Cô Tô Lớp 6: Nội Dung Văn Bản Cô Tô + Giá Trị + Phân Tích

Cô Tô Lớp 6 ❤️️ Nội Dung Văn Bản Cô Tô, Giá Trị, Phân Tích ✅ Mời Bạn Đọc Xem Thêm Về Ý Nghĩa Nhan Đề, Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác, Dàn Ý.

Nội Dung Văn Bản Cô Tô Lớp 6

Đoạn trích Cô Tô của nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa lên khung cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người vùng đảo Cô Tô thật trong sáng và tươi đẹp. Tác phẩm được tìm hiểu trong chương trình môn Ngữ văn 6. Cùng Thohay.vn đọc nội dung văn bản Cô Tô lớp 6 đầy đủ bên dưới.

Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô là một ngày trong trẻo, sáng sủa. Từ khi có vịnh Bắc Bộ và từ khi quần đảo Cô Tô mang lấy dấu hiệu của sự sống con người thì, sau mỗi lần dông bão, bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong sáng như vậy. Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc đậm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa. Và nếu cá có vắng tăm biệt tích trong ngày động bão, thì nay lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi. Chúng tôi leo dốc lên đồn Cô Tô hỏi thăm sức khoẻ anh em bộ binh và hải quân cùng đóng sát nhau trong cái đồn khố xanh cũ ấy. Trèo lên nóc đồn, nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót 180 độ mà ngắm cả toàn cảnh đảo Cô Tô. Nhìn rõ cả Tô Bắc, Tô Trung, Tô Nam, mà càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây.

…Mặt trời lại rọi lên ngày thứ sáu của tôi trên đảo Thanh Luân một cách thật quá là đầy đủ. Tôi dậy từ canh tư. Còn tối đất, cố đi mãi trên đá đầu sư, ra thấu đầu mũi đảo. Và ngồi đó rình mặt trời lên. Điều tôi dự đoán, thật là không sai. Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể sáng dần lên cái chất bạc nén. Một con hải âu bay ngang, là là nhịp cánh…

Khi mặt trời đã lên một vài con sào, tức là lúc nó trở về sự bình dị hằng ngày, thì tôi đang múc gầu nước giếng dội lên đầu lên cổ lên vai lên lưng, nghĩa là tôi cũng đang đi tắm như mọi người lao động bình thường đang tắm quanh giếng. Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền.

Cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc. Múc nước giếng vào thùng gỗ, vào những cong những ang gốm màu da lươn. Lòng giếng vẫn còn rớt lại vài cái lá cam lá quýt của trận bão vừa rồi quăng vào. Chỗ bãi đá nuôi sáu mươi vạn con hải sâm ngoài kia, bao nhiêu là thuyền của hợp tác xã đang mở nắp sạp đổ nước ngọt vào. Sau trận bão, hôm nay hợp tác xã Bắc Loan Đầu cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi đánh cá hồng. Anh hùng Châu Hoà Mãn cùng bốn bạn xã viên đi chung một thuyền. Anh quẩy nước bên bờ giếng, tôi né ra một bên. Anh quẩy mười lăm gánh cho thuyền anh: “Đi ra khơi, xa lắm mà, có khi mười ngày mới về. Nước ngọt cho vào sạp, chỉ để uống. Vo gạo thổi cơm cũng không được lấy nước ngọt. Vo gạo bằng nước bể thôi”.

Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái giếng ngọt, thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về. Trông chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành.

Xem bài viết đầy đủ 💌 Gió Lạnh Đầu Mùa 💌 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích

Tóm Tắt Cô Tô Lớp 6

Chia sẻ bạn đọc thêm bản tóm tắt Cô Tô lớp 6.

Sau trận bão, quần đảo Cô Tô trở lên trong sáng, sáng sủa, đẹp đẽ hơn, cây cối xanh thêm, nước biển đậm đà hơn, cát vàng giòn hơn, cá nhiều hơn, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây, hết bụi. Khung cảnh mặt trời mọc trên biển thật tráng lệ, hùng vĩ và tuyệt đẹp. Bên giếng nước ngọt, người dân tấp nập múc nước, gánh nước, chuẩn bị cho chuyến ra khơi.

Về Nhà Văn Nguyễn Tuân

Tìm hiểu một số thông tin về nhà văn Nguyễn Tuân sau đây.

  • Nguyễn Tuân (1910 – 1987), sinh ra trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
  • Quê ở làng Mọc, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
  • Khi còn nhỏ, Nguyễn Tuân đã theo gia đình sống ở nhiều tỉnh thuộc miền Trung.
  • Ông học đến cuối bậc Thành chung (tương đương với cấp THCS hiện nay) ở Nam Đinh. Sau khi học xong thì về Hà Nội viết văn, làm báo.
  • Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân đến với cách mạng, tự nguyện dùng ngòi bút phục vụ hai cuộc kháng chiến của dân tộc.
  • Từ 1948 đến 1958, ông là Tổng thư ký Hội văn nghệ Việt Nam.
  • Ông là một nhà văn lớn, một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp.
  • Nguyễn Tuân có những đóng góp không nhỏ đối với nền văn học Việt Nam hiện đại đó là thúc đẩy thể tùy bút, bút kí đạt tới trình độ nghệ thuật cao, góp phần làm phong phú cho ngôn ngữ văn học của dân tộc.
  • Nguyễn Tuân được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật vào năm 1996.
  • Một số tác phẩm tiêu biểu: Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1940), Thiếu quê hương (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972)…

Đừng vội bỏ lỡ phân tích ⚡ Bức Tranh Của Em Gái Tôi ⚡ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích

Về Tác Phẩm Cô Tô

Về tác phẩm Cô Tô lớp 6, đây là một bài kí thu hoạch nhân chuyến đi thực tế quần đảo này, đã thể hiện nhiều nét tài năng ngôn ngữ văn chương của Nguyễn Tuân.

Trích đoạn được giới thiệu trong sách giáo khoa nằm ở phần cuối của bài kí, miêu tả vẻ tươi đẹp của thiên nhiên và con người trên quần đảo sau cơn bão biển.

Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Cô Tô

Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác Cô Tô lớp 6 như sau:

Bài văn Cô Tô là phần cuối của bài kí Cô Tô – tác phẩm ghi lại những ấn tượng về thiên nhiên, con người lao động ở vùng đảo Cô Tô mà nhà văn Nguyễn Tuân thu nhận được trong chuyến ra thăm đảo.

