Thi Nhân Việt Nam [Hoài Thanh Hoài Chân] ❤️️ Nội Dung, Cảm Nhận ✅ Chia Sẻ Các Thông Tin Về Bộ Đôi Tác Giả, Hoàn Cảnh Ra Đời Của Tác Phẩm.
NỘI DUNG CHÍNH
Về Tác Giả Hoài Thanh Hoài Chân
Thi nhân Việt Nam là cuốn sách vừa là hợp tuyển vừa là nghiên cứu, phê bình về phong trào thơ mới Việt Nam được Hoài Thanh và Hoài Chân biên soạn. Hãy cùng Thohay.vn tìm hiểu chi tiết về tác giả Hoài Thanh Hoài Chân trước khi đi vào tìm hiểu về tác phẩm nhé!
Hoài Thanh
- Hoài Thanh (15/7/ 1909 – 14/3/1982) có tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên (ngoài ra ông còn sử dụng các bút danh khác như Văn Thiên, Le Nhà Quê).
- Quê ông ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
- Ông bắt đầu học chữ Hán, chữ Quốc ngữ, hồi nhỏ ông là học sinh của trường Quốc học Vinh; rồi theo học trường Pháp Việt đến bậc trung học; tham gia phong trào yêu nước của học sinh của Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu.
- Trước 1945, ông tham gia viết văn, làm báo, dạy học và được coi là người đứng đầu trường phái phê bình văn học Nghệ thuật vị nghệ thuật.
- Năm 1927, Hoài Thanh gia nhập Tân Việt Cách mạng Đảng.
- Năm 1930, ông đang học ở trường Bưởi (Hà Nội) thì bị bắt, bị kết án treo, bị trục xuất khỏi Bắc Kỳ và giải về quê.
- Năm 1931 ông vào Huế, làm công cho một nhà in, đi dạy học, đồng thời viết văn, viết báo.
- Hoài Thanh tham gia cuộc Tổng khởi nghĩa của Việt Minh cướp chính quyền ở Huế tháng 8 năm 1945.
- Sau 1945 ông lần lượt giữ những chức vụ quan trọng, đặc biệt ông còn trở thành đại biểu Quốc hội khóa 2, làm Tổng Thư ký Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam; tham gia Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 1 và 2 trong khoảng 10 năm 1958 – 1968.
- Từ 1959 – 1969 ông giữ chức Phó viện trưởng Viện Văn học Việt Nam kiêm Thư ký tòa soạn Tạp chí Nghiên cứu văn học của Viện.
- Từ 1969 – 1975, ông giữ chức Chủ nhiệm tuần báo Văn nghệ.
- Hoài Thanh mất ngày 14 tháng 3 năm 1982 tại Hà Nội. Hưởng thọ 73 tuổi.
Hoài Chân
- Hoài Chân (11/4/1914), em ruột Hoài Thanh, tên khai sinh là Nguyễn Đức Phiên; ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
- Năm 1930, tham gia phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.
- Năm 1931, đang học Trường Cao đẳng Tiểu học Collège Vinh thì bị bắt và bị kết án tù một năm.
- Mãn hạn tù năm 1932, vào Huế kiếm sống đồng thời tự học để thi tú tài.
- Năm 1933, làm nhà in Đắc Lập rồi làm báo Tràng An, La Gazette de Huế.
- Cùng với Hoài Thanh và Lưu Trọng Lư xây dựng Ngân Sơn tùng thư (1933-1935).
- Năm 1942, tự xuất bản quyển Thi nhân Việt Nam.
- Đầu năm 1945, tham gia Việt Minh Tổng khởi nghĩa tháng Tám ở Huế.
- Sau tháng 8/1945, ông từng giữ chức: Chủ nhiệm báo Quyết chiến (Trung Bộ); Trưởng ty Thông tin Nghệ An; Trưởng ty Văn hóa Nghệ An; Phụ trách Nhà xuất bản Văn hóa; Giám đốc kiêm Tổng biên tập Nhà xuất bản Văn hóa (mới).
Đón đọc thêm tác phẩm🌿Những Trò Lố Hay Là Varen Và Phan Bội Châu🌿 Nội Dung, Phân Tích
Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Ra Đời Tác Phẩm Thi Nhân Việt Nam
Cập nhật thêm một số thông tin chính thức về xuất xứ và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm Thi nhân Việt Nam sau đây:
Có thể nói phong trào Thơ mới đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nền văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Các nhà thơ thời bấy giờ đã mang đến cho người đọc một tiếng nói mới, phản ánh khá trung thực tâm trạng của cả một lớp thanh niên tiểu tư sản trong cuộc sống đầy rẫy những muộn phiền, lo toan và bế tắc trước cuộc đời. Với sự đổi mới mạnh mẽ về hình thức nghệ thuật, Thơ Mới đã thực sự thu hút được sự quan tâm của đông đảo những người yêu thơ.
Lúc đó, hai tác giả Hoài Thanh và Hoài Chân đã sớm nhận ra giá trị ấy và kịp thời sưu tầm, giới thiệu các thành tựu qua tác phẩm Thi nhân Việt Nam, cho xuất bản vào đầu năm 1942. Từ đó đến nay, quyển sách đã được tái bản rất nhiều lần.
=> Có thể đánh giá rằng cuốn sách Thi nhân Việt Nam ra đời ngay vào thời kỳ đỉnh cao của phong trào thơ mới (1941), khi các thi nhân ưu tú nhất của thời kỳ này, như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Vỹ, Đoàn Phú Tứ v.v. đã xuất bản những tác phẩm hay nhất của mình (như Gửi hương cho gió của Xuân Diệu, Lửa thiêng của Huy Cận, Thơ Hàn Mạc Tử, Thơ say của Vũ Hoàng Chương…),
Tuyển Tập Các Tác Phẩm Trong Cuốn Thi Nhân Việt Nam
Tuyển tập các tác phẩm nằm trong cuốn Thi nhân Việt Nam của tác giả Hoài Thanh, Hoài Chân.
- Thi Nhân Việt Nam – 01. Nhỏ To
- Thi Nhân Việt Nam – 02. Thế Lữ
- Thi Nhân Việt Nam – 03. Vũ Đình Liên
- Thi Nhân Việt Nam – 04. Lan Sơn
- Thi Nhân Việt Nam – 05. Thanh Tịnh
- Thi Nhân Việt Nam – 06. Thúc Tề
- Thi Nhân Việt Nam – 07. Huy Thông
- Thi Nhân Việt Nam – 08. Nguyễn Vỹ
- Thi Nhân Việt Nam – 09. Đoàn Phú Tứ
- Thi Nhân Việt Nam – 10. Xuân Diệu
- Thi Nhân Việt Nam – 11. Tế Hanh
- Thi Nhân Việt Nam – 12. Phạm Hầu
- Thi Nhân Việt Nam – 13. Xuân Tâm
- Thi Nhân Việt Nam – 14. Thu Hồng
- Thi Nhân Việt Nam – 15. Bàng Bá Lân
- Thi Nhân Việt Nam – 16. Nam Trân
- Thi Nhân Việt Nam – 17. Đoàn Văn Cừ
- Thi Nhân Việt Nam – 18. Hàn Mạc Tử
- Thi Nhân Việt Nam – 19. Chế Lan Viên
- Thi Nhân Việt Nam – 20. Bích Khê
- Thi Nhân Việt Nam – 21. J. Leiba
- Thi Nhân Việt Nam – 22. Thái Can
- Thi Nhân Việt Nam – 23. Vân Đài
- Thi Nhân Việt Nam – 24. Đỗ Huy Nhiệm
- Thi Nhân Việt Nam – 25. Nguyễn Giang
- Thi Nhân Việt Nam – 26. Quách Tấn
- Thi Nhân Việt Nam – 27. Phan Khắc Khoan
- Thi Nhân Việt Nam – 28. Thâm Tâm
- Thi Nhân Việt Nam – 29. Phan Thanh Phước
- Thi Nhân Việt Nam – 30. Lưu Trọng Lư
- Thi Nhân Việt Nam – 31. Nguyễn Nhược Pháp
- Thi Nhân Việt Nam – 32. Phan Văn Dật
- Thi Nhân Việt Nam – 33. Đông Hồ
- Thi Nhân Việt Nam – 34. Mộng Tuyết
- Thi Nhân Việt Nam – 35. Nguyễn Xuân Huy
- Thi Nhân Việt Nam – 36. Hằng Phương
- Thi Nhân Việt Nam – 37. Nguyễn Bính
- Thi Nhân Việt Nam – 38. Vũ Hoàng Chương
- Thi Nhân Việt Nam – 39. Mộng Huyền
- Thi Nhân Việt Nam – 40. Nguyễn Đình Thư
- Thi Nhân Việt Nam – 41. T. T. Kh
- Thi Nhân Việt Nam – 42. Trần Huyền Trân
Đọc hiểu tác phẩm 🔰Đường Kách Mệnh🔰 Nội Dung Tác Phẩm, Giá trị, Phân Tích
Nội Dung Tác Phẩm Thi Nhân Việt Nam
Thi nhân Việt Nam là một cuốn sách phê bình mang tính nghệ thuật ấn tượng, trong đó tác giả đã sử dụng óc chủ quan để cảm nhận và ghi lại những điều cảm nhận đó. Đọc ngay nội dung các chương trong tác phẩm Thi nhân Việt Nam sau đây để hiểu hơn.
1. Nhỏ To
“Có lẽ bạn đương chờ tôi phân ngôi thứ trong làng thơ xem ai nhất, ai nhì… Bạn sẽ thất vọng. Tôi chỉ ghi cảm tưởng xem thơ nên bài viết dài ngắn không chừng. Bạn cũng đừng so sánh thơ trích nhiều ít. Ai lại lấy số trang, số dòng mà định giá một nhà thơ?.
Có lẽ bạn đương chờ những bài nghiên cứu vô tư và khách quan. Bạn cũng sẽ thất vọng. Vô tư thì tôi đã vô tư hết sức, nhưng khách quan thì không. Tôi vẫn có thể vờ bộ khách quan và mặc cho những ý riêng của tôi cái lốt y phục của mọi người. Nhưng việc gì phải khổ thế? Chạy đi đâu cũng không thoát cái tôi thì tôi cứ là tôi vậy. Hay dở tính trời.”
2. Thế Lữ
Được ít lâu bị đau lại về Hải Phòng tĩnh dưỡng. Những ý thơ và đôi bài thơ đầu tiên, như bài “Lựa tiếng đàn”, nẩy ra trong lúc này.
Có chân trong Tự lực văn đoàn và trong toà soạn các báo Phong hoá, Ngày nay, Tinh hoa.
Đã xuất bản: Mấy vần thơ (1935 ). Mấy vần thơ, tập mới (Đời nay, Hà Nội, 1941).
Luôn trong mấy năm mê theo người người này, người khác, tôi không hề nghâm thơ Thế lữ. Tôi cứ nghĩ lòng trí tôi đã thay đổi không sao có thể thích những vần thơ không cùng tôi thay đổi. Nhưng hôm nay, đọc lại những câu với tôi vẫn còn quen quen, tôi sung sướng biết bao. Tôi đón đọc những câu thơ ấy với cái hân hoan của khách phiêu lưu lúc trở về cố hương gặp lại những người thân yêu cũ. Dầu nhìn nét mặt một hai người, khách không khỏi ngờ ngợ…
Nhưng hề chi! Khách vẫn gửi ở đó cái hương vị những ngày âm thầm qua trong gian nhà nọ… Cả một thời xưa tỉnh dậy trong lòng tôi. Tôi sống lại những đêm bình yên đầy thơ mộng.
Độ ấy thơ mới vừa ra đời. Thế lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Vệt Nam. Dẫu sau này danh vọng Thế lữ có mờ đi ít nhiều, nhưng người ta không thể không nhìn nhận cái công Thế lữ đã dựng thành nền thơ mới ở xứ này. Thế lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên bước những bước vững vàng, mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ.
Bởi vì không có gì khiến người ta tin ở thơ mới hơn là đọc những bài thơ mới hay. Mà thơ Thế lữ về thể cách mới không một chút rụt rè, mới từ số câu, số chữ, cách bỏ vần, cho đến tiết tấu âm thanh. Đọc những câu như:
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai cỏ sắc.
Đọc những câu ấy, không ai còn có quyền bĩu môi trước cuộc cách mệnh về thi ca đương nổi dậy, Cho đến những bài thất ngôn, ngũ ngôn, lục bát, song thất lục bát của Thế lữ cũng khác hẳn xưa. Thế lữ làm rạn vỡ những khuôn khổ ngàn năm không di dịch. Chữ dùng lại rất táo bạo. Đọc đôi bài, nhất là bài “Nhớ rừng”, ta tưởng chừng những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được.
Nhưng con người táo bạo ấy vẫn không nỡ lìa những giấc mơ mộng nên thơ của thời trước. Tuy ảnh hưởng thi ca Pháp về phái lãng mạn và nhất là ảnh hưởng tản văn Pháp đã khiến những mộng ấy có một ít hình dáng mới, ta vẫn có thể nhìn nhận dễ dàng cái di sản của lớp người vừa qua. Thế lữ cũng như phần đông thanh niên ta hồi trước hay buồn nản vẩn vơ.
Người muốn sông cuộc đời ẩn sĩ
Trăm năm theo dõi đám mây trôi
Người lưu luyến cảnh tiên trong tưởng tượng, phảng phất nghe tiếng sao tiên, mải mê nhìn những nàng tiên. Muốn gợi trí mơ tưởng cảnh tiên, người không cần chi nhiều. Đương đi giữa đường phố rộn rịp, bỗng trông thấy những cành đào cành mai là người đã… tưởng nhớ cảnh quê hương
Bồng lai muôn thủa vườn xuân thắm,
Sán lại, u huyền, trong khói hương…
Đương cùng bầu bạn uống rượu, vừa ngà ngà say là người đã thoát trần bỏ bạn hữu ở lại để đi về chốn
Lung linh vàng đội cung Quỳnh
Nhịp nhàng biến hiện những mình Tiên nga.
Ở xứ ta từ khi có người nói chuyện tiên, nghĩa là từ khi có thi sĩ, chưa bao giờ ta thấy thế giứoi tiên có nhiều vẻ đẹp như thế. Phải chăng cõi tiên đã cùng cõi trần  u hoá.
