôi dòng/ chiều vẫn chiều lưỡi hái” đã nhấn mạnh cảnh vật quê hương vẫn như xưa, nguyên vẹn không thay đổi. Nổi bật trên nền không gian sông nước rộng lớn mênh mông là hình ảnh những con thuyền. Nhà thơ thật tinh tế khi miêu tả trạng thái tưởng chừng “tĩnh lặng” nhưng lại “động” của chúng. Từng cánh buồm được nhân hóa “đang hát lên” không chỉ khắc họa trạng thái “no căng gió” mà còn diễn tả được niềm vui ở con người qua lời ca, khúc hát.

Bức tranh thiên nhiên càng thêm mở rộng nhờ những nét vẽ tài hoa:

“Đám mây trên Việt Yên
Rủ bóng về Bố Hạ
Lúa cúi mình giấu quả
Ruộng bời con gió xanh”

Việc lựa chọn và sử dụng từ đã cho ta thấy được sự liên tưởng độc đáo, thú vị của nhà thơ. Bầu trời cao xa kia dần trở nên mềm mại, có thể “rủ bóng về Bố Hạ”. Hạ tầm mắt xuống thấp, nhân vật trữ tình phát hiện ra hình ảnh “lúa cúi mình”, “ruộng bời”. Những cây lúa nặng trĩu hạt đang rung rinh từng ré như báo hiệu một mùa màng bội thu. Cánh đồng bao la, bát ngát bên dòng sông Thương đang tắm mình trong làn gió, gợi từng đợt sóng “xanh”. Khung cảnh thiên nhiên thật yên bình, hòa hợp làm sao!

Theo dòng chảy của con sông quê, nhà thơ thấy được:

“Nước màu đang chảy ngoan
Giữa lòng mương máng nổi
Mạ đã thò lá mới
Trên lớp bùn sếnh sang”

Có thể thấy, mỗi sự vật đều vận hành theo một cách hết sức riêng biệt. “Nước màu” hay còn gọi là nước phù sa vẫn “chảy ngoan” vào “lòng mương”, mang theo dưỡng chất cung cấp cho ruộng đồng.

Xa xa kia, mấy đám mạ mới gieo đã khoác lên mình bộ áo mới, xanh mướt non tơ. Lớp bùn đất cũng được cày xới cẩn thận, trở nên láng mướt, mịn màng. Tất cả đang tiếp tục sinh sôi, nảy nở sự sống từng ngày từng ngày như báo hiệu một mùa màng bội thu. Phải chăng, đó cũng là mong ước của nhà thơ và người dân xứ Kinh Bắc “cho sắc mặt mùa màng/ đất quê mình thịnh vượng”.

Chứng kiến sự giàu có, trù phú nơi quê nhà, nhà thơ không khỏi hạnh phúc, say đắm. Thửa ruộng nào cũng lấp lánh ánh vàng của lúa gạo “sắp vàng hoe bốn bên”. Niềm vui sướng tràn ngập, lan tỏa khắp ngóc ngách chốn thôn quê. Lắng nghe dòng chảy, nhà thơ càng thêm trân trọng, nâng niu món quà quý giá mà con sông ban tặng tới người lao động “hạt phù sa tất quen/ sao mà như cổ tích”. Hạt phù sa kì diệu như phép màu cổ tích, làm cho đồng ruộng tươi tốt, màu mỡ, mang đến sự thịnh vượng, êm ấm cho quê nhà.

Từ cảm xúc lâng lâng, bâng khuâng khi ngắm nhìn cảnh sắc bên bờ sông Thương, nhà thơ đã hoàn toàn đắm chìm vào vẻ đẹp bình yên ấy. Sự xúc động, say đắm được gói gọn trong hai câu thơ “ôi con sông màu nâu/ ôi con sông màu biếc”. Điệp từ “ôi” kết hợp với các từ “màu nâu”, “xanh biếc” cũng cho thấy tình cảm da diết của tác giả. Dù con sông có màu nâu của phù sa hay trong veo “xanh biếc” thì nó vẫn mang đến sự sinh trưởng, nảy nở “dâng cho mùa sắp gặt/ bồi cho mùa phôi thai”.

Bằng thể thơ năm chữ ngắn gọn, hình ảnh thơ quen thuộc, gần gũi, lời thơ chất chứa cảm xúc kết hợp với các biện pháp tu từ như: nhân hóa “sông muốn nói”, so sánh “mắt dài như dao cau” đã khắc họa sinh động bức tranh sông Thương trong buổi chiều thu.