Đón đọc thêm về 🍀 Nếu Cậu Muốn Có Một Người Bạn 🍀 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích

Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Cô Tô

Cùng xem ý nghĩa nhan đề tác phẩm Cô Tô bên dưới.

Nhan đề “Cô Tô” giúp cho người đọc hiểu về chủ đề của truyện ngắn, đó là viết về vùng đất Cô Tô. Tác giả đã khắc họa lên khung cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người trên vùng đảo Cô Tô thật trong sáng và tươi đẹp.

Bố Cục Văn Bản Cô Tô

Bố cục văn bản Cô Tô lớp 6 được chi làm 3 phần chính như sau:

  • Phần 1: Từ đầu đến “ theo mùa sóng ở đây”: toàn cảnh Cô Tô với vẻ đẹp trong sáng sau khi trận bão đã đi qua.
  • Phần 2: Tiếp theo đến “ là là nhịp cánh..” : Cảnh mặt trời mọc trên biển quan sát được từ đảo Cô Tô.
  • Phần 3: Còn lại: Cảnh sinh hoạt buổi sáng sớm trên đảo bên một cái giếng nước ngọt và hình ảnh người lao động chuẩn bị ra khơi.

Chia sẻ cho bạn đọc 🔻 Bài Học Đường Đời Đầu Tiên 🔻 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích

Đọc Hiểu Tác Phẩm Cô Tô

Nhất định đừng bỏ qua phần đọc hiểu tác phẩm Cô Tô lớp 6.

1. Vẻ đẹp trên đảo Cô Tô sau trận bão:

+ Từ ngữ: tươi sáng, trong trẻo, sáng sủa, trong sáng, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn.

+ Hình ảnh: cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc đặm đà hơn hết cả mọi khi và cát lại vang giòn hơn nữa.

– Sử dụng hàng loạt tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng; hình ảnh miêu tả được lựa chọn để làm nổi bật cảnh sắc rất tiêu biểu của một vùng biển và đảo: bầu trời, cây, nước biển, cát.

– Ở nóc đồn – điểm cao nơi đóng quân của bộ đội. nghệ thuật miêu tả giúp người đọc hình dung khung cảnh bao la và vẻ đẹp tươi sáng của vùng đảo Cô Tô

→ Tính từ gợi màu sắc, ẩn dụ. Bức tranh phong cảnh biển đảo trong sáng, phóng khoáng và lộng lẫy. Đó quả thực là một bức tranh tuyệt đẹp, rực rỡ, tráng lệ. Cảnh được đặt trong một khung cảnh rộng lớn, bao la và hết sức trong trẻo, tinh khôi.

2. Cảnh mặt trời mọc trên biển:

* Từ ngữ:

– Hình dáng: tròn trĩnh, phúc hậu → lựa chọn những sự vật có hình dáng đầy đặn, bắt mắt.

– Màu sắc: màu hồng, màu bạc → màu sáng chủ đạo của tranh sơn mài.

* Hình ảnh:

– Chọn hình ảnh đẹp để làm bức phông cho vầng thái dương xuất hiện (Sau trận bão … hết bụi).

– Hình ảnh so sánh “Tròn trĩnh … đầy đặn” vừa thực vừa mơ đạt hiệu quả gợi hình, gợi cảm cao (thực vì qua làn hơi nước có thể thấy sự tròn trĩnh và không bị chói mắt của mặt trời; mơ vì đó là kết quả của óc quan sát kết hợp với sự liên tưởng, tưởng tượng của Nguyễn Tuân)

– Hình ảnh liên tưởng, tưởng tượng độc đáo “Quả trứng … hửng hồng”.

– Hình ảnh so sánh “Y như… biển Đông” mang tính chất trang trọng, uy nghi và hướng đến con người.

– Vài chiếc nhạn, chim hải âu làm cho bức tranh sống động, có sức sống.

– Quan sát tinh tế, ngon ngữ chính xác và độc đáo, lựa chọn hình ảnh đẹp và lộng lẫy.

→ Hình ảnh so sánh độc đáo, mới lạ → Rực rỡ, lộng lẫy ⇒ Bức tranh mặt trời mọc: Nguy nga, tráng lệ, rực rỡ.

3. Cảnh sinh hoạt và lao động của con người trên đảo Cô Tô

– Thời gian: buổi sáng

– Địa điểm: quanh giếng nước ngọt

Cảnh sinh hoạt:
+ Người tắm quanh giếng

+ Gánh nước và múc nước nhộn nhịp

Cảnh lao động:

+ Thuyền mở nắp sạp chứa nước ngọt, chuẩn bị ra khơi

+ Anh hùng Châu Hòa Mãn quẩy nước, chị Châu Hòa Mãn địu con

Hình ảnh so sánh độc đáo:

+ Cái sinh hoạt… đất liền

+ Chị Hòa Mãn địu con…như biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành ⇒ Cảnh lao động và sinh hoạt vừa khẩn trương, tấp nập, lại thanh bình.

– Tác giả chọn cái giếng nước ngọt ở giữa đảo vì sự sống cho một ngày mới bắt đầu nơi đây.

+ Người đến gánh, múc.

+ Thuyền của hợp tác xã đang mở nắp sạp đổ nước ngọt vào.

+ Thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi đánh cá hồng

+ Anh hùng Châu Hòa Mãn quẩy nước

+ Chị Châu Hòa Mãn địu con như … biển cả là người mẹ hiền.

→ So sánh, điệp từ: Bức tranh lao động mang nét đẹp của một cuộc sống ấm êm, hạnh phúc trong sự giản dị và thanh bình.

Giá Trị Truyện Ngắn Cô Tô

Tiếp theo là những giá tị truyện ngắn Cô Tô lớp 6.

Giá trị nội dung

  • Cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người trên vùng đảo Cô Tô hiện lên thật trong sáng và tươi đẹp qua ngôn ngữ điêu luyện và sự miêu tả tinh tế, chính xác, giàu hình ảnh và cảm xúc của Nguyễn Tuân.
  •  Bài văn cho thấy vẻ đẹp độc đáo của thiên nhiên trên biển đảo Cô Tô, vẻ đẹp của người lao động trên vùng đảo này. Qua đó thấy được tình cảm yêu quý của tác giả đối với mảnh đất quê hương.

Giá trị nghệ thuật

  • Khắc họa hình ảnh tinh tế, chính xác, độc đáo.
  • Sử dụng các phép so sánh mới lạ và từ ngữ giàu tính sáng tạo.
  • Ngôn ngữ: điêu luyện. Miêu tả tinh tế, chính xác, giàu hình ảnh, cảm xúc.