Nhưng làm tiên, làm ẩn sĩ hay làm chinh phu chỉ là chuyện mộng. Sự thực thì khi nhe tiếng ái ân réo rắt, chỉ có khách chinh phu” đi theo đuổi bước tương lai”, còn thi nhân và chúng ta ở lại bên sông cùng thiếu nữ. Sự thực thì giấc mộng ẩn sĩ tan dần trong một căn phòng tại Hà Nội. Và nói cho đúng, thi nhân có lên tiên cũng chỉ để nói chuyện dưới trần. Những áo đào thiên tiên người thấy trong khi say thường phấp phới trên bờ hồ Hoàn Kiếm: Tôi muốn nóiThế lữ vẫn nặng lòng trần, Người say theo những cảnh đẹp của trần gian muôn hình muôn vẻ, từ
Cảnh vĩ đại sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ;
cho đến
Nét mong manh, thấp thoáng cánh hoa bay;
Người đã khéo tả hình sắc lại cũng khéo tả âm thanh. Những đoạn thơ tả cảnh, tả tiếng của Thế lữ thực không sao kể xiết. Ngay sau những bài không hay lắm, vẫn có nhiều cái rất thân tình, chẳng hạn như:
Sáng hôm nay, sương biếc toả mờ mờ
Như hương khói đượm đầu cau, mái rạ;
ánh hồng tía rắc ngọc châu trên lá,
Trời trong xanh, chân trời đỏ hây hây.
Nhưng trong “vườn trần gian” còn có gì thắm tươi hơn những thiếu nữ. Cho nên không biết bao nhiêu lần thi nhân tả người đẹp với những nét tinh tế, dịu dàng và âu yếm. Người thấy rõ:
Trên vầng trán ngây thơ, trong sáng
Vẩn vơ qua một áng hương buồn.
Người lặng nhìn:
Đôi mắt cô em như say, như đắm,
Như buồn in hình ảnh giấc mơ xa
Người mải mê nghe tiếng hát người đẹp:
Tiếng hát trong như ngọc tuyền,
Êm như gió thoảng cung tiên.
Cao như thông vút, buồn như liễu:
Nước lặng, mây ngừng, ta đứng yên.
Có những thi nhân chỉ tìm ý thơ trong tình yêu của một người. Trái lại, trong Thế lữ thấp thoáng hình ảnh không biết bao nhiêu người. Mỗi thiếu nữ đã đi qua trong đời thi nhân hay trong trí tưởng thi nhân đều mang theo một chút hưoưng ân ái. Đối với họ thi nhân chưa đủ thân mật để gọi bằng em; thi nhân chỉ dùng hai tiếng “cô em”, nghe lẳng lơ, mà xa vời và thiếu tình ấm áp. Có lẽ Thế lữ là một người khát yêu, lòng mở sẵn để đón một tình duyên không thấy tới. Mối tình yêu không người yêu ấy man mác khắp cỏ cây mây nước, nên thi nhân thường tả những cảnh đượm tình luyến ái:
Mây hồng ngừng lại sau đèo,
Mình cấy nắng nhuộm, bóng chiều không đi:
Trời có những dải mây huyền thấp thoáng
Như vấn vương lưu luyến quyện lòng ai;
Khiến cho cảnh bồi hồi ngây ngất.
Tiếng sáo chưa nỡ dứt trên không,
Khiến cho hồ nước mịt mù,
Ngày không muốn hết, ta không muốn về.
Thơ Thế lữ là nơi hẹn hò của hai nguồn thi cảm. Thế lữ đã băn khoăn trước hai nẻo đường: nẻo về quá khứ với mơ mộng, nẻo tới tương lai và thực tế. Đáng lẽ Thế lữ nên rẽ nẻo thứ hai này. Sau một hồi mộng mị vẩn vơ, thơ Thế lữ như một luồng gió lạ xui người ta biết say sưa cái sán lại của cuộc đời thực tế, biết cười cùng hoa nở chim kêu, biết yêu và biết yêu tình yêu. Thế lữ đã làm giáo sư dạy khoa tình ái cho cả một thời đại
Nhưng hình như có hồi Thế lữ đã đi lầm đường. Bởi người ta nói quá nhiều, nên thi nhân tưởng quê hương mình là tiên giới và quên rằng đặc sắc của người chính ở chỗ tả những vẻ đẹp thực của trần gian.
Tuy vậy, dầu về sau thơ Thế lữ có phần kém trước, nhưng giá những bài thơ ấy là của một người khác, thì vẫn có thể dành cho tác giả nó một địa vị khá trên thi đàn. Bởi vì Thế lữ ít khi ghép những lời suông, khi nào viết cũng có chuyện gì để nói.
Tôi nói về Thế lữ đã quá nhiều rồi. Nhưng còn biết bao nhiêu điều muốn nói nữa. Tôi thấy chung quanh tôi người ta lạnh lùng quá. Thế lữ cơ hồ đã đi theo phần đông thi sĩ trong ” Văn đàn bảo giám”. Cái cảnh lạt phai ấy sao buồn thế!
Không, ta hãy đi ngược lại thời gian, quên những sở thích nhất thời và trân trọng lấy những bông hoa vẫn thắm tươi như hồi mới nở.
Tháng 1 – 1941
3. Vũ Đình Liên
Có những nhà thơ không bao giờ có thể làm được một câu thơ – tôi muốn nói một câu đáng gọi là thơ. Những người ấy hẳn là những người đáng thương nhất trong thiên hạ. Sao người ta thương hại những kẻ bị tình phụ nuôi một giấc mộng ái ân không thành, mà không ai thương lấy những kẻ mang một mối tình thơ u uất chịu để tan tành giấc mộng quí nhất và lớn nhất ở đời; giấc mộng thơ?
Hôm nay trong khi vviết quyển sách này, một quyển sách họ sẽ xem như một sự mỉa mai đau đớn, thơ Vũ Đình Liên bỗng nhắc tôi nghĩ đến những con người xấu số kia.
Tôi có cần phải nói ngay rằng Vũ Đình Liên không phải một người xấu số? Trong làng thơ mới, Vũ Đình Liên là một người cũ. Từ khi phong trào thơ mới ra đời, ta thấy có thơ Vũ Đình Liên trên các báo. Người cũng ca tình yêu như hầu hết mọi nhà thơ hồi bấy giờ. Nhưng hai nguồn thi cảm chính của người là lòng thương người và tình hoài cổ. Người thương những kẻ thân tàn ma dại, người nhớ những cảnh cũ người xưa. Có một lần hai nguồn cảm hứng ấy đã gặp nhau và đã để lại cho chúng ta một bài thơ kiệt tác: Ông đồ. Ông đồ năm năm đến mùa hoa đào, lại ngồi viết thuê bên đường phố. “Ông chính là cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn”. Ít khi có một bàu thơ bình dị mà cảm động như vậy. Tôi tưởng như đọc lưòi sám hối của cả một bọn thanh niên chúng ta đối với lớp người đương đi về cõi chết. Đã lâu lắm chúng ta chỉ xúm nhau lại chế giễu họ quê mùa, mạt sát họ hủ lậu… Cái canht htương tâm của nền học Nho lúc mạt vận chúng ta vô tình như không lưu ý. Trong bọn họ, chúng ta vẫn có một hai người ca tụng đạo Nho và các nhà nho. Nhưng chế giễu mạt sát không nên, mà ca tụng cũng không được. Phần đông các nhà nho còn sót lại chỉ đáng thương. Không nghiên cứu, không lý luận, Vũ Đình Liên với một tấm lòng dễ cảm nhận ra sự thực ấy và gián tiếp chỉ cho ta cái thái độ hợp lý hơn cả đối với các bực phụ huynh của ta. Bài thơ của người có thể xem là một nghĩa cử.
Theo đuổi nghề văn mà làm được một bài thơ như thế cũng đủ. Nghĩa là đủ đeer lưu danh, đủ với người đời. Còn riêng đối với thi nhân thực chưa đủ. Tôi thấy Vũ Đình Liên còn bao nhiêu điều muốn nói, cần nói mà nghẹn nghào không nói được. “Tôi bao giờ – Lời Vũ Đình Liên – cũng có cái cảm tưởng là không đạt ý thơ của mình. Cũng vì không tin thơ tôi có một chút giá trị nên đã lâu tôi không làm thơ nữa”. Vũ Đình Liên đã hạ mình quá đáng, chúng ta đều thấy. Nhưng chúng ta cũng thấy trong lời nói của người một nỗi đau lòng kín đáo. Người đau lòng thấy ý thơ không thoát được lời thơ như linh hồn bị giam giữ trong nhà tù xác thịt. Có phải vì thế mà hồi 1937, trước khi từ giã thi đàn, người đã gửi lại đôi vần thơ u uất:
Nặng mang mãi khối hình hài ô nhục.
Tâm hồn ta đã nhọc tự lâu rồi!
Bao nhiêu xanh thăm thẳm trên bầu trời;
Bao bóng tối trong lòng ta vẩn đục!
Nghĩ cũng tức! Từ hồi 1935 tả cảnh thu, Vũ Đình Liên viết:
Làn gió heo may xa hiu hắt,
Lạng lùng chẳng biết tiễn đưa ai!
Hai câu thơ cũng sạch sẽ, dễ thương. Nhưng làm sao người ta còn nhớ được Vũ Đình Liên khi người ta đã đọc, bốn năm sau mấy câu thơ Huy Cận cùng một tứ:
Ôi! nắng vàng sao nhớ nhung!
Có ai đàn lẻ tơ chùng?
Có ai tiễn biệt nơi xa ấy
Xui bước chân đây cũng ngại ngùng…
Cũng may những câu thơ hoài cổ của Huy Cận:
Bờ tre rung động trống trầu,
Tưởng chừng còn vọng trên lầu ải quan
Đêm mơ lay ánh trăng tàn,
Hồn xưa gửi tiếng thời gian, trống dồn.
Những câu thơ tình nhẹ nhàng, tứ xa vắng chưa đến nỗi làm ta quên cái lòng hoài cổ âm thầm, u tịch của Vũ Đình Liên:
Lòng ta là những hàng thành quách cũ,
Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa.
Tháng 9 – 1941
4. Lan Sơn
Tình yêu không đưa Lan Sơn vào một trời đất xa lạ; Lan Sơn chưa từng đi sâu vào những chỗ u ẩn trong lòng người. Người chỉ nói những điều rất tầm thường, nhưng điều ai cũng biết, nhưng giọng nói của người thiết tha, chân thực dễ cảm lòng ta.
Xem như khi người mong thư:…
Thư bạn thôi không có buổi nay!
Người phát thư vừa qua khỏi của,
Lòng anh như dại lại như ngây.
cùng khi người tìm bạn:
Em ơi, nói mãi chỉ thêm sầu
Mỏi mắt phương trời chốc bấy lâu,
Phố xá xôn xao, người nhộn nhịp,
Tìm em anh đâu có thấy em đâụ
Kể Lan Sơn còn vụng về nhiều. Lắm lúc người ngập ngừng, bỡ ngỡ. Nhưng cái bỡ ngỡ ấy không phải không có chút duyên riêng. ấy là cái duyên của người thiếu nữ khi thỏ thẻ những lời ngây ngô mà thành thực:
Em thường nói: “Ai hơn anh được!
Em trông anh thật khác người ta,
Biển tình cho nổi phong ba
Người là người lạ anh là anh em”.
Tiếc thay tình yêu ngày một lạt. Lan Sơn hình như chỉ còn giữ lại cái bóng để làm thơ. Nhưng tình hết, thơ Lan Sơn cũng hết. Chỉ có những lúc hồi tưởng lại thời thơ ấu, trong lòng người mới có chút trong trẻo có diễn ra thơ. Con người dễ thương ngày trước, con người mà Ô. Nguyễn Tiến Lãng gọi bằng em trong một bài tựa (Anh với em) con người ấy đã trở nên tối tăm, rắc rối, cầu kỳ, con người ấy tôi không muốn biết nữa.
Tháng 9 – 1941
5. Thanh Tịnh
Họ Trần, Sinh ngày 12-12-1913 ở làng Dưỡng Nô (Thừa Thiên). Học trường Đông Ba, Trường Pellerin( Huế). Có bằng thành chung. Hiện dạy tư ở Huế.
Đã viết giúp: Phong hoá, Ngày nay, Hà nội báo, Tiểu thuyết thứ năm, Tinh hoa…
Đã xuất bản: Hận chiễn trường (1936).
Xem thơ Thanh tịnh cái cảm giác trội nhất của tôi là thấy một cái gì cứ dàn trải, dàn trải hoài mà lại lỏng. Có lẽ là một mặt hồ, cũng chưa đúng. Hồ còn có bờ, có hình nhất định. ở đây không có bờ, và nước – âu cũng phải gọi là nước – cứ chảy tràn lan. Những cảnh sắc in hình trên mặt nước vẫn thường xuyên thay đổi: có khi là một cây liễu rủ, có khi là một luỹ tre. Nhưng sắc dầu có khác, bao giờ cũng chỉ ngần ấy nước mà thôi. Có một lần người ta bỗng thấy trên mặt nước dựng lên một lâu đài xương máu (Hận chiến trường, Mấy vần thơ máu); nhưng khi người ta tới nơi nó lại biến mất. Thì ra một ảo cảnh.
Kể chỗ này cũng trống trải. Hình như đằng xa kia có vài ngọn núi. Nhưng đây vẫn là nơi hò hẹn của những ngọn gió bốn phương. Mỗi lần gió đến mặt nước không buồn cưỡng, cứ tự nhiên lướt theo chiều gió. Có khi người ta còn thấy nó vươn mình lên ngang tầm gió, tưởng chừng như nó muốn hoá thân làm gió. Nhưng qua lại thôi và rồi nó cũng được cái mềm mại, cái ẩn ước là bản sắc của nó.
Tháng 9 – 1941
6. Thúc Tề
Tên chính là Thúc Nhuận. Sinh ngày 17-10-1916 ở Huế.
Học: trường Qui nhơn, trường Quốc học Huế.
Đã viết giúp: Văn học tạp chí 1935, Mai, Dân quyền…
Hiện là chủ bút tuần báo Đông Dương (Sài gòn).
Tôi yêu bài “Trăng mơ” của Thúc Tề. Mở bài ra, hồn thi nhân kéo dài lê trên trang giấy chán nản, uể oải. Có lẽ nó đã nhập vào cái trăng kia, “ẻo lả” khi nằm mơ “lười biếng” khi thức dậy, nhưng khi đã tỉnh, nó mới linh động làm sao. Nó uyển chuyển như một người đẹp. Cái mệt mỏi của Dương Quí Phi (Bạch cư Dị) với cái nhẹ nhàng của Yến Phi.
Tháng 10/1941
7. Huy Thông
Ngoài ra đã đăng báo: Con voi già (tặng Phan Sào Nam), Hận chiến sĩ, Tần Hồng Châu, Lòng hối hận, Chàng Lưu, Kinh Kha, Huyền Trân Công chúa, Tây Thi…
Người thiếu niên ấy cũng như hầu hết những thiếu niên, đã sống những giấc mộng êm ái êm dịu. Và cũng như hầu hết những thiếu niên, chàng đã tưởng ở đời không có gì quan trọng hơn những vui buồn thương nhớ của mình. Chàng đã kể lể dông dài và lắm lúc đã quên rằng người nói đành không bao giờ chán nhưng người ta rất dễ chán.