Ngoài ra, hình thức viết độc đáo, không viết hoa chữ cái đầu dòng từ câu thơ thứ hai làm bài thơ giống như một câu chuyện kể đầy tâm tình của người xa quê. Từ đây, ta cũng cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, quê hương sâu sắc luôn in sâu trong tâm trí và trái tim nhà thơ.

Bài thơ “Chiều sông Thương” không chỉ là nét phác họa về bức tranh đồng quê yên ả nơi đồng bằng Bắc Bộ mà còn chan chứa tình cảm yêu mến, gắn bó của Hữu Thỉnh. Mong rằng, bài thơ sẽ sống mãi theo dòng chảy thời gian.

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Chiều Sông Thương Chọn Lọc – Mẫu 2

Viết về quê hương và tình yêu quê hương, bài thơ “Chiều sông Thương” của Hữu Thỉnh là một bài thơ hay, đáng yêu. Thể thơ năm chữ, giàu vần điệu nhạc điệu, lời thơ thanh nhẹ, hình tượng đẹp, trong sáng, cảm xúc dào dạt, bâng khuâng, mênh mang.

Chiều thu đẹp thơ mộng bên sông Thương, thuộc vùng Bố Hạ, Việt Yên là thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật, được miêu tả và cảm nhận. Người đi xa về thăm quê trìu mến, bâng khuâng dõi nhìn cảnh vật quê hương là tâm trạng nghệ thuật.

Buổi chiều trong thơ, nhất là chiều thu thường man mác buồn, nhưng “Chiều sông Thương” lại nhiều thiết tha, bâng khuâng rạo rực. Người đi xa trở về thăm quê, mắt như ôm trùm cảnh vật, hồn như đang nhập vào cảnh vật, bước chân thì “dùng dằng”, níu giữ, vấn vương. Có lẽ vì cô gái Kinh Bắc xinh đẹp (hoa Quan họ) mà chàng trai thấy “nở tím” cả dòng sông quê nhà; đôi bàn chân cứ “dùng dằng” mãi:

Đi suốt cả ngày thu
Vẫn chưa về tới ngõ
Dùng dằng hoa quan họ
Nở tím bên sông Thương

Sông Thương quê mẹ, quê em “nước vẫn nước đôi dòng” biết bao lưu luyến gợi nhớ gợi thương đã bao đời: “dòng trong dòng dục, em trông ngọn nào”… Chiều quê, một buổi chiều mùa gặt, trăng non lấp ló chân trời, rất thơ mộng hữu tình, “Chiều uốn cong lưỡi hái”. Một câu thơ, một hình ảnh rất thơ, rất tài hoa. Cánh buồm, dòng sông, đám mây, đều được nhân hóa, mang tình người và hồn người, như đưa đón, như mừng vui gặp gỡ người đi xa trở về:

“Những gì sông muốn nói
Cánh buồm đang hát lên
Đám mây trên Việt Yên
Rủ bóng về Bố Hạ”.

Nhà thơ, đứa con đi xa trở về say sưa đứng ngắm nhìn cảnh vật, cánh đồng quê hương. Gió thu trở thành “con gió xanh”. Lúa uốn cong trĩu hạt, tưởng như đang “cúi mình giấu quả”. Một chữ “ngoan” tài tình gợi tả dòng nước “đỏ nặng phù sa” êm trôi trong lòng mương lòng máng:

“Nước màu đang chảy ngoan
Giữa lòng mương máng nổi”.

Cảnh vật đồng quê, từ đường nét đến sắc màu đều tiềm tàng một sức sống ấm no, chứa chan hi vọng. Là những nương “Mạ đã thò lá mới – Trên lớp bùn sếnh sang”. Là những ruộng lúa “vàng hoe” trải dài, trải rộng ra bốn bên bốn phía chân trời mênh mông, bát ngát. Là dòng sông thơ ấu chở nặng phù sa, mang theo bao kỉ niệm, bao hoài niệm: “Hạt phù sa rất quen – Sao mà như cổ tích”. 