Có thể bạn sẽ quan tâm tác phẩm ✨ Bài Thơ Đợi Mẹ [Vũ Quần Phương] ✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

Soạn Bài Cô Tô Lớp 6

Có thể bạn sẽ cần gợi ý soạn bài Cô Tô lớp 6.

👉Câu 1 (trang 113 sgk Ngữ văn lớp 6 Tập 1 – Kết nối tri thức với cuộc sống):

– Qua bài kí “Cô Tô”, nhà văn đã đưa người đọc đến những nơi và gặp gỡ những người là: 

+ Địa điểm: đảo Cô Tô, đồn Cô Tô, đảo Thanh Luân, cái giếng nước ngọt ở đảo Thanh Luân,…

+ Người: anh em bộ binh và hải quân, người dân đến gánh nước ngọt, anh hùng Châu Hòa Mãn cùng 4 bạn xã viên, chị Châu Hòa Mãn,… 

👉Câu 2 (trang 113 sgk Ngữ văn lớp 6 Tập 1 – Kết nối tri thức với cuộc sống):

– Những từ ngữ miêu tả sự dữ dội của trận bão: 

+ cát bắn vào má vào gáy,

+ gió bắn rát từng chập,

+ gió liên thanh quạt lia lịa …, đẩy cả người…, 

+ sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi 

+ sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm rền rền, 

+ cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết, 

+ kính bị gió cấp 11 ép vỡ tung, 

+ tiếng gió càng ghê rợn mỗi khi nó thốc vào, vuốt qua những gờ kính nhọn, 

+ rít lên, rú lên, … 

→ Trận bão dữ dội giống như một trận chiến. Qua đó thấy được cái nhìn độc đáo của tác giả về trận bão biển. Tập hợp các từ ngữ trong trường nghĩa chiến trận được sử dụng để diễn tả sự đe dọa và sức mạnh hủy diệt của cơn bão. Ngoài ra tác giả còn dùng các từ Hán Việt làm tăng màu sắc kì quái cho cơn bão. 

👉Câu 3 (trang 113 sgk Ngữ văn lớp 6 Tập 1 – Kết nối tri thức với cuộc sống):

– Biển sau bão hiện lên: 

+ Sau trận bão, chân trời, ngấn bể, sạch như tấm kính lau hết mây, hết bụi. 

+ Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm, và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh… 

+ Vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể sáng dần lên cái chất bạc nén. 

+ Một con hải âu bay ngang là là nhịp cánh. 

→ Các hình ảnh giàu màu sắc, gợi không khí yên ả và vẻ đẹp tinh khôi của Cô Tô. 

👉Câu 4 (trang 113 sgk Ngữ văn lớp 6 Tập 1 – Kết nối tri thức với cuộc sống):

* Những thời điểm quan sát và vị trí quan sát của người viết khi miêu tả Cô Tô: 

– Vị trí quan sát: 

+ Cảnh và người Cô Tô được nhìn từ trên cao (nóc đồn khố xanh), từ đầu mũi đảo (bờ đá đầu sư). 

+ Được quan sát từ các vị trí khác nhau, Cô Tô khi thì hiện lên toàn cảnh, bốn phương tám hướng, toát lên vẻ đẹp bao la, kì vĩ; khi thì cận cảnh từng hoạt động cụ thể của con người (quanh giếng nước ngọt), toát lên vẻ đẹp đời thường sôi động mà bình dị. 

– Dòng thời gian vận động thể hiện trình tự các thời điểm quan sát của người viết: 

+ bão lúc chiều, lúc đêm; 

+ trước bão, trong bão, sau bão; 

+ ngày thứ tư, ngày thứ năm, ngày thứ sáu; 

+ lúc mặt trời chưa mọc, mặt trời mọc, mặt trời cao bằng con sào, …. 

→ Thời điểm quan sát cho thấy cách kể theo trình tự thời gian của kí. 

👉Câu 5 (trang 113 sgk Ngữ văn lớp 6 Tập 1 – Kết nối tri thức với cuộc sống):

– Câu văn thể hiện sự yêu mến đặc biệt của tác giả đối với Cô Tô trong đoạn văn từ “Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô … theo mùa sóng ở đây” là: 

“Nhìn rõ cả Tô Bắc, Tô Trung, Tô Nam, mà càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây”. 

→ trực tiếp thể hiện lòng yêu mến, sự gắn bó của mình với đảo. 

👉Câu 6 (trang 113 sgk Ngữ văn lớp 6 Tập 1 – Kết nối tri thức với cuộc sống):

– Phần sau của đoạn trích tập trung miêu tả giếng nước ngọt trên đảo giữa biển khơi cùng hoạt động của con người quanh giếng. 

+ Giếng nước ngọt là dấu hiệu của sự sống con người trên đảo. Nó vừa là nguồn sống cho dân đảo, vừa ghi dấu sự sống của họ. 

+ Những chiếc lá cam, lá quýt vương lại trong lòng giếng sau bão là minh chứng cho việc họ đã bám đảo lâu năm, đã canh tác những loại cây trồng của đất liền ở đây. 

+ Hoạt động hối hả lấy nước sinh hoạt, trữ nước cho tàu bè ra khơi phản chiếu cuộc sống thường ngày và công việc lao động trên biển của dân đảo. 

→ Khung cảnh Cô Tô sẽ thiếu đi hơi ấm của sự sống con người nếu không có chi tiết miêu tả giếng nước ngọt và hoạt động của con người quanh giếng. 

👉Câu 7 (trang 113 sgk Ngữ văn lớp 6 Tập 1 – Kết nối tri thức với cuộc sống):

– Hình ảnh chị Châu Hòa Mãn ở kết thúc bài kí: “Trông chị Châu Hòa Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành”. 

+ Đây là một hình ảnh so sánh nhiều tầng bậc với các cặp so sánh: 

biển cả – người mẹ hiền; 

biển cho tôm cá – mẹ mớm thức ăn cho con; 

người dân trên đảo – lũ con lành của biển. 

→ Cách kết thúc này cho thấy tình yêu của tác giả với biển đảo quê hương và sự tôn vinh những người lao động trên đảo. Nó tạo cho người đọc ấn tượng khó quên về khung cảnh, tiềm năng của biển Cô Tô cũng như cuộc sống lao động của những con người mới đang từng ngày từng giờ cống hiến cho sự phồn vinh của đất nước. 