Cũng may, thỉnh thoảng Huy Thông biết vờ quên mìng đi để những giấc mộng ái ân của người đượm một vẻ mơ hồ riêng.
Hoặc người tạo ra một cái không khí là lạ khiến ta nhớ đến những chiêm bao chính ta đã từng trải qua hay những chiêm bao Shakespeare đã đưa lên sân khấu.
Hoặc người cầu cứu đến lich sử là cái môn người vẫn sở trường dẫn nẻo cho nguồn mơ. Người mượn lời một thiếu nữ trong mộng để gợi lại cảnh xưa:
Ngân lang! Ngân lang! Chàng còn nhớ,
Chiều xuân xưa, trên ngựa, đỡ kim cầu,
Chàng thảo mấy dòng thơ như nhạn múa
Trên tờ mây thiếp vẫn giữ bên tim sầu?
Người lưu luyến cái hình ảnh Tây Thi, người ước ao cái sung sướng của Phù Sai, Phạm Lãi. Người gọi bạn:
Đi! Cùng anh tới Cô Tô cảnh cũ
Chờ giăng lên mơ nữa giấc mơ xưa.
Nhưng Huy Thông không phải chỉ biết những giấc mộng ái ân êm dịu. Khi yêu người còn có những khát vọng lạ lùng:
Tôi muốn hoá một con chim
Bay lên cao mơn trớn sợi mây hồng;
Muốn uống vào trong buồng phổi vô cùng
Tất cả ánh sáng dưới gầm trời lồng lộng;
Muốn có đôi cánh tay vô ngần to rộng
Để ôm ghì cả vũ trụ vào lòng tôi!
Một người có những ham muốn dị thường như thế ắt phải ưa sống cái đời những vị anh hùng thời trước, hồi thế giới còn hoang vu, hồi một người trượng phu còn có thể tin rằng mỗi hành vi của mình đều làm xao động cả đất trời. Đặc sắc của Huy Thông chính là ở những bài anh hùng ca như bài Tiếng địch sông Ô tả bước đường cùng của Hạng Tịch. Chưa bao giờ thi ca Việt nam có những lời hùng tráng như trong tác phẩm của người thiếu niên hiền lành và xinh trai ấy. Hãy nghe Hạng Tịch than:
Nén đau thương, vương ngậm ngùi sẽ kể
Niềm ngao ngán vô biên như trời bể.
Ôi! Tấm gan bền chặt như Thái Sơn,
Bao nhiêu thu cay dắng chẳng hề sờn!
Ôi. Những trận mạc khiến “trời long đất lở”
Những chiến thắng tưng bừng. Những vinh quang rực rỡ
Ôi! Những võ công oanh liệt chốn sa trường!
Những buổi tung hoành, lăn lộn trong rừng thương!
Những tướng dũng bị đầu văng trước trận…!
Nhưng, than ôi vận trời khi đã tận,
Sức “lay thành nhổ núi” mà làm chi
Hơi văn mà đến thế thực đã đến bực phi thường. Anh hùng ca của Vitor Huygo tưởng cũng chỉ thế. Giữa cái ẻo lả, cái uỷ mị của những linh hồn đang chờ sa ngã, thơ Huy Thông đã ồ ạt đến nhưmột luồng gió mạnh. Nó cuốn bừa đi. Người xem thơ ngạc nhiên và sung sướng và thấy mình vẫn còn đủ tráng khí để buồn cái buồn Hạng Tịch.
Chỉ tiếc rằng Huy Thông, người anh hùng trong mộng tưởng ấy, lại cũng là một thiếu niên khao khát yêu đương và rất lễ phép với đàn bà. Có khi vô tình người đã phác hoạ Hạng Tịch theo hình ảnh của mình. Đã đành Hạng Tịch mê Ngu Cơ, đã đành ái tình không chia kim cổ kim, nhưng tình yêu của Hạng Tịch hẳn phải thế nào chứ!
Tháng 8 – 1941
8. Nguyễn Vỹ
Sinh năm 1910 ở làng Tân Hội(sau đổi thành Tân Phong) huyện Đức Phổ( Quảng Ngãi). Học trường Quảng Ngãi, trường Qui Nhơn. Đã từng cạo đầu đi tu, gánh cát ở bãi sông Cái, bán kẹo ở Hà Nội, bán báo ở Sài Gòn. Hiện nay ở Hà Nội sông bằng nghề văn.
Đã viết: Ami du peuple, Le Cygne, Văn học tạp chí 1935, Hanoi báo, Phụ nữ.
Đã xuất bản: Tập thơ đầu 1934
Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với tiếng chiêng trống xập xoè inh cả tai. Chúng ta đổ nhau ra xem. Nhưng chúng ta lại tưng hửng trở vào vì ngoài cái lối ăn mặc và những điệu bộ lố lăng lúc đầu ta thấy con người ấy không có gì.
Táo bạo thì táo bạo thực, nhưng trong văn thơ táo bạo không đủ đưa người ta ra khỏi cái tầm thường. Khi Nguyễn Vỹ hô hào:
Ta hãy truyền một thi hứng cho thế kỷ hai mươi,
Ta hãy ký thác trong vần thơ những tình sâu ý hiểm
Người có biết rằng trong hai câu này không có lấy một chút “tình sâu ý hiểm” và mặc dù cái lốt mới rềnh ràng của chúng, chúng vẫn có thể nằm xếp hàng với những câu sáo nhất xưa và nay mà không chút… ngượng. Tránh tầm thường mà lại rơi vào tầm thường là thế.
Nguyễn Vỹ quả là muốn loè những kẻ tầm thường là bọn chúng ta. Thực ra chúng ta cũng dễ bị loè. nhưng ở chỗ nào khác kia, chứ trong văn chương thì hơi khó. Một hai người có thể lắm; năm mười người; trăm ngàn người có thể lầm; chứ cả đám người mênh mông không tên tuổi kia thì ít khi nhầm lắm. Chúng ta có thể lầm trong một hai năm chứ lầm luôn trong năm bảy năm hay lâu hơn nữa, là chuyện thảng hoặc mới có.
Tôi tin rằng linh hồn chung của một lớp người đủ phức tạp để cảm thông với hầu hết những vần thơ văn có giá trị. Một bài thơ như bài” Sương rơi” được nhiều người thích. Người ta thấy Nguyễn Vỹ đã sáng tạo ra một nhạc điệu riêng để tả một cái gì đương rơi. Cái gì đó có thể là những giọt sương cũng có thể là những giọt lệ hay những giọt gì rơi đều đều, chậm chậm trong lòng ta mỗi lúc vẩn vơ buồn ta đứng một mình trong lặng lẽ.
Nhưng” Sương rơi” còn có vẻ một bài văn.” Gửi Trương Tửu” mới thực là kiệt tác của Nguyễn Vỹ. Trong lúc say, Nguyễn Vỹ đã quên được cái tật cố hữu của người, cái tật loè đời. Người ta đã quên những câu thơ hai chữ và những câu thơ mười hai chữ. Người dùng một lối thơ rất bình dị, rất xưa lối thất ngôn tràng thiên liên vận và liền chân. Lời thơ thống thiết, uất ức, đủ dãi nỗi bi phẫn cho cả một hạng người. Một hạng người nếu có tội với xã hội thì cũng có chút công, một hạng người đã đau khổ nhiều lắm, hạng sống bằng nghề văn. Hãy cho là họ không có gì xuất chúng đi thì ít nhất họ cũng đã nuôi những giấc mộng to lớn khác thường. Nhưng đời không chiều họ; đụng vào sự thực, những giấc mộng của họ đều tan tành và lần lượt họ bỏ thây dọc đường hay một căn phòng bố thí.
Nguyễn Vỹ dã làm bài thơ này trong một lúc vô cùng buồn giận cái nghiệp văn chương. Nhưng ai cùng một cảnh huống xem thơ tưởng có thể khóc lên được. Trong lời văn còn một chút nghênh ngang từ đời xưa lưu lại. Nhưng ta đã xa lắm rồi cái kiêu ngạo phi thường của Lý Bạch, chỉ có văn chương còn khinh hết thảy:
Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt
Sở vương đài tạ không sơn khâu;
Hứng cam lạc bút giao ngũ nhạc
Thi thành tiếu ngạo lăng thương châu.
Với Nguyễn Vỹ chúng ta đã mất hẳn cái cười kiêu ngạo ấy và ngơ ngác thấy sắp cùng hàng với… chó.
Cái lối sắp hàng kỳ quái ấy đã làm phật ý Tản Đà. Một hôm say rượu, Tản Đà trách Nguyễn Vỹ: “Sao anh lại ví nhà văn chúng mình với chó? Anh không sợ xấu hổ à?” Nguyễn Vỹ đáp lại, cũng trong lúc say: “Tôi có ví như thế thì chó xấu hổ chứ chúng ta xấu hổ nỗi gì?”
Tháng 9 – 1941
9. Đoàn Phú Tứ
Sinh ngày 10-9-1910 ở Hà Nội. Học ở Hà Nội. Có bằng tú tài Tây.
Viết văn từ năm 1925, lúc còn học lớp nhất. Những bài văn đầu tiên là những bài từ khúc đăng báo Đông Pháp. Sau này thỉnh thoảng viết giúp Phong Hoá, Ngày nay. Năm 1937, chủ trương tờ Tinh hoa. Chuyên viết kịch. Làm thơ rất ít.
Hẳn có kẻ sĩ sẽ ngạc nhiên thấy Đoàn Phú Tứ trong quyển này. Người ta vẫn nghĩ Đoàn Phú Tứ chỉ có tài viết kịch và diễn kịch. Nhưng thơ hay không cần nhiều. Đoàn Phú Tứ chỉ làm thơ có dăm bảy bài mà hầu hết là những bài đặc sắc. ấy là một lối thơ rất tinh tế và rất kín đáo. Thi nhân ghi lại bằng những nét mong manh những cảm giác rất nhẹ nhàng. Người xem thơ cũng biết rằng đây là hình ảnh một đôi mẩu đời, nhưng hình ảnh mờ quá không thể đoán những mẩu đời kia như thế nào. Có khi cả ý nghĩa bài thơ cũng không hiểu rõ.
Nhiều người khi làm thơ chỉ biết có mình, không giấu giếm gì hết; thơ làm ra in lên báo lên sách thì được, nhưng không thể đưa đọc trước người khác vì quá sỗ sàng. Đoàn Phú Tứ không thể. Tôi tưởng Đoàn Phú Tứ có thể đọc thơ mình trước mọi người mà không sợ ngượng.
Tháng 5-1941
10. Xuân Diệu
Có chân trong Tự lực văn đoàn.
Đã viết giúp: Phong Hoá, Ngày nay, Tinh hoa.
Đã xuất bản: Thơ thơ(Đời nay, Hà Nội 1938).
Bây giờ khó mà nói dược cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu đến. Người đã tới giữa chúng ta một y phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con người có hình thức phương xa ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần, vì ta thấy người cùng ta tình đồng hương vẫn nặng.
Ngày một ngày hai cơ hồ ta không còn để ý đến những lối dùng chữ đặt câu quá Tây của Xuân Diệu, ta quên cả những ý tứ người đã mượn trong thơ Pháp. Cái dáng dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã quyến rũ ta. Đọc những câu:
Nếu hương đêm say dậy với trăm rằm,
Sao lại trách người thơ tình lơi lả?
Hay là:
Chính hôm nay gió dại tới trên đồi,
Cây không hẹn để ngày mai sẽ mát;
Trời đã thắm, lẽ đâu vườn cứ nhạt?
Đắn đo cho lỡ mộng song đôi!
Ta thấy cái hay ở đây không phải là ý thơ, mà chính là cái lối làm duyên của Xuân Diệu, cái vẻ đài các rất hiền lành của điệu thơ.
Nhưng thơ Xuân Diệu chẳng những diễn đạt được cái tinh thần cố hữu của nòi giống. Vả chăng tinh thần một nòi giống có cần gì phải bất di dịch. Sao lại bắt ngày mai phải giống hệt ngày hôm qua? Nêu ra một mớ tính tình, tư tưởng tục lệ, rồi bảo: người Việt Nam phải như thế, là một điều tối vô lý. Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quít, muốn tận hưởng cuộc sống ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết. Nhưng sự sống muôn hình thức mà trong những hình thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trên rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một làn chín vạn dặm mới là sống. Sự bồng bột Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi. Sau khi đọc đi đọc lại nhà thơ có tâm hồn phức tạp này, sau khi đã tìm kiếm Xuân Diệu hoài, tôi thấy đây mới thực là Xuân Diệu. Trong cảnh mùa thu rất quen với thi nhân Việt Nam chỉ Xuân Diệu mới để ý đến
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
cùng cái
Cành biếc run run chân ý nhi.
Nghe đàn dưới trăng thu chỉ Xuân Diệu mới thấy
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình
và mới có cái xôn xao gửi trong mấy hàng chữ lạ lùng này:
Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời;
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi.
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người.
Cũng chỉ Xuân Diệu mới tìm được nơi đồng quê cái cảnh
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một nghìn năm và của hai thế giới.
Cho đến khi Xuân Diệu yêu, trong tình yêu của người cũng có cái gì rung rinh. Người hồi tưởng lại:
Rượu nơi mắt với khi nhìn ướm thử;
Gấm trong lòng và khi đứng chờ ngây;
Và nhạc phấn dưới chân mừng sánh bước
Và tơ giăng trong lời nhỏ khơi ngòi;
Tà áo mới cũng say mùi gió nước;
Rặng mi dài xao động ánh dương vui.
Còn rất nhiều câu có thể tiêu biểu cho lối xúc cảm riêng của Xuân Diệu. Tôi chỉ dẫn một thí dụ này nữa. Trong bản dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Vịnh có hai câu:
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt
Một vừng trăng trong vắt lòng sông
Tả cảnh chung quanh thuyền sau khi người Tỳ bà phụ vừa đánh đàn xong. Một cái cảnh lặng lẽ, lạnh lùng ẩn một mối buồn âm thầm, kín đáo. Thế Lữ có lẽ đã nhớ đến hai câu ấy khi viết:
Tiếng diều sáo nao nao trong vắt,
Trời quang mây xanh ngắt màu lơ.
Mặc dầu hai chữ” nao nao” có đưa vào trong câu thơ một chút rung động, ta vẫn chưa xa gì cái không khí bình yên trên bến Tầm Dương. Với Xuân Diệu cả tình lẫn cảnh trở nên xôn xao vô cùng. Người kỹ nữ của Xuân Diệu cũng bơ vơ như người tỳ bà phụ nhưng nàng không lặng lẽ buồn ta thấy nàng run lên vì đau khổ:
Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo;
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.