Lần thứ hai, nhà thơ nói đến cô gái vùng Kinh Bắc, Quan họ duyên dáng, đa tình. Không phải là “Những nàng môi cắn chỉ quết trầu”. Cũng không phải là “Những cô hàng xén răng đen – Cười như mùa thu tỏa nắng” Ở Bên kia sông Đuống” – Hoàng Cầm). Mà ở đây là những cô gái Quan họ xuất hiện trong dáng vẻ lao động “để thương, để nhớ, để sầu cho ai”:

“Mấy cô coi máy nước
Mắt dài như dao cau”.

Chàng trai về thăm quê xúc động, khẽ cất lên lời hát. Tình yêu quê hương dào dạt dâng lên trong tâm hồn. Câu cảm thán song hành với những điệp từ điệp ngữ làm cho giọng thơ trở nên bồi hồi, say đắm. Bức tranh quê nhà với bao sắc màu đáng yêu:

“Ôi con sông màu nâu
Ôi con sông màu biếc
Dâng cho mùa sắp gặt
Bồi cho mùa phôi thai”.

Tiếng thơ mang nặng ân tình đối với đất mẹ quê cha, đối với cái nôi mà “em” đã sinh thành, là nơi anh đã lớn khôn.

Màu nắng thu nhạt nhòa trong chiều tàn. Vầng trăng non lấp ló như “mùi bưởi”. Và con nghé đứng đợi mẹ bên cầu. Chi tiết nào cũng giàu sức gợi, dân dã, thân thuộc, yên bình:

“Nắng thu đang trải đầy
Đã trăng non múi bưởi
Bên cầu con nghé đợi
Cá chiều thu sang sông”.

Cảnh sắc quê hương hữu tình, nên thơ, một tình quê trang trải. Bài “Chiều sông Thương” giăng mắc, vương vấn mãi hồn ta. Con sông Thương trong ca dao tưởng như đã nhập lưu với “con sông màu nâu, con sông màu biếc” của Hữu Thỉnh. Chất thơ, tình thơ là ở đấy.

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Chiều Sông Thương Hay Đặc Sắc – Mẫu 3

Vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước chính là một chủ đề được rất nhiều tác giả hướng đến. Trong đó, Hữu Thỉnh được xem là một tác giả có bút lực mạnh mẽ và sáng tạo. Những bài thơ của ông không chỉ đơn thuần thể hiện được vẻ đẹp của thiên nhiên, mà còn chất chứa được nhiều tình cảm của nhân vật. Trong những tác phẩm của Hữu Thỉnh, Chiều sông Thương chính là một tác phẩm đặc sắc về vẻ đẹp của dòng sông xứ Kinh Bắc: sông Thương.

Chiều sông Thương được viết theo thể loại thơ 5 chữ với cách gieo vần độc đáo. Nội dung của bài thơ là vẻ đẹp êm đềm, trù phú của dòng sông Thương trong một buổi chiều dịu dàng. Hình ảnh buổi chiều thường được nhắc tới trong những bức tranh về người con xa quê, buổi chiều cũng là khoảng thời gian mà con người mệt mỏi, thể hiện rõ ràng những cảm xúc nhất.

“Nước vẫn nước đôi dòng
Chiều vẫn chiều lưỡi hái
Những gì sông muốn nói
Cánh buồm đang hát lên”

Trong con mắt của mỗi nhà thơ, hình ảnh của cảnh vật sẽ được miêu tả dưới một góc độ khác nhau. Điều đó cũng làm nên nét đặc sắc của từng cây bút.

Với Hữu Thỉnh, dòng sông Thương thơ mộng xuất hiện với những nét đẹp dịu dàng. Vẻ đẹp của con sông ban đầu là những nét đẹp nhẹ nhàng hai bên bờ.

Tác giả đã miêu tả từ xa tới gần, sắc tím của hoa là một nét đẹp như người phụ nữ, vừa mềm mại, vừa quyến rũ. “Vẫn” được tác giả sử dụng nhiều trong các câu thơ. Tác giả như đang hoài niệm về một thời không nào đó, nơi chất chứa nhiều kỉ niệm. Điều đó làm người đọc thắc mắc về thừ mà tác giả nhớ. Nó sẽ là gì mà khiến cho một nhà thơ đa tình lại nhớ mãi không quên?

Những cảnh vật mà tác giả miêu tả đều là nhưng chi tiết nhở ở độ nhạt nhòa, ít người để ý đến. Tuy nhiên từ những chi tiết nhỏ như thế mà người đọc lại hình dung được chút gì đó vui tươi. Cũng có thể bởi những màu sắc đẹp đẽ, cũng có thể bởi những câu thơ đầy sức sống và đằm thắm của tác giả. Dòng sông được tác giả miêu tả bên cạnh những tác dụng của con thuyền. Đó là công việc mang theo phù sa trở về, cùng giúp những con thuyền căng buồm xuôi nước quay lại.