Tìm hiểu thêm phân tích 🌟 Bài Học Từ Cây Cau 🌟 Khám Phá Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích

Giáo Án Cô Tô Lớp 6

Sau đây là nội dung giáo án Cô Tô lớp 6.

I. Mục tiêu bài học

1. Kiến thức

Cảm nhận được vẻ đẹp trong sáng, tráng lệ, hùng vĩ, nhộn nhịp và vui tươi trong bức tranh thiên nhiên ở vùng đảo biển Cô Tô dưới ngòi bút tài hoa và xúc cảm tinh tế của Nguyễn Tuân.

2. Kĩ năng

Kĩ năng đọc và phân tích một bài kí.

3. Thái độ

Có ý thức học tập bộ môn.

II. Chuẩn bị tài liệu

1. Giáo viên Sách giáo viên, sách giáo khoa, giáo án.

2. Học sinh sách giáo khoa, nháp, vở ghi.

III. Tiến trình tổ chức dạy học

1. Ổn định tổ chức

Kiểm tra sĩ số :

2. Kiểm tra

Đọc thuộc lòng bài thơ Mưa. Em thích hình ảnh nào nhất, vì sao?

3. Bài mới

Sau một chuyến tham quan chòm Cô Tô 17 đảo xanh, trong vịnh Bắc Bộ nhà văn Nguyễn Tuân viết bút kí. Tuỳ bút CôTô nổi tiếng, bài văn khá dài, tả cảnh thiên nhiên, biển đảo trong giông bão, trong bình minh và trong sinh hoạt hàng ngày của bà con trên đảo. Đoạn trích ở gần cuối bài, tái hiện một cảnh sớm bình thường trên biển và đảo Thanh Luân.

Hoạt động của GV và HSKiến thức cần đạt
Hoạt động 1: đọc – hiểu chú thích

– GV nêu yêu cầu đọc:

+ Chú ý các tính từ, động từ miêu tả, các so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, mới lạ, đặc sắc.

+ Đọc giọng vui tươi hồ hởi;

– GV đọc mẫu 1 đoạn sau đó gọi HS đọc

– Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm?Nêu xuất xứ đoạn trích Cô Tô?

– Cho HS đọc chú thích SGK

– GV giải thích thêm một số từ khó.
I.Đọc và tìm hiểu chú thích:

1. Đọc

2. Tìm hiểu chú thích:

a. Tác giả:

– Nguyễn Tuân (1910-1987), quê ở Hà Nội, là nhà văn nổi tiếng, sở trường về thể tuỳ bút và ký.

– Tác phẩm của ông luôn thể hiện phongcách độc đáo tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt và vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện.

b. Tác phẩm:Đoạn trích ở phần cuối của bài kí Cô Tô

– Tác phẩm ghi lại những ấn tượng về thiên nhiên, con người lao động ở vùng đảo Cô Tô mà nhà văn thu nhận được trong chuyến ra thăm đảo.

c. Giải nghĩa từ khó:

– Ngư dân: người đánh cá.

– Chài: Lưới đánh cá, nghề đánh cá.

– Ghe: Thuyền nhỏ.
Hoạt động 2: Đọc hiểu văn bản

– Bài văn có thể chia làm mấy đoạn? Nêu nội dung chính của mỗi đoạn?

– Như vậy, bài văn có 3 nét cảnh. Nét cảnh nào hấp dẫn hơn cả đối với em?

– HS: Cảnh mặt trời mọc, vì cách tả cảnh đặc sắc gây ấn tượng mới lạ về cảnh tượng lộng lẫy, kì ảo.Có thể là cảnh sinh hoạt của con người vì nó đã gợi sự sống giản dị, thanh bình, hạnh phúc nơi đây.

– Em có nhận xét gì về bức tranh minh hoạ trong SGK?

– HS: Bức tranh minh hoạ toàn cảnh Cô Tô trong trẻo, sáng sủa nhưng chưa tả được các sắc màu cụ thể như lời nhà văn Nguyễn Tuân

– Gọi HS đọc đoạn 1

– Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Tuân, cảnh Cô Tô sau cơn bão hiện lên qua các chi tiết nào?

– ở đây, lời văn miêu tả có gì đặc sắc về cách dùng từ?GV bình: Tính từ vàng giòn tả đúng sắc vàng khô của cát biển, một thứ sắc vàng có thể tan ra được. đó là sắc vàng riêng của cát CôTô trong cảm nhận của tác giả.

– Nhận xét về NT miêu tả của tác giả?

– Lời văn miêu tả của tác giả đã có sức gợi lên một cảnh tượng thiên nhiên như thế nào trong cảm nhận của em?

– Tác giả có cảm nghĩ gì khi ngắm toàn cảnh Cô Tô?

– Em hiểu gì về tác giả qua cảm nghĩ đó của ông?
II. Đọc hiểu văn bản:

1. Tìm hiểu chung về văn bản:

– PTBĐ: Miêu tả + biểu cảm.

– Thể loại: kí.

– Bố cục: Chia làm ba phần.

a) Từ đầu đến “ở đây”

– Toàn cảnh Cô Tô một ngày sau bão (Điểm nhìn miêu tả: trên nóc đồn biên phòng Cô Tô).

b) Từ “Mặt trời” đến “nhịp cánh”: Cảnh mặt trời lên trên biển Cô Tô (vị trí: Nơi đầu mũi đảo).

c) Phần còn lại: Cảnh buổi sớm trên đảo Thanh Luân (vị trí từ cái giếng nước ngọt ở rìa đảo).

2. Phân tích:

a. Cảnh Cô Tô sau cơn bão:

– Trong trẻo, sáng sủa;

– Cây thêm xanh mượt

– Nước biển lam biếc đậm đà

– Cát vàng giòn hơn- Cá nặng lưới=> Dùng các tính từ gợi tả sắc màu vừa tinh tế vừa gợi cảm (Trong trẻo, sáng sủa, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn).

– NT miêu tả: bao quát từ trên cao thu lấy những hình ảnh chủ yếu đập vào mắt. Qua đó bộc lộ tài quan sát và cách chọn lọc từ ngữ trong vốn từ vựng giàu có của tác giả.

=> Một bức tranh phong cảnh biển đảo trong sáng, phóng khoáng, lộng lẫy.

– “Tác giả càng cảm thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng sinh ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây”.

=> Tác giả còn cảm thấy Cô Tô tươi đẹp gần gũi như quê hương của chính mình. Tác giả là người yêu mến, gắn bó với thên nhiên, đất nước.