Ngay từ khi trăng mới lên, nàng đã thấy:
Gió theo trăng từ biển thoáng qua non;
Buồn theo gió lan xa từng thoáng rợn.
Chỉ có trong thơ Xuân Diệu mới có những thoáng buồn rờn rợn như vậy. Ngay lời văn Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi. Xuân Diệu viết văn tựa trẻ con học nói hay như người ngoại quốc mới võ vẽ tiếng Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ nhưng cái dáng thơ bỡ ngỡ ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người. Dòng tư tưởng quá sôi nổi không thể đi theo những đường có sẵn. Ý văn xô đẩy khuôn khổ câu văn phải lung lay. Nhưng xét rộng ra, cái náo nức, cái xôn xao của Xuân Diệu cũng là cái náo nức xôn xao của thanh niên Việt Nam bây giờ. Sự đụng chạm với phương tây đã làm tan rã bao nhiêu bức thành kiên cố. Người thanh niên Việt nam được dịp ngó trời cao đất rộng, nhưng cũng nhân đó mà cảm thấy cái thê lương của vũ trụ, cái bi đát của kiếp người. Họ tưởng có thể nhắm mắt làm liều, lấy cái cá nhân làm cái cứu cánh cho cá nhân, lấy sự sống làm mục đích cho sự sống. Song đó chỉ là một cách dối mình. “Chớ để riêng em phải gặp lòng em”, lời khẩn cầu của người kỹ nữ cũng là lời khẩn cầu của con người muôn thuở. Đời sống của cá nhân cần phải vịn vào một cái gì thiêng liêng hơn cá nhân và thiêng liêng hơn sự sống bởi Xuân Diệu đã gửi trong thơ của người lẫn với một chút hương xưa của đất nước bao nhiêu nỗi niềm riêng bây giờ – Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới – nên chỉ những người còn trẻ mới thích đọc Xuân Diệu, mà đã thích thì phải mê. Xuân Diệu không như Huy Cận vừa bước vào làng thơ đã được người ta dành ngay cho chỗ ngồi yên ổn. Xuân Diệu đến giữa chúng ta tới nay đã ngót năm năm mà những tiếng khen chê chưa ngớt. Người khen, khen hết sức; người chê, chê không tiếc lời. Xong những ai chê Xuân Diệu, tưởng Xuân Diệu có thể trả lời theo lối Lamartine ngày trước: “Đã có những thiếu niên, những thiếu nữ hoan nghênh tôi”.
Với một nhà thơ còn gì quý hơn cho bằng sự hoan nghênh của tuổi trẻ.
Tháng 7- 1941
11. Tế Hanh
Họ Trần. Sinh ngày 15 tháng 5 năm Tân Dậu (1921) ở làng Đông Yên, phủ Bình Sơn(Quảng Ngãi). Chánh quán: làng giao Thuỷ, cách làng kia một con sông Đậu sơ học rồi ra Huế học trường Khải Định. Ở đó quen Huy Cận, và được Huy Cận chỉ vẽ cho nhiều. Hiện học năm thứ hai ban trung học.
Những bài thơ trích sau đây trong tập Nghẹn nghào đã được giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn năm 1939.
Tôi thấy Tế Hanh là một người tinh tế lắm. Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh như “mảnh hồn làng” trên “cánh buồm giương”, như tiếng hat của hương đồng quyến rũ con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ta vào một cái thế giới rất gần gũi thường ta chỉ thấy một cách mờ mờ, cái thế giới những điềunhững tình cảm ta âm thầm trao cho cảnh vật: sự mỏi mệt say sưa của con thuyền lúc trở về bến, nỗi khổ đau chất chứa trên toa hàng nặng trĩu, những vui buồn sầu tủi của một con đường. Tế Hanh luôn nói dến những con đường. Cũng phải. Trên những con đường ngưng lại biết bao nhiêu bâng khuâng hồi hộp!
Nhưng Tế Hanh sở dĩ nhìn đời một cách sâu sắc như thế là vì người sẵn có một tâm hồn tha thiết. Hôm đầu gặp người thiếu niên ấy, người rụt rè ngượng nghịu như một chàng rể mới. Nhưng tôi vẫn nhớ đôi mắt. Đôi mắt nồng nàn lạ. Tôi nghĩ ở một người như thế những điều cảm xúc, những nỗi đau xót quá mực thông thường và có khi khác thường. Như khi yêu, người thấy:
Kìa em, lên! Rực rỡ bốn phương trời;
Đôi mắt to ném lửa sáng nơi nơi;
Vừng trán rộng, hào quang loà chói rực,
Ta thấy sáng! Hồn phiêu diêu thoát tục,
Lòng lâng lâng không muốn ước mơ chi,
Mắt lim dim đầu cúi gục chân quỳ…
Tuy lời thơ còn có gì lệch với hồn thơ nhưng không có một tâm hồn đắm đuối không thể viết nên nhưng lời thơ như thế.
Khi thất vọng thi nhân ước cho người yêu chết đi để được ngồi trên mồ nhỏ từng giọt nước thấm xuống tấm thân lạnh lẽo.
Tệ hơn nữa, người muốn hưởng cái thú tàn nhẫn được thấy người yêu, tiếng khóc.
Rách đau thương như lụa xé tơi bời.
Chúng ta sẽ ngạc nhiên và băn khoăn không biết ở những chỗ sâu kín trong lòng ta có gì giống như thế không. Đầu sao, sự thành thực của thi nhân không thể ngờ được.
Nhưng tôi chưa muốn nói nhiều về Tế Hanh. Tế Hanh còn trẻ và cũng mới vào làng thơ, chưa có thể biết rõ những con đường người sẽ đi.
Tháng 4-1941
12. Phạm Hầu
Con quan nguyên thượng thư Phạm Liệu. Sinh ngày 2 -3-1920 ở Trừng Giang, phủ Điện Bàn (Quảng Nam). Học trường Quốc học Huế, trường Mỹ thuật Hà Nội.
Đã đăng thơ: Tao đàn, Mùa gặt mới
Lần đầu tôi xem thơ Phạm Hầu trên tạp chí Tao đàn, những bài thơ in bằng thứ chữ chắc chắn, đậm nét. Lần ấy tôi bỏ qua. Hôm nay đại khái cũng những bài thơ ấy tôi lại thích. Sự thay đổi đó tôi tin rằng một phần cũng vì những bài tôi xem hôm nay đều do tác giả chép bằng một lối chữ khác hẳn lối chữ Tao đàn ngày trước. Những chữ mảnh khảnh, nhỏ nét, nằm trên trang giấy như còn e thẹn, ngập ngừng. Lối chữ này đã giúp tôi hiểu Phạm Hầu dễ dàng hơn. Ở đời có những người nói to bước vững. Phạm Hầu quyết không phải trong hạng ấy. Ở giữa đời Phậm Hầu là một cái bóng, chân đi không để dấu trên đường đi. Người còn mải sống với mình và con người ta trưởng không có gì là một người vô vạn. Lòng người là một vọng hải dài, người chỉ việc đứng trên đài lòng mà nghắm: Qua lại thiếu gì mây sớm gió chiều. Một buổi trưa bình yên người thấy:
Có cái gì chuyển thay đây với đó,
Một cái gì lên xuống mãi không thôi.
Lắng càng lâu càng nghe mãi xa xôi…
Một tiếng nhẹ trong tiếng nào nhẹ nữa.
Cho đến khi yêu, người vẫn ưa nhìn lòng mình hơn nhìn nhan sắc người yêu:
Gặp tình cờ song chẳng biết vì đâu.
Chân em trắng vậy mà lòng anh lạnh.
Cái màu trắng kia tưởng ở trong lòng người thơ nhiều hơn là trên chân người đẹp.
Thơ như thế mà in ra bằng một thư chữ chắc chắn, rõ nét thì thực lệch lạc cả. Hồn thơ là một cái gì rất mong manh, có khi chỉ một tí cũng đủ làm tiêu tan hết. Không lẽ mỗi bài thơ – không, mỗi câu thơ – in một thứ chữ, nhưng phải như thế mới có nghĩa.
Tháng 10 – 1941
13. Xuân Tâm
Chính tên là Phan Hạp. Sinh ngày 1-1-1916 ở làng Bảo An, phủ Diện Bàn (Quảng Nam). Học: trường Chaigneau, trường Quốc học (Huế) có bằng thành chung. Hiện làm việc ở sở Kho bạc Tourane.
Đã đăng thơ: Tân Văn, Sông Hương
Đã xuất bản: Lời tim non (1941)
Học trò trong Quảng ra thi
Thấy cô gái Huế chân đi không đành.
Tôi thấy rõ Xuân Tâm, người học trò Quảng ấy, có phải lòng một cô gái Huế không? Nhưng cảnh Huế cũng là một cô gái và cô gái này đã quyến rũ lòng non trẻ của Xuân Tâm
Mặc dầu cảnh Huế cơ hồ Xuân Tâm không nói đến, không khí sông Hương núi Ngự vẫn mang mác trong thơ Xuân Tâm. Tìm kiếm Xuân Tâm hoài, tôi chỉ thấy một ít Xuân Diệu, một Huy Cận không buồn mênh mông, một xứ Huế không có cái bâng khuâng của Phan Văn Dật, cái vẻ tài hoa của Nguyễn Đình Thư, cái dáng non yếu của Mộng Huyền, cái vẻ ngây thơ của Thu Hồng cái ẩn ước của Thanh Tịnh. Huế ở đây trong sạch đứng đắn và nhất là có chừng mực. Nhà văn sĩ Pháp Pujarniscle viết về Huế có câu: “Thành phố mỉm cười khi thương đau, thở than khi vui vẻ”.
Quả có thế. Vui hay buồn ở Xuân Tâm đều có vẻ dịu dàng vừa phải. Ta hãy xem khi người buồn:
Đám cưới người ta vui vẻ nhỉ;
Pháo tràng gieo đỏ, tiệc liên miên;
Riêng tôi đi tránh, buồn và nghĩ:
-Cảnh ấy nào đâu phải cảnh tiên…
và khi vui:
Thấy chiều, hớn hở tôi ra đón
Như đứa trẻ con thấy mẹ về.
Chiều buồn, chiều đẹp, chiều mơn chớn,
Chiều ru êm ái khúc lòng tê.
Vui hay buồn cũng phảng phất như nhau.
Còn khi Xuân Tâm giận dữ thì thực… buồn cười: người như Xuân Tâm có lẽ không giận dữ được. Người mến tình yêu, ghét dục vọng. Muốn giữ vẻ thiêng liêng cho tình yêu, người hung hăng quát tháo:
Ôi khốn nạn! Ôi điên rồ! Giận tức!
Đuổi đi mau Xác thịt, đuổi đi mau!
Dắt nó ra, ném nó xuống lầu
Đẹp đẽ và nguy nga tình Yêu mến…
Tôi tưởng tượng cái cười ranh mãnh của Xác thịt, trong khi bị nhà thơ đuổi. Nó biết cái người hét nhiều và nói nhiều ấy chỉ tức giận vờ, và đã ân cần bảo ” dắt nó ra” thì chẳng có gan nào ném nó đi đâu!
Đứng trước cuộc đời, Xuân Tâm có vẻ dè dặt. Cảnh trời hay tình người, Xuân Tâm chỉ muốn hưởng ở xa xa. Có khi mơ tưởng cảnh Đế thiên, người thấy những tượng dá thử thách Thời gian. Nhưng Thời gian chịu thua:
Mua không tuôn, gió lặng, sấm không vang,
Trời nhạt nhạt sắp buông lời thân thiện…
Ấy bất cứ đề gì lời thơ vẫn một giọng nhẹ nhẹ, êm êm. Nó chậm chậm đi vào hồn ta như một buổi chiều Xuân Diệu.
Tháng 10 – 1941
14. Thu Hồng
Sinh ngày 19-7-1922 ở Tourane. Chánh quán: làng Thần Phù, huyện Hương Thuỷ (Thừa Thiên). Học: trường Tourane, trường Đồng Khánh, Huế.
Đã xuất bản: Sóng thơ (1940)
Người ta vẫn nói giọng huế phải nghe từ miệng con gái Huế mới có duyên. Lần thư nhất trên thi đàn ta được nghe giọng một người con gái Huế, mà lại là một con người trong Hoàng tộc: Tôn nữ Thu Hồng.
Giá Thu Hồng chịu làm những câu trơn tru mà trống rỗng, chắc chẳng khó gì. Ai mà không làm được những câu trơn tru, trống rỗng? Nhưng người có cái ý muốn rất đáng quý là diễn đúng hình dáng riêng của hồn mình. Có phải vì thế mà giọng nói của người có vẻ ngọng nghịu rất ít có trong thơ ta. Ngọng nghịu khi ôn lại quãng đời thơ ấu đã đành; ngọng nghịu cả những khi ca ngợi cảnh trời:
Cảnh đẹp cứ dàn thêm bước
Lời ngợi khen mỗi phút lại thay thay.
Những tình ý người lớn trong giọng nói trẻ con ấy thực dễ thương.
Thực ra Thu Hồng cũng chỉ trẻ con ở cái giọng. Khi người ta muốn sống hoài trong thời thơ ấu, hẳn người ta không còn thơ ấu nữa. Người thiếu nữ ấy đã biết tình yêu là “mầm chán nản” và người ước ao:
Mầm chán nản chớ len vào niên thiếu,
Chớ len vào sớm quá, tội em mà!
Em chầm chậm để mong còn xa mãi;
Hãy là hoa, xin hãy khoan là trái;
Hoa nồng hương mà trái lắm khi chuạ
Ta tưởng nghe nhưng lời Xuân Diệu. Nhiều chỗ khác cũng xui ta nghĩ đến Xuân Diệu, nhất là khi Thu Hồng băn khoăn muốn cắt nghĩa tình yêu. Bốn câu thơ của người không bóng bẩy nhưng cũng thật thà dễ thương:
Chỉ biết hôm xưa, một buổi chiều,
Cùng người trò chuyện chẳng bao nhiêu.
Người đi, tôi thấy sao mong nhớ!
Và cảm quanh mình nỗi tịch liêu.
Xem thơ Thu Hồng, tôi còn nghĩ đến vài người nữa, nhất là Nam Trân. Thu Hồng đã học được của Nam Trân cái lối ghi chép những hình sắc xứ Huế và ngòi bút của nữ sĩ đã vẽ nên đôi bức tranh nho nhỏ, có lẽ chưa được nổi nhưng có một vẻ linh hoạt riêng:
Đêm, trăng rạng rỡ soi
Thuyền ai thong thả trôi
Đàn hát chảy theo nước,
Không gian bỗng nô cười!
Ở xứ này, nói đến những thiếu nữ làm thơ người ta thường mỉm cười. Hình như thơ là một cái gì to chuyện lắm. Thu Hồng đã tránh được cái mỉm cười mỉa mai ấy vì người rất bình dị, rất hồn nhiên không lúc nào ra vẻ muốn làm to chuyện.