“Đi suốt cả ngày thu
Vẫn chưa về tới ngõ
Dùng dằng hoa Quan họ
Nở tím bên bờ sông”

Đây cũng là hoàn cảnh của nhân vật trữ tình được làm rõ. Cảnh vật vui tươi như níu bước chân của người đi xa, mãi “vẫn chưa về tới ngõ”. Ngay phía sau, tác giả lại dùng “dùng dằng” thể hiện chút gì đó lưu luyến không rời. Thứ gì có ma lực như thế, lại níu được bước chân của một người đương vội vàng? Nhưng cũng nhờ đó, tác giả mới thấy được thời khắc buổi chiều, hoa bung nở sắc thăm, dòng sông Thương khoác lên người một lớp áo đẹp đến mơ màng.

“Nước màu đang chảy ngoan
Giữa lòng mương máng nổi
Mạ đã thò lá mới
Trên lớp bùn sếnh sang”

Trong khổ thơ này, tác giả bỗng hóa thật dịu dàng. Con nước bỗng dưng thật ngoan ngoãn. Có lẽ, với tác giả, sự chầm chậm dịu dàng đó chính là một cách thể hiện “ngoan ngoãn” của dòng nước sông Thương. Theo đó, những chất phù sa, dinh dưỡng tiến tới để nuôi mạ, những lá mới thò ra. Những chất phù sa ấy hóa thành lớp bùn sếnh sang đầy chất dinh dưỡng để nuôi một vụ mùa bội thu trong tương lai.

Sự nảy nở của cây mạ cũng như sự nảy nở của tình cảm, tâm hồn của người thi sĩ. Đó còn là đại diện cho những ước mơ của con người, một mùa gặt bội thu, no ấm. 

Tuy không thể hiện rõ cảm xúc trong từng câu thơ, nhưng chúng ta như được lây nhiễm niềm xốn xang của con người trước vẻ đẹp ấy. Một buổi chiều bên con sông khiến cho người thi sĩ mơ màng, làm cho độc giả lưu luyến dừng bước chân. Bởi khung cảnh ấy dưới nét bút Hữu Thỉnh không chỉ đẹp, còn vô cùng quyến rũ. Những biện pháp tu từ như nhân hóa con sông cũng khiến cho nó càng thêm đặc biệt. Nó khiến người đọc ngạc nhiên từ vẻ đẹp đến cả lợi ích của dòng sông.

Bài thơ Chiều sông Thương dưới ngòi bút của Hữu Thỉnh không chỉ cho ta thấy được vẻ đẹp của dòng sông mà còn thấy được một tương lai trong mơ của rất nhiều người. Dòng sông Thương xinh đẹp chảy xiết theo thời gian, dường như sẽ chẳng bao giờ dừng lại ngơi nghỉ…

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Chiều Sông Thương Hay Sâu Sắc – Mẫu 4

Hữu Thỉnh cũng mang đến cho văn đàn một áng thơ đẹp mà cảm hứng được khơi nguồn từ dòng sông xứ Kinh Bắc: sông Thương.

“Chiều sông Thương” được làm theo thể ngũ ngôn, với 32 câu thơ viết liền mạch, không dấu ngắt, tạo cảm giác cả bài thơ như dòng cảm xúc dào dạt tuôn trào chợt ùa về trong khoảnh khắc.

Bối cảnh thời gian, không gian được gợi lên ngay từ nhan đề và những câu thơ đầu tiên: thời gian của cảm xúc là một buổi chiều thu, không gian là dòng sông Thương êm đềm, trù phú. Buổi chiều thường gợi thương gợi nhớ, nhất là với người con xa quê. Vậy nên dù chưa “về tới ngõ” nhưng nhìn thấy dòng sông quê hương thân thuộc, bao nhiêu cảm xúc đã ùa về trong tâm trí nhà thơ.

Hình như với mỗi người, dòng sông quê hương thường để lại những suy tư và xúc cảm sâu lắng. Nên không phải ngẫu nhiên mà có biết bao áng thơ hay được viết lên từ hình ảnh quen thuộc, thân thương ấy.