4. Củng cố, luyện tập

Suy nghĩ của em về toàn cảnh đảo Cô Tô

5. Hướng dẫn học ở nhà

Soạn tiếp câu hỏi 3,4,5.

Sơ Đồ Tư Duy Cô Tô

Đừng bỏ qua các sơ đồ tư duy Cô Tô lớp 6 bên dưới.

Sơ Đồ Tư Duy Cô Tô Dễ Hiểu Nhất
Sơ Đồ Tư Duy Cô Tô Lớp 6 Dễ Hiểu Nhất
Sơ Đồ Tư Duy Cô Tô Sinh Động
Sơ Đồ Tư Duy Cô Tô Lớp 6 Sinh Động
Sơ Đồ Tư Duy Cô Tô Đầy Đủ
Sơ Đồ Tư Duy Cô Tô Lớp 6 Đầy Đủ

Xem bài viết đầy đủ 🌷 Mùa Phơi Sân Trước 🌷 phân tích đầy đủ nhất

5 Mẫu Phân Tích Cô Tô Hay Nhất

Chia sẻ cho bạn đọc 5 mẫu phân tích Cô Tô lớp 6 hay nhất.

Phân Tích Cô Tô Lớp 6 Nổi Bật – Mẫu 1

Văn bản Cô Tô là phần cuối của bài kí Cô Tô – tác phẩm ghi lại những ấn tượng về thiên nhiên, về con người lao động của vùng đảo Cô Tô mà nhà văn Nguyễn Tuân nhu nhận được trong chuyến đi ra thăm đảo.

Những câu văn đầu tiên, tác giả đã miêu tả đôi nét đảo Cô Tô trong cơn bão. Khung cảnh thiên được nhiên được cảm nhận qua nhiều giác quan.

Đầu tiên là xúc giác: “Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim”; Thính giác: “Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm rền rền…, Nó rít lên rú lên…”;

Thị giác: “Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác đào ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ tung”. Từ đó, cơn bão được hiện lên vô cùng dữ dội.

Sau khi cơn bão đi qua, vẻ đẹp của đảo Cô Tô được hiện lên vô cùng chân thực, sinh động. Nhà văn đã sử dụng nhiều tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng có sức gợi mạnh mẽ để tái hiện dáng vẻ tinh khôi, trong sáng của đảo Cô Tô như “trong trẻo, sáng sủa, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn”. Đồng thời, ông cũng chọn ra những sự vật hết sức tiêu biểu để miêu tả “bầu trời, nước biển, cây trên núi, bãi cát”.

Nguyễn Tuân đã nhận xét về vẻ đẹp của Cô Tô lúc này bằng hai từ “trong trẻo và sáng sủa”. Hình ảnh “cây trên núi lại thêm xanh mượt” gợi ra dáng vẻ sạch sẽ, tươi mát của cây cối. Màu “lam biếc” đậm đà của nước biển, và sự “vàng giòn” của cát gợi ra sự khoáng đạt.

Cùng với sự chuyển đổi cảm giác từ thị giác với những gam màu xanh, vàng sang vị giác với các tính từ “đậm đà”, “giòn” đã bộc lộ những cảm nhận tinh tế, sâu sắc của Nguyễn Tuân về vẻ đẹp độc đáo, thanh khiết vô cùng nơi đảo xa.

Ấn tượng nhất với đoạn văn miêu tả cảnh mặt trời mọc. Bức tranh thiên nhiên nơi đảo Cô Tô càng trở nên sinh động, rực rỡ hơn bao giờ hết. Những câu văn miêu tả đầy tinh tế: “Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn.

Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng”. Hình ảnh so sánh độc đáo khiến cho người đọc hình dung rõ nét hơn về cảnh mặt trời mọc trên đảo Cô Tô.

Sức tưởng tượng của nhà văn còn vượt ra khỏi tầm nhìn trở lại trong tâm linh đề minh họa cái bầu trời một buổi sáng kia: “Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông”. Khó mà nói hết được tài năng trong việc sử dụng từ ngữ của Nguyễn Tuân ở đoạn văn này.

Đoạn cuối cùng, nhà văn khắc họa không khí cuộc sống của người dân trên đảo. Cảnh sinh hoạt ở giếng nước ngọt, vui vẻ tấp nập như một cái bến. Tuy nhiên lại “đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền” nghĩa rằng sự sinh hoạt ở đây luôn mang một sắc thái phóng khoáng dễ chịu, bớt đi cái ồn ào, kẻ mua người bán tranh giành, cãi vã khiến người ta khó chịu.

Như vậy, văn bản Cô Tô đã khắc họa vẻ đẹp nơi đảo Cô Tô hiện lên đầy chân thực, sinh động. Từ đó, tài năng sử dụng ngôn từ của Nguyễn Tuân được bộc lộ hơn.

Phân Tích Cô Tô Lớp 6 Chọn Lọc – Mẫu 2

Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông sáng tác nhiều về đề tài cuộc sống mới, con người mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta. “Cô Tô” là một bút ký in trong tập ký cùng tên, xuất bản năm 1976.

Nguyễn Tuân đã ghi lại những ấn tượng tốt đẹp của mình về cảnh sắc tuyệt vời của quần đảo Cô Tô trong vịnh Bắc Bộ và hình ảnh những ngư dân cần cù lao động, góp phần làm giàu cho Tổ quốc. Đồng thời thể hiện tình yêu thiên nhiên và con người đằm thắm, thiết tha của mình qua thiên bút ký này.

Đầu tiên, Nguyễn Tuân đã khắc họa đôi nét cảnh cơn bão ở Cô Tô. Tác giả quan sát và cảm nhận trận bão bằng những giác quan. Đầu tiên là xúc giác: “Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim”; Rồi đến thính giác “Gió liên thanh quật lia lịa…,

Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm rền rền…, Nó rít lên rú lên…”; Và cả thị giác: “Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác đào ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ tung”. Có thể thấy, cơn bão giống như một kẻ thù đang dàn trận để đánh bại con người.

Từ nóc đồn trên đảo, Nguyễn Tuân nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót 180 độ mà ngắm cả toàn cảnh đảo Cô Tô. Cảnh đẹp được thu vào tầm mắt khiến nảy sinh trong lòng nhà văn một cảm xúc mãnh liệt: “càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây”.

Đọc đoạn trích này, người đọc không thể nào quên cảnh mặt trời mọc trên biển Đông. Đây là một bức tranh lộng lẫy, huy hoàng hiếm có. Cảnh mặt trời mọc được miêu tả trong một không gian rộng lớn, bao la, trong trẻo, tinh khôi: “Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi”.