Tháng 9-1941
15. Bàng Bá Lân
Sinh năm 1913 (tháng chạp năm Nhân tí) ở phố Tân Ninh, Phủ Lạng Thương (Bắc Giang). Chánh quán: làng Đôn Thư, phủ Bình Lục (Hà Nam). Học trường Vôi (Bắc Giang), trường Phủ Lý, trường Phủ Lạng Thương, trường Bảo Hộ Hà Nội. Có bằng thành chung.
Đã xuất bản:Tiếng thông reo (1934). Xưa (hợp tác với Anh Thơ, 1941)
Đồng quê xứ Bắc đã gây cảm hứng cho nhiều nhà thơ. Nhưng mỗi nhà thơ xúc cảm một cách riêng. Nguyễn Bính nhà quê hơn cả nên chỉ ưa sống trong tình quê mà ít để ý đến cảnh quê. Anh Thơ không nhà quê tí nào, Anh Thơ là một người thành thị đi du ngoạn nên chỉ thấy cảnh quê. Bàng Bá Lân gần Anh Thơ hơn gần Nguyễn Bính. Nhưng người hiểu cảnh quê hơn Anh Thơ; hiểu hơn vì mến hơn. Thơ Bàng Bá Lân và “Bức tranh quê” đều là những bông hoa khả ái từ xa mới về, nhưng bông hoa Bàng Bá Lân ra chiều thuộc thuỷ thổ hơn. Cho nên sắc hương của nó cũng khác.
Bàng Bá Lân hông có cái tỉ mỉ của Anh Thơ, không nhìn đủ hình dáng đời quê như Anh Thơ. Anh Thơ có khi nhìn cảnh không mến cảnh, Bàng Bá Lân có khi lại mến cảnh quên nhìn, nhưng đã lưu ý đến cảnh nào, Bàng Bá Lân thường lưu luyến cấnh ấy. Như khi người ta tả một buổi sáng:
Cổng làng rộng mở. Ồn ào
Nông phu lững thững đi vào nắng mai.
Ta thấy rõ người mến cảnh ấy lắm: lòng người cùng rộng mở với cổng làng và cùng vui với nông phu trong nắng sớm.
Bởi thế có lúc người đã cảm được hồn quê vẫn bàng bạc sau cảnh vật. Tôi không biết làm thế nào nói cho ra điều này. Âu là cứ trích ít câu thơ của Bàng Bá Lân:
Quán cũ nằm lười trong song nắng,
Bà hàng thưa khách ngả thiu thiu,
Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm…
Đứng lặng lẽ trong mây một cánh diều.
Cả cái hồn lặng lẽ ngây ngất của đông quê dưới nắng trưa như ngưng lại trong mấy câu ấy.
Một lần khác, tả cảnh trưa hè trong một gian nhà tranh tịch mịch, người viết:
Bụi nằm lâu chán xà nhà
Nhẹ nhàng rơi phủ bàn thờ buồn thiu.
Mười bốn chữ, chữ nào cũng mang nặng một chút hòn! Thiết tưởng người ta không thể đi sâu vào cảnh vật xứ quê hơn nữa.
Ấy cũng vì Bàng Bá Lân sau khi đã hấp thụ ở thành thị một nền học khá, liền về ở nhà quê luôn. Người sống cuộc đời thong dong một ông chủ trại, thì giờ để làm ruộng ít hơn là để làm thơ. Chuyện mộng của nhiều người, với Bàng Bá Lân đã thành chuyện thực. Có nhiều người thanh niên làm gì thì làm vẫn ước ao thú điền viên, cái thú thân yêu của nhà nho ngày trước. Họ không đủ can đảm sống lam lũ như những dân quê thực. Nhưng thành thị thì họ chán ghét lắm rồi. Họ tức tối mỗi lần nghĩ đã đưa giọt máu trong sạch và cường tráng của ông cha đến nơi hẹn hò của bệnh tật, của tội lỗi…
Tháng 10-1941
16. Nam Trân
Chính tên là Nguyễn Học Sỹ. Sinh ngày 15- 2-1907 ở làng Phú Thứ Thượng, Huyện Đại Lộc (Tỉnh Quảng nam). Học chữ Hán đến năm 12 tuổi và đã tập làm những lối văn trường ốc. Sau học trường quốc học Huế, trường Bảo Hộ Hà nội. Có bằng Tú tài bản xứ. Hiện làm: Tham tá toà khâm sứ Huế.
Đã đăng thơ: An nam tạp chí, Phong hoá, Tràng an.
Đã xuất bản: Huế, Đẹp và thơ, Tập đầu (1939).
Huế đẹp, Huế nên thơ. Ai chẳng nói thế? Ai chẳng thấy thế? Nhưng sao hình ảnh Huế trong thi ca lại tầm thường thế? Có lẽ cảnh Huế huyền diệu, quá mơ màng khồn biết tả thế nào cho thoát sáo. Cũng có lẽ ngắm cảnh Huế, Người ta khó tránh được cái buồn vơ vẩn đó là khí vị riêng của của xứ này và lòng người ta không đủ thản nhiên để ghi lấy hình sắc riêng của mỗi vật. Kể có ít câu của Thu Hồng và hai câu này của Quỳnh Giao cũng được:
Một hàng tôn nữ cười trong nón.
Sông mở lòng ra đón bóng yêu.
Nhưng tả cảnh Huế chưa ai bằng Nam Trân. Nam Trân không rơi vào khuôn sáo là vì người không mơ màng cũng không buồn vơ vẩn. Ở Huế mà ghét Nam Ai, nội chừng ấy cũng đã lạ. Người chỉ thản nhiên nhìn cảnh vật chung quanh và ghi lại những nét già dặn.
Thơ Nam Trân thường mỗi bài là một bức tranh nhỏ trong ấy thế nào cũng có ít điều nhận xét đặc sắc. Thỉnh thoảng người cũng ghép vào trong cảnh một ít tình. Nhưng đầu người có nói đến tình yêu, lời thơ vẫn mực thước, vẫn không mất vẻ thiên nhiên. Điều ấy thấy ngay ở bài đầu quyển “Huế, Đẹp và Thơ”: một mẩu cảnh xinh xinh, một chút tình phảng phất trong những vần nhịp nhàng và lặng lẽ như giòng Hương Thuỷ trong veo. “Sóng lòng” thi nhân có xao động cũng chỉ trong khoảng khắc nhưng mặt nước sông kia mà thôi. ý thơ nhẹ nhàng, điệu thơ uyển chuyển. Ta nên để ý bài thơ này sáu câu trên thất ngôn mà bốn cau dưới lục bát. Thất ngôn tả vẻ thản nhiên của người đẹp, lục bát tả chút xao động trong lòng người thơ. một cảnh hai tình, nên thơ cũng một bài hai điệu.
Về âm điệu, thơ Nam Trân thực dồi dào. Thi nhân không theo điệu nào nhất định. Trước mỗi cảnh, mỗi tình, người lại cố tạo ra một điệu thơ thích hợp. Câu thơ luôn luôn biến hoá: số chữ thay đổi từ một đến mười. Điệu thơ đó là điều tối quan hệ với Nam Trân; người luôn luôn tìm kiếm, vì người nghĩ rằng chỉ có người mới chịu nằm hoài trong một khuôn khổ.
Những điệu thơ cũng như ý thơ, ở Nam Trân, đều là kết quả của sự đắn đo kỹ lưỡng, sự suy tính siêng năng. Nam Trân luôn luôn tự chủ ngòi bút của mình một cách chắc chắn, không bao giờ phóng cho nó đi theo những nhạc điệu âm thầm một đôi khi vẫn thao thức trong lòng ta.
Cho nên muốn thưởng thức thơ Nam Trân ta cũng phải luyện lây tâm trí cho bình thản. Hãy xếp thơ Nam Trân lại những lúc lòng ta có chuyện xôn xao.
Lối thơ tả chân vốn xưa ta không có. đây đó rải rác cũng nhặt được đôi câu, nhưng đến Nam Trân mới biệt thành một lối. Nam Trân đã tìm ra được một khoảnh đất mới và ở đó người ta đã dựng nên – ý chừng để sát nhập làng thơ Việt – cái cảnh núi Ngự sông Hương.
Thiết tưởng vị tình láng giềng đất Quảng Nam không thể gửi ra xứ Huế món quà nào quý hơn nữa: lần thứ nhất những vẻ đẹp xứ này được diễn ra thơ.
Tháng 10-1941
17. Đoàn Văn Cừ
Những hình ảnh cuộc đời Việt Nam xưa còn lưu lại trong thời này chẳng bao lâu nữa sẽ mất hết. Nếu ta không gấp gấp ghi chép lấy thì còn biết tìm kiếm vào đâu. Gần đây đã có một ít nhà văn viết tiểu thuyết truyện đồng quê, nơi nương náu cuối cùng của dĩ vãng. Nhưng đời sống ở đồng quê có một nhịp nhàng riêng, thể văn tiểu thuyết không diễn ra được. Phải có thơ. Trong các nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi dào mà rực rỡ như Đoàn Văn Cừ.
Những bức tranh trong thơ Đoàn Văn Cừ không phải chỉ đơn sơ vài nét như các bức tranh xưa của Á Đông. Bức tranh nào cũng đầy dẫy sự sống và rộn rịp những hình sắc tươi vui. Mỗi bức tranh là một thế giới linh hoạt. Người xem tranh hoa mắt vì những nét những màu hình như rối rít cả lại; nhưng nhìn kỹ thì màu nào nét nào cũng ngộ nghĩnh vui vui.
Đây, trong chợ Tết, bên cạnh thầy khoá đương gò lưng viết:
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ
Kia, giữa đám hội nhà quê;
Chiếc ô đen lẳng lặng bước ra cầu,
Tìm đến chiếc san màu bay trước gió.
Đoàn Văn Cừ đã biết nhận xẻt rất tinh lại sẵn hồn thơ phong phú, hai điều thường ít đi với nhau. Phải có hồn thơ mới thấy được dưới ánh bình minh.
Tia nắng nháy hoài trong ruộng lúa.
Thỉnh thoảng giữa những câu chặt chẽ, chen vào một câu bất ngờ, vụt ngời lên như một luồng sáng giữa bức tranh:
Bà cụ bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời gian gội tắc trắng phau phau.
Và bao giờ cuối bài thơ cũng có một vài câu khêu gợi. Cuối bài “Chợ tết”:
– Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê,
Lá đa rơi rụng tơi bời trên quán chợ.
Cuối bài thơ: “Đám cưới mùa xuân”:
Chỉ nghe văng vẳng tiếng chim xuân
Ca ánh ỏi trên cành xanh tắm nắng.
Những câu ấy đều khép lại một thế giới và mở rộng ra một thế giới: khép một thế giới thực, mở một thế giới mộng. Cảnh trước mắt vừa tan thì tình trong lòng cũng vừa nhóm. Mắt ta không thấy gì nữa nhưng lòng ta bâng khuâng.
Đoàn Văn Cừ trước sau đăng báo chỉ có sáu bảy bài thơ. Bài nào cũng hay. Cũng có bài đăng “Ngày nay” số thường, nhưng nghĩ đến Đoàn Văn Cừ là tôi lại nghĩ đến cái Tết. Cái tên Đoàn Văn Cừ trong trí tôi đã lẫn với màu bánh trưng, mùi thuốc pháo, vị mứt gừng. Cứ mỗi lúc xuân về người lại gửi trên báo một chuỗi cười ngũ sắc. Tiếng cười ta còn nghe văng vẳng thì người đã biến đâu rồi và ta đành chờ mùa xuân khác. Thế rồi báo chết, tăm tích người cũng mất. Cho đến hôm nay, viết mấy lời giới thiệu thơ Đoàn Văn Cừ, tôi vẫn chưa biết gì thêm về con người ấy.
Tháng 10- 1941
18. Hàn Mạc Tử
Chính tên là Nguyễn Trọng Trí. Sinh ngày 22-9-1912 ở Lệ Mỹ (Đồng Hới), mất ngày 11-11-1940, trú ngụ ở Qui nhơn từ nhỏ. Nhà nghèo, Cha mất sớm. Học trường Qui Nhơn đến năm thứ ba. Làm sở Đạc điền một độ, bị đau rồi mất việc. Vào Nam làm báo ít lâu lại trở về Qui Hoà. Kế đó mắc bệnh hủi, đưa vào nhà thương Qui Hoà rồi mất ở đó.
Làm thơ từ ngày mười sáu tuổi (lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh). Đến năm 1936, khi chủ trương tờ phụ trương văn chương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử.
Đã đăng thơ: Phụ nữ tân văn Saigon, Trong khuê phòng, Đông Dương tuần báo, Người mới.
Đã xuất bản: Gái quê (1936).
Tôi đã nghe người ta mạt sát Hàn Mạc Tử nhiều lắm. Có người bảo: “Hàn Mạc Tử. Thơ với thẩn gì! toàn nói nhảm.” Có người còn nghiêm khắc hơn nữa: “Thơ gì mà rắc rồi thế! Mình tưởng có ý nghĩa khuất phục, cứ đọc đi đọc lại hoài, thì ra nó lừa mình!”. Xuân Diệu có lẽ cũng nghĩ đến Hàn Mạc Tử rong khi viết đoạn này: “Hãy so sánh thái độ can đảm kiă thái độ những nhà chán thi sĩ) với những cách đột nhiên mà khóc đột nhiên mà cười, chân nhảy, miệng vừa kêu: Tôi điên đây! Tôi điên đây! – Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu. Nếu không biết điên, tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà yên lặng sống”.
Nhưng tôi cũng đã nghe những người ca tụng Hàn Mạc Tử. Trong ý họ, thi ca Việt Nam chỉ có Hàn Mạc Tử. Bao nhiêu thơ Hàn Mạc Tử làm ra họ đều chép lại và thuộc hết. Mà thuộc hết thơ Hàn Mạc Tử đâu phải chuyện dễ.
Đã khúc mắc mà lại nhiều: tất cả đến sáu bảy tập. Họ thuộc hết và chọn những lúc đêm khuya thanh vắng họ sẽ cao giọng ngâm một mình. Bài thơ đã biến thành bài kinh và người thơ đã trở nên một vị giáo chủ. Chế Lan Viên nói quả quyết:
“Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử “.
Ngót một tháng trời tôi đã đọc thơ Hàn Mạc Tử. Tôi đã theo Hàn Mạc Tử từ lối thơ Đường đến vở kịch bằng thơ Quần Tiên hội. Và tôi đã mệt lả. Chính như lời Hàn Mạc Tử nói trong bài tự Thơ điên, vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến càng đi xa càng ớn lạnh.