Với mỗi người, dòng sông quê hương mình lại đẹp theo một cách. Trong cảm nhận của Hữu Thỉnh, sông Thương là dòng sông thơ mộng chảy hiền hòa giữa một một miền quê trù phú.

Vẻ đẹp của dòng sông được tạo nên qua những nét vẽ đặc sắc: Hoa quan họ. Nào ai biết “hoa quan họ” là hoa gì? Chỉ khi chạm vào sắc tím trong câu thơ tiếp theo, ta mới hình dung đó chính là sắc tím của lục bình – một nét vẽ quá đỗi thân thương, mềm mại. Những chùm lục bình tím trôi đi giữa dòng nước êm đềm: “Nước vẫn nước đôi dòng/chiều vẫn chiều lưỡi hái”. Cảnh vật “vẫn” như xưa, vẫn tồn tại trong sự vĩnh hằng muôn thuở của nó mà sao gợi thương, gợi nhớ nhiều đến thế?

Nét thi vị trong cách biểu đạt của Hữu Thỉnh là ở độ “nhòe mờ” của ý nghĩa lời thơ. “Chiều lưỡi hái” là buổi chiều như thế nào? “Những gì sông muốn nói/cánh buồm đang hát lên” – là điều những gì vậy? Thật khiên cưỡng nếu ta áp đặt cho những câu thơ này một nét nghĩa cụ thể nào đó. Ta chỉ có thể cảm nhận được qua tiếng “hát” kia là hình ảnh một dòng sông vui tươi, trù phú – dòng sông mang phù sa bồi đắp cho mùa màng của mảnh đất Kinh Bắc; mang những con thuyền căng buồm xuôi ngược muôn nơi.

Bức tranh chiều sông Thương tiếp tục được điểm tô bởi những nét vẽ thật đẹp: Hình ảnh từng đám mây rủ bóng xuống dòng sông gợi lên một khung cảnh thanh bình, yên ả.

Chữ “rủ” không mang cảm giác buồn bởi nó xuất hiện trong văn cảnh cùng hàng loạt những hình ảnh đẹp khác: Lúa cúi mình giấu quả/ruộng bời con gió xanh/nước màu đang chảy ngoan/giữa lòng mương máng nổi/mạ đã thò lá mới/trên lớp bùn sếnh sang..

Trong dáng cúi mình của bông lúa giấu quả là niềm vui một vụ mùa bội thu; trong hai chữ “ruộng bời” là hình ảnh của cả cánh đồng tươi tốt; trong màu nước chảy ngoan là phù sa màu mỡ đắp bồi; trong màu mạ xanh non đang thò là mới trên lớp bùn sếnh sang là sự sống mới đang tiếp tục vận động, sinh sôi. Những hình ảnh thật đẹp, thật sáng được đặt trong sự biểu đạt vừa như quen, vừa như lạ của Hữu Thỉnh qua các từ ngữ giàu giá trị biểu đạt giúp người đọc hình dung sự tốt tươi, trù phú của mùa màng xứ Kinh Bắc.

Kinh Bắc ngày nay đã mang một diện mạo mới, một “sắc mặt” mới: “Cho sắc mặt mùa màng/đất quê mình thịnh vượng”. Phép tu từ nhân hóa thật đẹp tiếp tục đậm tô hình ảnh của một vùng quê trù phú, thịnh vượng đã được gợi lên từ những câu thơ trước. Nếu những câu thơ trước là cái nhìn cận cảnh, thì hai câu thơ này là cái nhìn toàn cảnh, được viết lên từ niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ về sự phát triển của quê hương. Mấy chữ “quê mình” nghe sao xốn xang, kiêu hãnh mà thân thương đến thế!

Tất cả những gì mà nhà thơ hi vọng, mong ước cho quê hương đều đã, đang và sẽ thành hiện thực: “Những gì ta gửi gắm/sắp vàng hoe bốn bên”. Mong ước quê hương giàu đủ, thịnh vượng là nỗi niềm đau đáu của những người con xa quê luôn thiết tha với quê hương, xứ sở. Và giờ đây, khi chứng kiến cảnh sắc, mùa màng quê hương đang độ căng tràn, màu mỡ, nhà thơ không khỏi xốn xang, hạnh phúc.