Tác giả đã dùng hình ảnh so sánh đặc sắc, ví mặt trời sau khi lên “tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn, hồng hào”. Còn mặt bể là “một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng’”.

Tiếp đến là hoạt động trên đảo vừa khẩn trương, tấp nập lại vừa vui vẻ, thanh bình. Quanh cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc.

Người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền, chuẩn bị cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi đánh cá hồng, vẻ thanh bình của cuộc sống còn được thể hiện ở suy ngẫm và liên tưởng của nhà văn trước hình ảnh: “Chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền móm cá cho lũ con lành”.

Nguyễn Tuân cảm nhận rất tinh tế về sắc thái riêng của cuộc sống ở Cô Tô. Điều đó được thể hiện qua so sánh: “Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền”.

Biển Cô Tô đẹp mê hồn. Sức hấp dẫn của biển cả và những sản vật mà nó hào phóng ban tặng cho con người đã thu hút biết bao chàng trai ra biển để làm giàu cho cuộc sống và cho Tổ quốc. Chủ nhân của vùng đảo tươi đẹp này là những ngư dân ngày đêm bám biển. Họ “ăn sóng nói gió” và đã quen chịu đựng những khó khăn gian khổ do thời tiết khắc nghiệt gây nên.

Kết thúc bài kí là cảnh đoàn thuyền chuẩn bị ra khơi và chị Châu Hoà Mãn địu con đứng trên bãi biển tiễn chồng. Đó là những hình ảnh tiêu biểu của cuộc sống lao động khoẻ khoắn, vui tươi của những ngư dân cần cù, chất phác trên đảo Cô Tô.

Cảnh thiên nhiên, cảnh sinh hoạt của con người trên đảo và vùng biển Cô Tô được miêu tả trong đoạn trích thật tươi đẹp, trong sáng và đa dạng qua ngòi bút điêu luyện, giàu cảm xúc của Nguyễn Tuân. Đặc biệt, cảnh mặt trời mọc trên biển là một bức tranh huy hoàng, lộng lẫy đầy chất thơ.

Đoạn trích trên đây đã giúp người đọc hiểu thêm về một cảnh quan nổi tiếng của đất nước. Từ đó càng thêm yêu mến, gắn bó và tự hào về Tổ quốc Việt Nam giàu đẹp.

Phân Tích Cô Tô Lớp 6 Ấn Tượng – Mẫu 3

Nguyễn Tuân là nhà văn nổi tiếng, có sở trường về thể tuỳ bút và kí. Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa và sự hiểu biết phong phú nhiều mặt. Bài văn Cô Tô là phần cuối của bài ký cùng tên. Đoạn trích đã phần nào ghi lại được những ấn tượng về thiên nhiên, con người lao động ở vùng đảo Cô Tô mà nhà văn thu nhận được trong chuyến ra thăm đảo.

Mở đầu là cảnh Cô Tô trong cơn bão. Tác giả quan sát và cảm nhận trận bão bằng những giác quan. Đầu tiên là xúc giác: “Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim”; Rồi đến thính giác “Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm rền rền…, Nó rít lên rú lên…”;

Và cả thị giác: “Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác đào ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ tung”.

Tiếp đến nhà văn miêu tả vẻ đẹp của đảo Cô Tô sau cơn bão. Cảnh thiên nhiên hiện lên thật trong sáng, tinh khôi trong buổi sáng đẹp trời: “Bầu trời trong sáng, cây thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc, đậm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa”.

Ngỡ như đất trời biển Cô Tô được rửa sạch, được tái tạo để hoá thành một cảnh sắc trong sáng tuyệt vời. Để “vẽ” được bức tranh toàn cảnh của đảo Cô Tô sau cơn bão, tác giả phải công phu lắm mới chọn được những hình ảnh tiêu biểu: bầu trời, nước biển, cây trên đảo, bãi cát, và đi với những hình ảnh ấy là một loạt tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng:

Bầu trời thì trong trẻo, sáng sủa, cây trên biển thì xanh mượt, nước biển lam biếc, cát lại vàng giòn. Có được cảnh sắc đẹp như vậy là do nhà văn đã chọn được vị trí quan sát từ trên điểm cao trên nóc đồn để nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót 180 độ mà ngắm toàn cảnh đảo Cô Tô.

Sau cơn bão, thiên nhiên ở đảo Cô Tô hiện lên thật là đẹp. Phải chăng bức tranh đảo Cô Tô đẹp bởi có tình người của Nguyễn Tuân?

Thật là thiếu sót nếu ta không nói đến cảnh mặt trời mọc trên biển trong bức tranh thiên nhiên của đảo Cô Tô. Cảnh tượng được Nguyễn Tuân miêu tả hùng vĩ, rực rỡ và tráng lệ biết bao. Cảnh Cô Tô có cái màu xanh lam biếc của biển buổi chiều, lại có cái màu đỏ rực rỡ của mặt trời buổi sớm nhô lên biển lúc hừng đông. Nguyễn Tuân đã thức dậy từ canh tư ra mãi thấu đầu mũi đảo để ngồi rình mặt trời lên.

Đoạn văn này, Nguyễn Tuân đã thực sự mang đến cho người đọc những dòng viết tài hoa về cảnh tượng vô cùng độc đáo. Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn.

Quả trứng hồng hào, thăm thẳm và đứng bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Những so sánh thật bất ngờ, những liên tưởng thật thú vị.

Nhưng đến liên tưởng tiếp theo thì mới thực sự tài hoa, mới in đậm phong cách Nguyễn Tuân: “Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông”.

Màu sắc hài hoà giữa đỏ, hồng, bạc, ngọc trai, chi tiết tạo hình rất độc đáo quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên mâm bạc khổng lồ; hình ảnh từ ngữ sang trọng: “Mâm lễ phẩm, bạc nén, trường thọ”. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp vừa hùng vĩ đường bệ, vừa phồn thịnh và bất diệt, lại rực rỡ, tráng lệ làm lên một ấn tượng riêng đặc sắc về trời biển Cô Tô.

Tiếp đến, cuộc sống của người dân trên biển càng làm cho bức tranh đảo Cô Tô thêm sinh động. Cảnh sinh hoạt và lao động trên đảo trong một buổi sáng được tác giả tập trung miêu tả vào một địa điểm là cái giếng nước ngọt ở rìa đảo.