Bây giờ đã ra khỏi cái thế giới kỳ dị ấy và đã trở về với cuộc đời tầm thường mà ý nhị, tôi xếp đặt lại những cảm tưởng hỗn độn của tôi.
Thơ Đường Luật – Theo ông Quách Tấn Phan Sào Nam hồi trước xem thơ Đường luật Hàn Mạc Tử có viết trên báo đại khái nói: “Từ về nước đến nay, tôi được xem thơ quốc âm cũng khá nhiều, song chưa gặp bài nào hay đến thế( Chỉ ba bài: “Thức khuya”, “Chửa hoang”, “Gái ở chùa” của Hàn Mạc Tử )… Ôi hồng nam nhạn bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau cười lên một tiếng lớn ấy là thoả hồn thơ đó”. Thơ Đường luật Hàn Mạc Tử làm ra nhiều nhưng bị thất lạc gần hết, tôi không được xem mấy bài. Song trong những bài tôi được xem, tôi cũng đã gặp ít câu hay, chẳng hạn như:
Nằm gắng đã không thành mộng được,
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi.
Dầu sao tôi vẫn nghĩ cái khuôn khổ bó buộc của luật Đường có lẽ không tiện cho sự nẩy nở một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng như nguồn thơ Hàn Mạc Tử.
Gái Quê – Nhiều bài có thể là của ai cũng được. Còn thì tả tình quê trong cảnh quê. Lời thơ dễ dàng, tứ thơ bình dị. Nhưng tình ở đây không có cái vẻ mơ màng thanh sạch như mối tình ta vẫn quen đặt vào trong khung cảnh những vườn tre, những đồi thông. Ấy là một thứ tình nồng nàn, lơi lả, rạo rực, đầy hình ảnh khêu gợi. Ông Phạm Văn Ký đề tựa tập thơ ấy phải lắm; “Gái quê”, và “Une voix sur la voie” đều bắt nguồn trong tình dục.
Thơ Điên – Thơ điên gồm có ba tập:
1. Hương thơm.
2. Mật đắng.
3. Máu cuồng và hồn điên.
Hương Thơm – Ta bắt đầu bước vào một ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu đều muốn biến ra hương khói. Một trời tình ái mới dựng lên đâu đấy. Tuy có đôi vần đẹp, cảm giác chung nhạt tẻ thế nào.
Mật Đắng – Ta vẫn đi trong mờ mờ. Nhưng thỉnh thoảng một luồng sáng lạ chói cả mắt. Nguồn sáng toả ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu tích còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu. Thất vọng trong tình yêu, chuyện ấy trong thơ ta không thiếu gì, nhưng thường là một thứ buồn rầu có thấm thía vẫn dìu dịu. Chỉ trong thơ Hàn Mạc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế. Lời thơ như dính máu.
Máu Cuồng Và Hồn Điên – Đến đây ta hoàn toàn ra khỏi cái thế giới thực và cả thế giới mộng của ta. Xa lắm rồi. Ta thấy những gì xung quanh ta? Trăng, toàn trăng, một ánh trăng gắt gao, ghê tởm linh động như một người hay đứng hơn nhu một yêu tình. Trăng ở đây cũng ghen, cũng giận, cũng cay nghiệt, cũng trơ tráo và cũng náo nức dục tình. Hàn Mạc Tử đi trong trăng há miệng cho máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra và rú lên những tiếng ghê người… Ta rùng mình, ngơ ngác, ta đã lục lọi khắp trong đấy lòng ta, ta không thấy có tí gì giống cái cảnh trước mắt. Trời đất này thực của riêng Hàn Mạc Tử ta không hiểu được và chắc chắn cũng không ai hiểu được. Nghĩ thế ta bỗng thương con người cô độc. Đã cô độc ở kiếp này và e còn cô độc đến muôn kiếp. Hàn Mạc Tử chắc cũng biết thế nên lúc sinh thời người đã nguyền với chúa sẽ không bao giờ cho xuất bản Thơ điên. Một tác phẩm như thế ta không có thể nói hay hay dở, nó đã ra ngoài vòng dân gian, nhân gian không có quyền phê phán. Ta chỉ biết trong văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn. Ta chỉ biết ta đương đứng trước một người sượng sầm vì bệnh hoạn, điên cuồng vì đã quá đau khổ trong tình yêu. Cuộc tình duyên ra đời với tập Hương thơm, hấp hối với tập Mật đắng, đến đây thì đã chết thiệt rồi, nhưng khí lạnh còn toả lên nghi ngút.
Một nhà chuyên môn nghiên cứu những trạng thái kỳ dị của tâm linh người ta xem tập Máu cuồng và Hồn điên có lẽ sẽ lượm được nhiều tài liệu hơn một nhà phê bình văn học. Tuy thế, đây đó ta gặp những câu rất hay.
Như tả cảnh đồi núi một đêm trăng có câu:
Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ
Đầy mình lốm đốm những hào quang.
Lên chơi trăng có câu:
Ta bay lên! Ta bay lên.
Gió tiễn đưa ta tới nguyệt thiềm
Ta ở cõi cao nhìn trỏ xuống:
Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm.
Đọc những câu ấy có cái thú vị ở xứ lạ gặp người quen, vì đó là những cảm giác ta có thể có. Lại có khi những cảm giác ở ta rất thường mà trong trí Hàn Mạc Tử rất dễ sợ. Một đám mây in hình dưới dòng nước thành ra:
Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng.
Trôi thây về xa tận cõi vô biên.
Cái ý muốn mượn lời thơ để tả tâm sự mình cũng chở nên điên cuồng và đau đớn dị thường:
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút;
Mỗi lời thơ đều lính não tâm ta.
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt,
Như mê man chết điếng cả làn da.
Cứ để ta ngất ngây trong vũng huyết,
Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh;
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đương siết
Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh.
Tôi trích ra vài đoạn có thể thích được còn bao nhiêu đoạn nữa tuy ta không thích vì nó không có gì hợp với lòng ta, nhưng ta cũng biết rằng với Hàn Mạc Tử hẳn là những câu tuyệt diệu. Nó đã tả đúng tâm trạng của tác giả. Lời thơ có vẻ thành thực thiết tha lắm.
Xuân như ý – Mùa xuân Hàn Mạc Tử nói đây có khi ở đâu hồi trời đất mới dựng nên, có khi ra đời một làn tới Chúa J’sus, có khi hình như chỉ là mùa xuân đầu năm. Nhưng dầu sao cũng không phải là một mùa xuân thường với những màu sắc, những hình dáng ta vẫn quen biết. Đây là một mùa xuân trong tưởng tượng, một mùa xuân theo ý muốn của thi nhân, đầy rẫy những lời kinh cầu nguyện, những hương đức hạnh, hoa phẩm tiết, nhạc thiêng liêng, từng ánh trăng, ánh thơ. Nhất là ánh thơ. Với Hàn Mạc Tử thơ có một sự quan hệ phi thường. Thơ chẳng những để ca tụng Thượng đế mà cũng để lối người ta với Thương đế, để ban phước cho cả thiên hạ. Cho nên mỗi lần thi sĩ há miệng – sao lại há miệng? – Cho thơ trào ra là chín từng mây nào loạn Muôn vì tinh tú xôn xao. Người ta sẽ thấy:
Đường thơ bay sáng láng như sao xa
Trên lụa trắng mười hai hàng chữ ngọc
Thêu như thêu rồng phượng kết tinh hoa.
Hình như trong các thi phẩm xưa nay có tính cách tôn giáo không gì giống như vậy. Hàn Mạc Tử đã dựng riêng một ngôi đền thờ Chúa. Thiếu lòng tin, tôi chỉ là một du khách bỡ ngỡ không thể cùng quỳ lạy với thi nhân. Nhưng lòng tôi có dửng dưng, trí tôi làm saokhông ngợp cái vẻ huy hoàng, trang trọng, lung linh, huyền ảo của lâu đài kia? Có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc nên như rưới vào hồn một nguồn sáng láng. Xuân như ý rõ ràng là tập thơ hay nhất của Hàn Mạc Tử.
Với Hàn Mạc Tử Chúa gần lắm. Người đã tìm lại những rung cảm mạnh mẽ của các tín đồ thời Thượng cổ. Ta thấy phảng phất cái không khí Athalic. Cho nên mặc dầu thỉnh thoảng còn sót lại một hai dấu tích Phật giáo, chắc những người đồng đạo chẳng vì thế mà làm khó dễ với di thảo của thi nhân.
Huống chi thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy chứng rằng đạo Thiên Chứa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm đượm tận đáy hồn đoàn thể.
Thượng Thanh Khí – Một vài bài đặc sắc ghi lại những cảnh thấy trong chiêm bao, ở đâu giữa khoảng các vì tinh tủtên kia. Đại khái không khác cảnh Xuân như ý mấy, chỉ thiếu tính cách tôn giáo, huyền bí nhưng không thiêng liêng.
Cẩm Châu Duyên – Một hai năm trước khi mất, sự tình cờ đưa đến trong đời Hàn Mạc Tử ình ảnh một giai nhân có cái tên khả ái: nàng Thương Thương. Nàng Thương có lẽ chỉ yêu thơ Hàn Mạc Tử và Hàn Mạc Tử hình như cũng không biết gì hơn hai chữ Thương thương. Nhưng như thế cũng để thi nhân đưa nàng vào” tháp thơ”. Nàng sẽ luôn luôn đi về trong những giấc mơ của người. Có khi người thơ thấy mình là Tư Mã Tương Thư đương nghe lời Trác Văn Quân năn nỉ:
Đã mê rồi! Tư mã chàng ôi!
Người thiếp lao đao sượng cả người.
Ôi! Ôi! Hãm bớt cung cầm lại
Lòng say đôi má cũng say thôi.
Song những phút mơ khoái lạc ấy có được là bao. Tỉnh dậy, người thấy:
Sao trìu mến thân yêu đâu vắng cả?
Trơ vơ buồn và không biết kêu ai!
Bức thư kia sao chẳng viết cho dài,
Cho khăng khít nồng nàn thêm chút nữa.
Ta tưởng nghe lời than của Huy Cận.
Nhưng cuộc đời đau thương kia đã đến lúc tàn, và nguồn thơ kia cũng đã đến lúc cạn, Hàn Mạc Tử chốc chốc lại ra ngoài biên giới thơ, lạc vào thế giới đồng bóng.
Duyên Kỳ Ngộ Và Quần Tiên Hội – Mối tình đối với nàng Thương Thương còn khiến Hàn Mạc Tử viết ra hai vở kịch bằng thơ này nữa. Quần tiên hội viết chưa xong và không có gì. Duyên kỳ ngộ hay hơn nhiều. Đây là một giấc mơ tình ái, ngắn ngủi nhưng xinh tươi, đặt vào một khung cảnh tuyệt diệu. THi nhân dẫn ta đến một chốn nước non thanh sạch chưa từng in dấu chân người. Ớ đó tiếng chim hót, tiếng suối reo, tiếng tiêu ngân đều biến thành những lời thơ tình tứ. Ớ đó Hàn Mạc Tử ẽ gặp nàng Thương Thương mà người không mong được gặp mặt ở kiếp này. Nàng sẽ nói với những lời nồng nàn âu yếm khiến chim nước đều say sưa. Nhưng rồi người sẽ cùng tiếng tiêu cùng đi như vụt nhớ đén cái nghiệp nặng nề đương chờ người nơi trần thế. Và giữa lúc nàng gục đầu khóc, cảnh tiên lại rộn rã tiếng suối ca.
Trong thi phẩm Hàn Mạc Tử có lẽ tập này là trong trẻo hơn cả. Còn từ thỏ Đường luật với những câu thơ:
Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối;
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn.
Cho đến “Gái quê”, “Xuân như ý” và các tập khác, lời thơ thường vẩn đục.
o O o
Tôi đã nói hết cảm tưởng của tôi trong lúc đọc thơ Hàn Mạc Tử. KHông có bao giờ tôi thấy cái việc phê bình thơ tàn ác như lúc này. Tôi nghĩ đến người đã sống trong túp lều tranh phải lấy bì thư và giấy nhựt trình che cho mái nhà đỡ dột. Mỗi bữa cơm đưa đến người không sao nuốt được vì ăn khổ quá. Cảnh cơ hàn ấy và chứng bệnh kinh khủng đã bắt người chịu bao nhiêu phũ phàng, bao nhiêu ruồng rẫy. Sau cùng người bị vứt hẳn ra ngoài cuộc đời, bị giữ riêng một nơi, xa hết thảy mọi người thân thích. Tôi nghĩ đến bao nhiêu năm người bó tay nhìn cảnh thể phách lẫn linh hồn tan rã…
Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống ta hững hờ bỏ quên, bây giờ mất rồi ta xúm lại kể chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bẫn nhẫn.
Tháng 5 – 1941
19. Chế Lan Viên
Sinh năm 1920. Quê ở Bình Định. Học trường Qui Nhơn. Có bằng thành chung.
Đã đăng thơ: Tin vắn, Tiểu thuyết thứ bảy, Phụ nữ, Trong khuê phòng, Người mới.
Đã xuất bản: Điêu tàn(1937).
Tôi cầm bút viết bài này thì văng vẳng bên tai tôi giọng ca Nam Bình đưa sang từ nhà bên cạnh. Giọng ca âm thầm ai oán, mỗi lần tôi nghe lại khiến tôi bồn chồn, chân tay tôi rời rã.
Cũng lạ! Bị chinh phục đến tiêu diệt mà cảm được lòng những kẻ đã diệt mình một cách sâu sắc như thế dễ chỉ có dân tộc Chiêm Thành. Những nhạc công của chúng ta luôn ca nỗi oán hờn của họ. Bao nhiêu thi nhân của ta đã bị ám ảnh vì nỗi oán hờn của họ. Chúng ta lại còn dành riêng cho họ một nhà thơ, để vì họ giải dùm cho những uất ức bao nhiêu năm như nghẹn ngào trên sông núi này… Vong linh đau khổ của nòi giống họ đã nhập vào Chế Lan Viên; cho nên, dẫu không phải người họ Chế, Chế Lan Viên vẫn là một nhà thơ Chiêm Thành. Quyển Điêu tàn đã đột ngột xuất hiện ra giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị.
Nó dựng lên một thế giới đầy sọ dừa, xương máu, cùng yêu ma.
Chỗ này một yêu tinh nghe tiếng trống cầm canh chợt nhớ nơi trần thế.
Rồi lấy ra một khớp xương rợn trắng
Nút bao dòng huyết dầm khí tanh hôi
Tìm những “miếng trần gian” trong tuỷ cạn,
Rồi say sưa, vang cất tiếng reo cười.
Chỗ kia trong:… những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi.