Câu thơ bật lên như một tiếng reo vui – niềm vui của ước mơ đang dần trở thành hiện thực. Hình ảnh hoán dụ “vàng hoe” cùng từ chỉ không gian “bốn bên” gợi nhiều hơn mấy tiếng ngắn gọn, đơn sơ ấy. Đó là hình ảnh của những cánh đồng mênh mông bất tận sáng tươi trong sắc vàng óng ả, cũng là hình ảnh của mùa màng tươi tốt bội thu.

Cảm nhận niềm vui sướng, hạnh phúc lan tỏa trong lòng, nhà thơ không khỏi biết ơn những gì mà dòng sông Thương mang đến cho mảnh đất quê hương mình: “Hạt phù sa rất quen/sao mà như cổ tích”.

Hạt hạt phù sa sông Thương đắp bồi cho đồng ruộng Kinh Bắc vốn là những gì đã “rất quen”, đó là sự đắp bồi qua thời gian vĩnh hằng, muôn thuở. Điều đặc biệt là trong cảm nhận của nhà thơ, phù sa ấy như mang phép màu của cổ tích, mang đến những điều kì diệu – mang đến sự thịnh vượng cho cả một vùng quê. Cách biểu đạt của nhà thơ cứ mộc mạc, nhẹ nhàng như thế, mà lắng đọng, sâu sắc biết bao.

Những câu cuối của bài thơ như khúc hát hân hoan, dào dạt ngân lên từ tâm hồn, trái tim của người con xa quê nay trở về chứng kiến quê nhà đang dạt dào sức sống: “Ôi con sông màu nâu/ Ôi con sông màu biếc /Dâng cho mùa sắp gặt /Bồi cho mùa phôi thai”.

Cảm xúc thơ rung lên trong tiếng “Ôi” lặp lại đến hai lần. Dù đó là con sông nặng phù sa “nâu” mùa nước nổi hay con sông trong veo màu “biếc” độ thu về, thì đều là dòng sông mang sự sống đến với mảnh đất nơi đây. Hai tiếng “dâng”, “bồi” gói trọn tình yêu mà con sông dành cho đất và người Kinh Bắc. Dòng sông ấy đã “dâng” cho mùa sắp gặt và sẽ “bồi” cho mùa đang “phôi thai” bằng tất cả mỡ màng phù sa mà con sông chắt chiu nơi thượng nguồn mang tới.

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Chiều Sông Thương Ngắn Hay – Mẫu 5

Quê hương là đề tài muôn thủa trong thi ca, Hữu Thỉnh cũng góp thêm vào đề tài ấy bài thơ “Chiều sông Thương”.

Bài thơ được làm theo thể 5 chữ, giàu vần điệu nhạc điệu, lời thơ thanh nhẹ, hình tượng đẹp, trong sáng, cảm xúc dào dạt, bâng khuâng, mênh mang.

Dòng sông Thương quê mẹ êm đềm yên ả “nước vẫn nước đôi dòng”, một buổi chiều mùa gặt, trăng non lấp ló chân trời, rất thơ mộng hữu tình, “chiều uốn cong lưỡi hái”. Một câu thơ, một hình ảnh rất thơ, rất tài hoa.

Cánh buồm, dòng sông, đám mây, đều được nhân hóa, mang tình người và hồn người, như đưa đón, như mừng vui gặp gỡ người đi xa trở về. Cảnh vật đồng quê, từ đường nét đến sắc màu đều tiềm tàng một sức sống ấm no, chứa chan hi vọng.

Là những nương “mạ đã thò lá mới – trên lớp bùn sếnh sang”, là những ruộng lúa “vàng hoe” trải dài, trải rộng ra bốn bên bốn phía chân trời mênh mông, bát ngát. Là dòng sông thơ ấu chở nặng phù sa, mang theo bao kỉ niệm, bao hoài niệm “Hạt phù sa rất quen – Sao mà như cổ tích.

Chàng trai về thăm quê xúc động, khẽ cất lên lời hát. Tình yêu quê hương dào dạt dâng lên trong tâm hồn. Câu cảm thán song hành với những điệp từ điệp ngữ làm cho giọng thơ trở nên bồi hồi, say đắm.

Bức tranh quê nhà với bao sắc màu đáng yêu:

Ôi con sông màu nâu
Ôi con sông màu biếc”.

Cảnh sắc quê hương càng hữu tình, nên thơ càng thấy được tình yêu quê hương sâu nặng của tác giả.

Phân tích 🔰Bài Thơ Nhớ Bắc Của Huỳnh Văn Nghệ 🔰 Chi tiết

Viết một bình luận