Tại đây, những người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền. Khung cảnh thật thanh bình, nhịp điệu của cuộc sống lao động khẩn trương, tấp nập, đông vui: “Cái giếng nước ngọt của đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc.

Múc nước giếng vào thùng gỗ, vào những cong, những ang gốm màu da lươn […] Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái giếng ngọt, thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về, vẻ thanh bình của cuộc sống còn được thể hiện trong một hình ảnh mang nét riêng của Cô Tô, lại hàm chứa ý nghĩa Trông chị Châu Hoà Mẫu địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cả cho lũ con lành”.

Được chứng kiến cảnh đó, Nguyễn Tuân đã có sự cảm nhận về sắc thái riêng một cách tinh tế, khi ông so sánh Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền. Vui như một cái bến thì nơi nào cũng có, nhưng đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền thì chính là cái sắc thái riêng của không khí trong lành và tình người đậm đà trên biển Cô Tô.

Cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người vùng đảo Cô Tô hiện lên thật trong sáng và tươi đẹp qua ngôn ngữ điêu luyện và sự miêu tả tinh tế, chính xác, giàu hình ảnh và cảm xúc của Nguyễn Tuân. Bài văn cho ta hiểu biết và yêu mến một vùng đất của Tổ quốc – quần đảo Cô Tô.

Phân Tích Cô Tô Lớp 6 Đặc Sắc – Mẫu 4

Nguyễn Tuân (1910 – 1987), là một nhà văn nổi tiếng được xếp vào hàng một trong chín nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại, với sở trường chủ yếu là tùy bút và kí. Trước cách mạng tháng tám các chủ đề của Nguyễn Tuân chủ yếu xoay quanh những vẻ đẹp “vang bóng một thời” với những tác phẩm khá thành công như: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, hay Một chuyến đi…

Sau cách mạng, ông tìm đến với chủ đề mới về ngợi ca quê hương đất nước, vẻ đẹp của con người trong lao động, với các tác phẩm tiêu biểu như tùy bút Sông Đà, tập ký Cô Tô, Tùy bút kháng chiến… Đoạn trích Cô Tô là phần cuối của tác phẩm ký Cô Tô, ghi lại những ấn tượng của tác giả về thiên nhiên, con người và cuộc sống lao động sau một chuyến ra thăm đảo Cô Tô.

Tác giả Nguyễn Tuân đã đi vào miêu tả lại vẻ đẹp trong sáng, tươi trẻ của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua. Tác giả đã dùng một loạt các tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng có sức gợi mạnh mẽ để tái hiện dáng vẻ tinh khôi, trong sáng của đảo Cô Tô sau khi bão tan như: trong trẻo, sáng sủa, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn.

Không chỉ đặc sắc ở việc dùng lựa chọn từ ngữ mà tài năng của Nguyễn Tuân còn bộc lộ ở cách mà tác giả lựa chọn những cảnh sắc tiêu biểu để gợi ra khung cảnh của Cô Tô như: bầu trời, nước biển, cây trên núi, bãi cát. Đó đều là những hình tượng tiêu biểu của một vùng đảo, cho người đọc những hình dung cơ bản nhất về bức tranh mà Nguyễn Tuân định tái hiện – đảo Cô Tô sau bão.

Đứng từ một điểm cao nơi đóng quân của bộ đội, Nguyễn Tuân phóng tầm mắt ra xa mở ra khung cảnh bao la và vẻ đẹp tươi sáng của đảo bằng hai từ “trong trẻo và sáng sủa”.

Thiên nhiên nơi đây ngập tràn sức sống với hình ảnh “cây trên núi lại thêm xanh mượt”, gợi ra dáng vẻ sạch sẽ, mướt mát, tinh khiết của cây cối, cùng với đó là màu “lam biếc” đậm đà của nước biển, và sự “vàng giòn” của cát biển, đem đến cho chúng ta một bức tranh khoáng đạt, trong trẻo, với những gam màu nhẹ nhàng, thanh sạch.

Sang phần tiếp theo của đoạn trích, hình ảnh đảo Cô Tô lại được tác giả tái hiện qua quang cảnh mặt trời mọc trên biển – một cảnh tượng tráng lệ, hùng vĩ và tuyệt đẹp. Ở đoạn này toàn bộ bức tranh tranh trẻo, thanh khiết sau bão đã trở thành nền tảng để làm nổi bật lên vẻ đẹp rực rỡ của bình minh.

Hình ảnh mặt trời mọc được đặt trong một khung cảnh rộng lớn, khoáng đạt và trong trẻo với hình ảnh so sánh hết sức độc đáo: “Sau trận bão chân trời, ngấn bể sạch như một tấm kính lau mây hết bụi”, điều đó dễ dàng khiến khán giả liên tưởng đến hình ảnh một vòm trời cao rộng, xanh trong không một gợn mây.

Cùng với đó là màu nước biển trong tác phẩm cũng “lam biếc” đậm đà, tạ nên bức phông nền đồng nhất “nước trời một sắc, phong cảnh ba thu” vô cùng thích hợp để làm nổi bật vẻ tuyệt diệu của cảnh mặt trời mọc. Cảnh bình minh trong Cô Tô cũng được Nguyễn Tuân miêu tả một cách đặc biệt: “Mặt trời tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn.

Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng”. So sánh thú vị của Nguyễn Tuân khi biến hình ảnh mặt trời thành một loại thức ăn, việc chuyển đổi cảm giác này mang lại cảm giác chân thực hơn cả, mặt trời trở nên gần gũi, với vẻ đẹp ấm áp “phúc hậu” và thân thuộc với con người.

Hơn thế nữa việc sử dụng các tính từ “tròn trĩnh””, “phúc hậu”, “đầy đặn”, “hồng hào”, “thăm thẳm” đã đem đến cho người đọc những cảm nhận rõ nét về dáng hình của mặt trời buổi bình minh. Nó khác xa với những cảnh bình minh trừu tượng, xa xăm trong văn học xưa và nay.

Khi mà ở đó người ta chỉ thấy được vẻ rực rỡ của những tia nắng, của bầu trời trong xanh, chứ không bao giờ hình dung ra dáng vẻ thật sự của mặt trời, cũng không nhận biết được thực ra vẻ đẹp của bình minh chân chính phải xuất phát từ dáng vẻ mặt trời lúc ló rạng.