Đừng hỏi ai những cảnh ấy thi nhân đã thấy ở đâụ”Hãy nghĩ lại! Có ai thấy vào buổi chiều, rụng ở trong tháp một viên gạch cũ mà hỏi: viên gạch ấy chu vi, diện tích là bao nhiêu? Đúc từ đời nào? Ớ đâu? Bởi ai? Và để làm gì? “. Chế Lan Viên đã trả lời như vậy
Ta hãy theo dõi thi nhân trong cái thế giới lạ lùng ấy. Có khi ngồi trên bờ bể Chế Lan Viên bàng hoàng tự hỏi:
Ai kêu ta trong cùng thẳm Hư vô?
Ai réo gọi trong muôn sao chới với?
Và say sưa nhớ lại một đêm ân ái giữa khoảng các vì sao. Có khi Chế Lan Viên lại điên cuồng… ngụp lặn trong ánh vàng hỗn độn
Cho trăng ghì, trăng riết cả làn da.
Lại có khi đứng suốt đêm với một bóng ma hay nhìn một chiếc quan tài đi qua mà tưởng thi thể mình nằm trong đó.
Hẳn có người sẽ nghĩ: Thơ muốn hay chứ muốn lạ thì khó gì, cứ nói trái sự thực là được. Sự thực người ta ngủ trong nhà thì cứ việc nói người ta ngủ trong sao.
Đừng tưởng! Lịch sử văn học cổ kim không từng có hai Bồ Tùng Linh. Nói láo đành dễ, những cái khó là nói láo mà vẫn không biết mình nói láo; cái khó là có thể tin lời mình nói. Mà Chế Lan Viên tin lời mình ghê lắm. Khi Chế Lan Viên kêu:
Hồn ai trú ẩn ở đầu ta?
Ý của ai trào trong đáy óc,
Để bay đi theo tiếng cười, điệu khóc?
tôi nhất quyết là thi nhân thành thực hơn khi tôi nói, chẳng hạn: tờ giấy kia trắng. Vì câu nói của tôi là một câu nói hờ hững, xuất tự tri giác, tôi vẫn tin mà không để vào đó tất cả lòng tin. Chế Lan Viên, trái lại, đã để trong tiếng kêu hốt hoảng của mình, một lòng tin đau đớn.
Ấy, người thường có người nỗi đau tựa hồ vô lý vậy mà thành thực vô cùng. Trong một năm người ưa nhất mùa thu. Mùa thu qua được một ngày người ta đã nhớ:
Ô hay, tôi lại nhớ thu rồi…
Mùa thu rớm máu rơi từng chút
Trong lá bàng thu đỏ ngập trời.
Đường về thu trước xa lăm lắm,
Mà kẻ đi về chỉ một tôi!
Nếu một nỗi đau đớn như thế mà có thể cho là bày đặt thì ở đời này không còn gì tin được nữa.
Một lần khác, cũng nhớ thu, Chế Lan Viên than:
Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn
Nỗi mong nhớ ở đây đã thành thực, mà còn to lớn lạ lùng. Con người này quả là người của trời đất, của bốn phương, không thể lấy kích tấc mà hòng đo được.
Ưa nhìn mùa thu, ghét mùa xuân, trong khi xuân đến, người muốn:
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi muôn cánh rã
Về đây, đem chắn nẻo xuân sang!
Ý muốn ngông cuồng, ngộ nghĩnh? Đã đành. Trong cái ngộ nghĩnh, cái ngông cuồng ấy tôi cong thấy một sức mạnh phi thường. Chắn một luồng gió, chắn một dòng sông, chắn những đợt sóng hung hăng ngoài biển cả, nhưng mà “chắn nẻo xuân sang!” Sao người ta lại có thể nghĩ được như thế?
Ngày xưa Tản Đà chán nản than:
Đêm thu buồn lắm, chị Hằng ơi!
Trần giới em nay chán nửa rồi!
Cái chán nản hiền lành của người Việt. Nó khác xa với cái chán nản gay gắt, não nùng của Chế Lan Viên:
Trời hỡi trời! Hôm nay ta chán chết
Những sắc màu hình ảnh của trần gian.
Có phải cái chán nản mạnh mẽ và to lớn dị thường?Người ta chánn đời người ta cầu một mảnh vườn, hay hơn chút nữa, một khoảnh núi để sống riêng. Chế Lan Viên chốn đời lại nghĩ đến một vì sao!
Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh,
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!
Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo
Cái mạnh mẽ, cái to lớn ấy, những đau thương vô lý mà da diết ấy, cái thế giới lạ lùng và rùng rợn ấy, ai có ngờ ở trong tâm trí một cậu bé mười lăm mười sáu tuổi. Cậu bé ấy đã khiến bao người ngạc nhiên. Giữa đồng bằng văn học Việt Nam ở nửa thế kỷ hai mươi, nó đứng sững như một cái tháp Chàm, chắc chắn và lẻ loi, bí mật.Chúng ta, người đồng bằng, thỉnh thoảng trèo lên đó-có người trèo đuối sứcmà trầm ngâm và xem gạch rụng, nghe tiếng rên rỉ của ma Hời cũng hay, nhưng triền miên trong đó không nên. Riêng tôi mỗi lần nấn ná trên ấy quá lâu, đầu tôi choáng váng: Không còn biết mình là người hay ma. Và tôi sung sướng biết bao lúc thoát khỏi giấc mơ dữ dội, tôi trở xuống, thấy chim vẫn kêu, người ta vẫn hát, cuộc đời vẫn bình dị, trời xa vẫn trong xanh.
Tháng 10-1941
Chú thích
(Chế Lan Viên không ưng cho chúng tôi để tên thật của người)
20. Bích Khê
Chính tên là Lê Quang Lương. Quê quán: Thu Xà (Quảng Ngãi).
Đã đăng thơ: Tiếng dân, Tiểu thuyết thứ năm. Người mới… (ký Lê Mộng hoặc Bích Khê).
Đã xất bản: Tinh huyết (1939).
Tôi đã gặp trong “Tinh huyết” những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam.
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
hay mấy câu này trích trong bài “Tranh loã thể”:
Dáng tầm xuân uốn trong tranh Tố nữ.
Ô tiên nương! Nàng lại ngự nơi này?
Nàng ở mô! Xiêm áo bỏ đâu đây?
Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường;
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc
Đêm y huyền ngủ mơ trên mái tóc
Và chút trăng say đọng ở làn môi
Mấy câu ấy đã được Hàn Mạc Tử phẩm bình bằng những lời xứng đáng: “Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng ảo, nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xó sang địa hạt huyền diệu… Ở “Tranh loã thể”, sự trần truồng dâm đãng đã nhường lại cho ý vị nên thơ của hương, của nhạc, của trăng, của tuyết. Quả nhiên là một sự không khen thanh tao quá đến ngọt lịm cả người và cả thơ”
Vừa bước vào đã thấy vàng ngọc sáng ngời như thế, ai không tin đây là biệt thự một nhà triệu phú. Huống chi chủ nhân còn nói: “Không, quúi gì những vật mọn ấy! Kho tàng của tôi chính ở trong mấy phònh kia”. Nhưng tôi chưa thể nói nhiều về Bích Khê. Tôi đã đọc không biết mấy chục lần bài Duy tân. Tôi thấy trong đó những câu thật đẹp. Nhưng tôi không dám chắc bài thơ đã nói hết cùng tôi những nỗi niềm riêng của nó. Hình như vẫn còn gì nữa… Còn các bài khác hoặc chưa xem hoặc mới đọc có đôi ba lần. Mà thơ Bích Khê, đọc đôi ba lần thì cũng như chưa đọc.
Tháng 11- 1941
21. J. Leiba
Chính tên là Lê Văn Bái. Sinh năm 1921 ở Yên Bái. Chánh quán: làng Nam Trực, phủ Nam Trực (Nam Định). Học trường Bảo hộ Hà Nội đến năm thứ ba rồi bỏ đi theo một bon giang hồ mãi võ chót một năm. Sau về quê học chữ Hán. Năm 1935 đậu thành chung, rồi vào ngạch thư ký toà sứ Bắc kỳ. Vì đau nặng nên được nghỉ phép dài hạn (Đã mất rồi)
Đã viết giúp: Ngọ báo, Loa, Tin văn, L’Annam Nouveau, Tiểu thuyết thứ bảy. Ích hữu, Việt Báo, Nam Cường (ký Thanh Tùng Tử và sau J. Leiba)
Thơ dăng báo Loa với một tên ký chẳng Việt nam tí nào, thế mà vừa ra đời Leiba liền được người ta thích.
Người ta thích người vần thơ có giọng Đường rõ rệt, mà lại nói được nỗi lòng riêng của người thời nay. Trong khuôn khổ xưa, cái hương vị mới ấy rất dễ say người. Thơ Leiba ra đời (1934) giữa lúc ai nấy đều cảm thấy mình như trẻ lại. Các nhà thơ đương thời, Thế Lữ, Đông Hồ, Thái Can, kẻ trước người sau, đều tả bằng người nét âu yếm nỗi lòng của người thiếu nữ lúc mới bén tình yêu. Nhưng không ai nói được đầy đủ như tác giả bài “Năm qua” người giai đoạn của một cuộc yêu đương nhóm lên từ hồi tóc còn xoã bỏ vai. Ít ai nói được như Leiba những vui buồn của người xuân nữ. Những câu như:
Hoa tặng vừa tàn bông thược dược,
Tìm chàng bỗng vắng, bóng chàng xa…
hay là:
Sầu đối gương loan, bóng lạ người,
Chàng không lại nữa, đẹp cùng ai?
có thể để ngang những câu tuyệt hay trong thơ cổ.
Hồi ấy là hồi đẹp nhất trong lời thơ Leiba. Về sau thơ Leiba không được hồn nhiên như thế nữa. Không rõ những gì đã đến trong đời thi nhân. Nhưng lời thơ như vương tí cặn của những đêm phóng túng. Hình như Leiba đã đau khổ nhiều lắm. Người tức tối lúc nghĩ đến nấm cỏ đương chờ mình:
Ví biết phù sinh đời có thế,
Thông minh, tài bộ, thế gia chi!
Học thành, danh đạt, chung quy hão:
Mắt nhắm, tay buông, giữ được gì?
Thà chọn sinh vào nhà ấu phụ,
Cục cằn, mất dạy, lại ngu si.
Leiba là một người bao giờ cũng có dáng điệu quý phái, ưa cái không khí quý phái, tin ở tài năng, ở dòng dõi mình, và rất tự trọng, cả trong những lúc buông tuồng. Một người như thế mà nói những lời như thế hẳn phải chán nản lắm.
Chán nản đưa người về tôn giáo. Thơ Leiba hồi sau có bài đượm mùi Phật, mặc dầu chưa đúng hẳn với tinh thần đạo Phật. Bài ”Bến giác” chẳng hạn có một giọng lạnh lùng, chua chát chưa phải là giọng của kẻ đã dứt hết trần duyên. Cho đến cái bình tĩnh của nàng Kiều khi ở trong am Giác Duyên lần thứ hai, Leiba cũng chưa có (1). Tuy thế người gần đạo Phật hơn hết các nhà thơ bấy giờ.
Thơ Leiba đã thay đổi theo một hai điều thay đổi trong tâm trí thanh niên khoảng bảy tám năm nay. Xem thơ ta có thể thấy khi tỏ khi mờ hình ảnh của thời đại.
Tháng 10-1931
Chú thích
(1) Xin nhắc lại Kiều nói với Vương ông khi tái hợp:
Mùi thiền, đã bén muối dưa
Màu thiền, ăn mặc đã ưa nâu sồng.
Sự đời đã tắt lửa lòng.
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
22. Thái Can
Sinh ngày 22-10 -1910 ở Văn Lâm, phủ Đức Thọ (Hà Tĩnh). Học Trường phủ, trường Vinh, trường Bảo hộ, trường Thuốc Hà Nội. Tốt nghiệp y khoa bác sĩ năm 1940, hiện ở nhà học xhữ Hán và làm thơ chữ Hán.
Thơ Thái Can phần nhiều đã đăng ở Phong hoá, Tiểu thuyết thứ bảy, Hanoi báo, Văn học tạp chí 1935. Những bài thơ đầu (ký Th.C) đã in trong quyển Những nét đan thanh. Ngân Sơn tùng thư, Huế, xuất bản 1934.
Tôi đã cố đọc lại thơ Thái Can để mong tìm lại cái say sưa ngày trước. Nhưng lòng tôi cứ dửng dưng. Sao bây giờ tôi thấy thơ Thái Can sáo quá mà người thiếu nữ trong thơ Thái Can thì hầu hết ẻo lả đến khó chịu. Nhất là người nụ cười. Những nụ cười sao mà vô duyên, mà trơ trẽn thế!
Thơ Thái Can vẫn như trước. Dễ lòng tôi đã khác xưa? Một người thơ cũng như một người tình, yêu đó rồi bỏ đó sao cho đành. May thay tôi vẫn có thể thích được dăm bảy bài. Kể người bài đó đều phỏng theo lối thơ xưa. Chữ dùng cũng xưa. Nhưng có cái gì bảo ta rằng ở đây có một người khóc cười thật. Ở đây không còn cái thói khóc gượng cười vờ nó vẫn lưu hành trên sân khấu tuồng cổ và trên thi đàn Việt Nam khoảng vài mươi năm trước.
Khóc bạn, Nguyễn Khuyến viết:
Rượu ngon, không có bạn hiền,
Không mua, không phải không tiền không mua,
Câu thơ nghĩ, đắn đo không viết;
Viết đưa ai, ai biết mà đưa.
Giường kia treo người hững hờ:
Đàn kia gảy người ngẩn ngơ tiếng đàn.
Tôi tưởng đó toàn chuyện bịa. Nguyễn Khuyến hẳn không treo giường để chờ người bạn họ Dương đã đành. Cả cái chuyện thơ rượu cũng bịa nốt. Ba năm không gặp nhau (1) chắc Nguyễn Khuyến vẫn thơ rượu như thường, thơ rượu nào cần phải có Dương Khuê. Nhưng chuyện không thực mà tình thực, chuyện mượn người xưa, mà tình là tình Nguyễn Khuyến.
Thái Can cũng mượn những chữ sẵn của người xưa nhưng người đã gửi được nỗi lòng mình trong đó. Khi ta đọc những câu:
Vó ngựa trập trùng trên ải Bắc;
Tuyết sương lạnh lẽo giá râu mày!
Gươm thiêng lấp lánh bên lưng nhẹ,
Ngựa hí vang lừng gió trận may.
Ta thấy trong người câu này, cũng như trong lời ngâm của Nguyễn Khuyến, mối cảm của thi nhân đã phát lộ ra bằng những âm thanh, bằng một nhịp lối nhịp nhàng riêng.
Thơ Thái Can nhạc điệu không có nhiều lối và cũng chỉ nằm trong khuôn khổ thơ thất ngôn, nhưng trong những câu thơ hay bao giờ cũng thấm thía. Một người kỹ nữ, lúc canh khuya sau lúc khách làng chơi đã ra về, một mình ngồi nhìn phía quê nhà và than:
Biết đâu mà gửi lòng thương nhớ,
Mà biết cùng ai gửi nhớ thương.