Không chỉ vậy với sự kỳ vĩ tuyệt vời đó Nguyễn Tuân đã ví sự xuất hiện của mặt trời tựa như một “mâm lễ” quý giá thiêng liêng, một món quà mà tạo hóa hoan hỉ ban tặng cho con người để mừng sự “trường thọ”. Tô điểm thêm cho quang cảnh bình minh rực rỡ là sự xuất hiện của vài “chiếc nhạn”, của cánh hải âu là là, gợi cảm giác thanh bình, chậm rãi nơi biển khơi.

Có thể nói rằng trong Cô Tô, Nguyễn Tuân đã thực sự tinh tế và khéo léo khi chọn lọc những từ ngữ và hình ảnh so sánh vô cùng chính xác để đặc tả mặt trời, từ đó làm nổi bật lên vẻ đẹp tráng lệ, rực rỡ và hùng vĩ của bình minh nơi đây.

Với “chủ nghĩa xê dịch” của mình, Nguyễn Tuân luôn đi tìm tòi cái đẹp ở khắp mọi miền Tổ quốc. và trong việc tìm tòi của mình nhà văn ngoài chú ý đến vẻ đẹp của thiên nhiên, thì con người với cuộc sống lao động cũng là một đề tài mà tác giả đặt trọng tâm.

Ở Cô Tô cũng không ngoại lệ, sau việc tái hiện vẻ đẹp thiên qua bức tranh trong trẻo, tinh khiết của đảo sau bão và cảnh bình minh rực rỡ huy hoàng, thì Nguyễn Tuân bắt đầu đi vào tìm hiểu những vẻ đẹp của con người trong lao động. Cảnh sinh hoạt được mở ra xoay quanh cái giếng nước ngọt ở rìa đảo rồi mở rộng ra cảnh con thuyền chuẩn bị ra khơi cùng cảnh dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền.

Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân cảnh sinh hoạt ở giếng nước ngọt, vui vẻ tấp nập như một cái bến. Tuy nhiên lại “đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền”, nghĩa rằng sự sinh hoạt ở đây luôn mang một sắc thái phóng khoáng dễ chịu, bớt đi cái ồn ào, kẻ mua người bán tranh giành, cãi vã khiến người ta khó chịu.

Với chỉ một câu như vậy tác giả đã dễ dàng cho người đọc những hình dung sơ lược về tính cách của người dân đảo Cô Tô, náo nhiệt, sôi động nhưng hiền hòa, phóng khoáng.

Nguyễn Tuân đã chỉ ra sự cảnh lao động vừa tấp nập, khẩn trương, vừa thanh bình ấy trong nhiều ý văn, ví như cảnh “Cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay không biết có bao nhiêu người đến và múc”, hay câu “Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái giếng ngọt, thùng và cong gánh nối tiếp nhau đi đi về về”.

Những lời tả ấy của tác giả đã tái hiện một khung cảnh con người chăm chú lao động, miệt mài với công việc không ngừng nghỉ, cũng làm nổi bật sự đông đúc và dồi dào của giếng nước ngọt với hình ảnh đoàn người nối tiếp nhau “đi đi về về” múc nước đổ lên thuyền chuẩn bị ra khơi.

Bên cạnh dáng vẻ khẩn trương, tấp nập của những người dân chài thì cảnh sinh hoạt của đảo Cô Tô còn hiện lên với dáng vẻ thanh bình, chậm rãi trong hình ảnh chị Châu Hòa Mãn địu con mà tác giả “thấy nó dịu dàng và yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành”.

Đoạn trích Cô Tô là một trong những đoạn trích xuất sắc nhất của tập ký cùng tên. Qua ngòi bút uyên bác, tài hoa lối sử dụng từ ngữ điêu luyện, chính xác và tinh tế nhà văn Nguyễn Tuân đã tái hiện thật sinh động vẻ đẹp của thiên nhiên đảo Cô Tô và cảnh sinh hoạt lao động của những con người nơi đây.

Thông qua đó bộc lộ tấm lòng yêu thiên nhiên, tha thiết với những vẻ đẹp kỳ vĩ của đất nước, cũng như tấm lòng sâu nặng, ngợi ca của tác giả với vẻ đẹp của con người trong công cuộc lao động đổi mới và xây dựng đất nước.

Phân Tích Cô Tô Lớp 6 Tiêu Biểu – Mẫu 5

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Một trong những sáng tác nổi bật của ông là đoạn trích Cô Tô, Nguyễn Tuân đã khắc họa lên khung cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người trên vùng đảo Cô Tô thật trong sáng và tươi đẹp.

Khung cảnh Cô Tô sau cơn bão được tác giả tóm gọn lại bởi hai từ “trong trẻo, sáng sủa”. Sau đó nhà văn bắt đầu khắc họa thiên nhiên Cô Tô. Điểm nhìn của Nguyễn Tuân đã xuất phát từ trên cao xuống dưới thấp. Xuất phát từ nóc đồn trên đảo, nhà văn đã nhìn ra phía mặt biển rộng lớn để chiêm ngưỡng thiên nhiên của Cô Tô.

Trên cái nền là bầu trời xanh tươi sáng và mặt nước màu lam biếc, nổi bật lên màu xanh mượt của cây, màu vàng giòn của cát và màu trắng của sóng xô dào dạt vào đảo. Màu xanh bao trùm lên Cô Tô, nhưng với những sắc thái khác nhau. Toàn bộ cảnh đẹp được thu vào tầm mắt khiến nhà ăn “càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây”.

Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, khung cảnh Cô Tô còn được khắc họa qua cảnh mặt trời mọc. Đây là một bức tranh lộng lẫy, huy hoàng hiếm có. Nhà văn đã miêu tả thật tinh tế: “Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn.

Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng” . Hình ảnh so sánh độc đáo. Cảnh tượng thật hùng vĩ, đường bệ y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông.

Cuối cùng, trong nền thiên nhiên ấy, không thể thiếu đi sự xuất hiện của con người. Hoạt động trên đảo vừa khẩn trương, tấp nập lại vừa vui vẻ, thanh bình. Quanh cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc…

Người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền, chuẩn bị cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi đánh cá hồng. Và vẻ đẹp của cuộc sống còn được thể hiện ở suy ngẫm và liên tưởng của nhà văn trước hình ảnh: “Chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền móm cá cho lũ con lành”. Một hình ảnh cuộc sống rất đỗi đời thường xuất hiện trong trang văn của Nguyễn Tuân.

Tóm lại, đoạn trích “Cô Tô” đã khắc họa được cho người đọc hình ảnh một Cô Tô thật sinh động, chân thực. Thiên nhiên và con người nơi đây đẹp đẽ, hiền hòa làm sao.

Viết một bình luận