Một thiếu niên gọi bạn tình trong mộnh tưởng:
Thu liễu em ơi, có biết không?
Những là ngày ngày nhớ lại đêm mong.
Thu này người tưởng cùng em gặp,
Dưới nguyệt đôi ta tỏ chút lòng.
Có gì sáo hơn những câu ấy. Nhưng có những lúc ta buồn và mỏi không muốn tìm tòi gì: ta buông xuôi tay, ta buông xuôi lòng cho trôi theo những lời, dầu sáo, dầu cũ miễn là âm điệu khi lên khi xuống cùng ăn nhịp với lòng ta. Những lúc đó ngâm thơ Thái Can thì tuyệt.
Cho đến những bức tranh thỉnh thoảng ta gặp trong thơ Thái Can cũng không phải là những bức tranh tô bằng nét, bằng màu, mà chính là hoà bằng nhạc điệu:
Mỹ nhân lững thững xem hoa rụng,
Trâm ngọc quên cài tóc bỏ lơi.
Sương toả bên mình như khói nhẹ;
Xiêm y tha thướt mái hiên ngoài.
Hãy đọc đi đọc lại bốn câu này. Có phải lời thơ yểu điệu và mềm mại như một người đẹp?
Những lúc thi nhân tìm được âm điệu thích hợp để diễn đạt nỗi lòng mình, ta thấy người khoan khoái như được giải thoát. nếu không, người ra chiều uất ức, khó chịu. Người phân vân trước những ham muốn, những mộng tưởng nhiều khi trái ngược nhau. Tâm hồn Thái Can rất phức tạp. Tuy vẫn thường mơ tưởng cái cảnh thanh gươm yên ngựa, song nhác thấy bóng khăn san áo màu thời nay, người cũng không muốn hững hờ qua. Người thực lòng thương những gái giang hồ, người thống trách xã hội đã dẫn họ vào đường truỵ lạc, song những yến diên có ca nhi điểm vui, tất cả cái hào hoa, cái êm dịu của cuộc đời phú quý người cũng không nỡ từ. Người muốm gây một sự nghiệp, người không muốn sống vô ích, người gét hữu hạn và khao khát vô cùng.
Bấy nhiêu điều trái ngược chỉ có thể đưa người ta đến chán nản. ta hãy nghe Thái Can khuyên người ca nhi vừa tự sát mà không chết:
Đứng dậy em ơi! Sống cõi đời
ời dầu khổ nhục đến mười mươi,
Em nên điểm phấn tô son lại
Ngạo với nhân gian một nụ cười.
Trong hai người, thi nhân và kỹ nữ, dễ đã biết ai chán hơn ai? Cho đến ái ân thi nhân cũng không thiết nữa:
Thôi! Thế lòng anh mãn nguyện rồi
Vì tình là mộng đó mà thôi,
Lòng em một phút yêu anh đó
Cũng thể yêu anh suốt một đời.
Thái Can nói mãn nguyện mà lại đau đớn hơn người lời oán hận của một thi nhân khác, Lan Sơn:
Một phút lòng em mơ bạn mới
Yêu anh sau nữa cũng bằng không.
Tháng 8 – 1941
Chú thích
(1) Trong bài Nguyễn Khuyến có câu: “Trước ba năm gặp bác một lần”.
Nguồn: Thi Nhân Việt Nam, Tác giả: Hoài Thanh – Hoài Chân
Mời quý vị đọc thêm:
Chùm thơ Thái Can
Anh Biết Em Ði
Anh biết em đi chẳng trở về,
Dặm ngàn liễu khuất với sương che.
Em đừng quay lại nhìn anh nữa:
Anh biết em đi chẳng trở về.
Em nhớ làm chi tiếng ái ân.
Đàn xưa đã lỡ khúc dương cầm…
Dây loan chẳng đuợm tính âu yếm,
Em nhớ làm chi tiếng ái ân.
Bên gốc thông già ta lỡ ghi
Tình ta âu yếm lúc xuân thì.
Em nên xoá dấu thề non nước
Bên gốc thông già ta lỡ ghi.
Chẳng phải vì anh chẳng tại em:
Hoa thu tàn tạ rụng bên thềm.
Ái tình sớm nở chiều phai rụng:
Chẳng phải vì anh chẳng tại em.
Bể cạn, sao mờ, núi cũng tan,
Tình kia sao giữ được muôn vàn…
Em đừng nên giận tình phai lạt:
Bể cạn, sao mờ, núi cũng tan.
Anh biết em đi chẳng trở về
Dặm ngàn liễu khuất với sương che.
Em đừng quay lại nhìn anh nữa;
Anh biết em đi chẳng trở về.
Chép theo một bức thư (1934).
Nguồn: Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh- Hoài Chân)
Chiều Thu
Hoa hồng rũ cánh bay đầy đất
Trĩu nặng sương thu mấy khóm lan
Mỹ nhân lững thững xem hoa rụng
Ta ngỡ Hằng Nga náu Quảng hàn.
Mỹ nhân lững thững thăm hoa rụng
Trâm ngọc quên cài tóc bỏ lơi
Sương tỏa bên mình như khói nhẹ
Xiêm y tha thướt mái hiên ngoài.
Ta đứng bên hiên kiếm ý thơ
Mỹ nhân vô ý bước đi qua
Cánh hồng quyến luyến bên chân ngọc
Như muốn cùng ai sống phút thừa
Chẳng được như hoa vướng gót nàng
Cõi lòng man mác, giá như sương
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Đặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương.
Những Ngày Qua
Một ngày là một đoá hoa tươi
Sớm với bình minh mỉm miệng cười
Theo bóng tà dương chiều đã tạ
Trong thời gian mãi lững lờ trôi
Cảnh đoạn trường
Em chỉ nói rằng: “Đời em buồn”.
Rồi em nức nở lệ sầu tuôn.
(Tâm sự một cô gái nhảy)
Anh nhớ năm xưa trong yến diên
Họp mặt ba kỳ, trăm sinh viên.
Rót chén rượu nồng cùng vui chơi
Trước khi chia tay người mỗi nơi.
Điểm vui yến tiệc bọn ca nhi
Ba bảy mai kia đương vừa thì.
Hoa khôi hôm ấy là em đó,
Liếc mắt đưa tình đá cũng mê.
Hôm nay nức nở sầu ảm đạm
Kể lại đời em nghe thê thảm:
Không quê, không quán, không mẹ cha,
Như cánh bèo trôi không chỗ bám.
Em dấn thân vào hồng lâu
Lụy từ nô bộc đến công hầu.
Rồi lại giạt trôi trường khiêu vũ
Hết lòng chiều khách lại chiều chủ.
Liễu bồ sức vóc được bao nhiêu
Dạn gió dày sương thực đến điều.
May thay em gặp khách phiêu lưu
Cảm thấy tình em thảm đạm nhiều,
Nhặt cánh hoa tàn rơi dưới đất
Chung tình trong một mối thương yêu.
Khách nhớ quê xa trở gót về.
Đêm trường nhớ khách dạ đê mê,
Cảm thấy đời em buồn lạnh, tẻ,
Ngoài đường sương lạnh bước ra đi.
Ra đi gió lạnh tạt ngang mình,
Nghĩ đến đời em, em khiếp kinh,
Kinh khiếp vì đời như vực thẳm
Xui em trụy lạc hỡi trời xanh!
Nếu cũng như ai có mẹ cha,
Buồng xuân rủ gấm với phong là,
Thời em ngày tháng cùng vui sương
Hớn hở nô đùa với cỏ hoa.
Rồi ngày đào lý nở nhành bông,
Em cũng như ai được tấm chồng
Quyền cả chức cao trong xã hội
Êm đềm chia ngọt sẻ bùi chung.
Than ôi! Em có được như người:
Hoa tạ lia cành trước gió rơi
Lăn lóc cát lầm hoen cánh ngọc
Đem thân làm thú vạn muôn người.
Lững thững em đi bên vệ đường,
Âm thầm buồn bã; gió cùng sương
Ướt cả áo xiêm, em chẳng biết…
Lòng em mang nặng dấu đau thương.
Chán nản quay đầu em lại nhìn
Cuộc đời quá khứ tựa đêm đen.
Tương lai bước tới chân chồn mỏi,
Một bước đau lòng, một bước thêm!
Lầu các, kìa ai vợ với chồng
Êm đềm trong giấc phụng loan chung.
Riêng em lững thững bên hè vắng
Khóc mãi, mắt em úa đỏ hồng.
Ôi thôi! Em quyết chỉ quyên sinh
Quyết bỏ trần gian, bỏ ái tình.
Trong một gian buồng thuê buổi tối
Đau lòng, em uống thuốc quyên sinh.
Khinh thay! Những gái tiếng con nhà
Vì tính buông tuồng phải trụy sa
Vào chỗ bùn lầy nghề kỹ nữ;
Nhưng em… nào phải muốn giăng hoa.
Giời đất này! Hãy chứng minh:
Vì chưng xã hội quá bất bình.
Thân em thật đã bùn than lấm
Lòng tuyết, em còn giữ tiết trinh.
Mang tấm thân lòng đau xuống suối vàng
Ai người nhân thế chạnh lòng thương?
Ai người biết được em đau khổ?
Đêm lạnh… thân ôi! Cảnh đoạn trường.
Cõi đời dần tối, giấc âm thầm
Hình ảnh ngàn xưa cũng xoá dần,
Sau rốt cảm nghe như mẹ ẵm
Và lời ân ái khách xa xăm.
Sáng sớm người ta vào buồng ngủ,
Thất đảm kinh hồn người la rú
Vội vàng đưa em đến nhà thương,
Để em lạnh lẽo nằm trên giường.
Hồi lâu thuốc thang em tỉnh dậy
Mở mắt, lạ lùng nhìn thế gian;
Bất giác hai hàng lệ em tràn.
Chung quanh em, những người săn sóc
Gạn ghẽ dò la hết cỗi gốc
Em chỉ nói rằng: “Đời em buồn”,
Rồi em nức nở lệ sầu tuôn.
Anh cũng như em, chán cõi đời,
Nhưng mà quả quyết sống mà chơi.
Đời càng bạc bẽo cùng mình lắm
Mình cũng yên vui, cũng nói cười!
Cười đời bạc bẽo khinh thế gian
Cho biết rằng ta chẳng phải hèn
Ta sống vì chúng ta quả quyết
Đạp bằng muôn vạn nỗi gian nan.
Đứng dậy, em ơi! Sống cõi đời,
Đời dầu khổ nhục đến mười mươi,
Em nên điểm phấn tô son lại,
Ngạo với nhân gian một nụ cười.
Ngày mai ở mãi chốn chân trời
Trong cảnh gia đình ấm áp vui
Một phút trầm ngâm anh sẽ khấn
Cho em trở lại được tươi cười.
Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh – Hoài Chân)
Trông Chồng
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
(Vương Xương Linh)
Chinh phu ruổi ngựa lên miền Bắc
Tiếng địch bên thành thổi véo von
Mây bạc lưng trời bay lững thững
Chim trời tan tác bóng hoàng hôn
Vó ngựa chập chùng lên ải Bắc
Tuyết sương lạnh lẽo giá râu mày!
Gươm thiêng lấp lánh bên lưng nhẹ
Ngựa hí vang lừng trận gió may
Đứng tựa bên thành xiêm áo lệch,
Kìa ai trông ngóng ải Phiên ngoài
Bóng cờ phất phới xa xa, lạt…
Tình cũ xin nguyên chẳng lạt phai…
Mang ấn phong hầu khi trở lại,
Rỡ ràng chinh phụ nét cười tươi
Thái Can
(1910-1998)
23. Vân Đài
Vợ một ông chủ sự vô tuyến điện. Sinh ngày 29-1-1908.
Quên quán ở Hà Nội.
Đã đăng thơ: Phụ nữ tân văn, Phong hoá, Ngày nay, Tinh hoa, Đàn bà.
Chọn thơ Vân Đài tôi phân vân quá. Bài nào cũng được. Không có gì sâu sắc. Vân Đài chỉ là một người chơi thơ. Nhưng lời thơ bao giờ cũng nhẹ nhàng, êm ái. Ít khi tiếng nam có vị ngọt ngào như thế. Ấy cũng vì Vân Đài ưa nói những gì rất mong manh, rất bình yên.
Những câu xôn xao nhất như:
Gió xuân đâu biết cho lòng thiếp
Ôm ấp bên mình thiếp mãi chi?
thì lại là những câu phỏng theo thơ Đường. Ai ngờ thơ Đường còn có thể gửi cho thơ Việt thời nay chút hương sắc dục.
Tháng 10- 1941
24. Đỗ Huy Nhiệm
Sinh ngày 16-3-1915 ở Nam Định. Chính gốc người Phú Yên, họ Hồ sau đổi thành họ Đỗ. Học trường Nam Định đến đậu thành chung, lên Hà Nội học đến tú tài. Hiện làm sở Trước bạ Hà Nội. Viết báo thường ký Đỗ Phủ, Thiếu Lăng.
Đã xuất bản: Khúc ly tao (1934), Thiên diễm tuyệt (1936).
Đỗ Huy Nhiệm kể:
Lắm khi đứng tựa bên cây,
Thẫn thờ đôi mắt đắm say nhìn trời.
Nhưng đến lúc cắt lời để gọi
Thì nàng như làn khói thoảng tan
Mặc tôi đứng sững mơ màng,
Một mình với một chiếc đàn chùng dây.
Nàng đây lại là Nàng Thơ và câu này là một câu tâm sự. Quả Đỗ Huy Nhiệm đã ôm ấp một mối tình lãng mạn đi theo dõi Nàng Thơ luôn trong bảy tám năm trời, từ “Khúc ly tao”, đến “Thiên diễm tuyệt”, từ “Phụ nữ thời đàm hồi”, ông Phan Khôi chủ trương đến Tân thiếu niên, Tiến hoá, Văn học tạp chí 1935, Hanoi báo, Tiểu thuyết thứ năm, Trào phúng, Đông thanh, Đông Á, Tin mới,… hầu hết trên các báo chí bắc Nam. Nàng Thơ có lẽ không nỡ phụ người có công. Một đôi lần Nàng đã gặp con người tình cờ trở nên người họ Đỗ và cố ý mạo danh Đỗ Phủ, Thiếu Lăng. Các cuộc gặp gỡ ấy đều ghi lại bằng những vần thơ phảng phất giọng Đường với một chút xôn xao mới.
Tháng 10- 1941
25. Nguyễn Giang
Con nhà văn hào Nguyễn Văn Vĩnh. Trên ba mươi tuổi. Đã du học bên Pháp. Về nước chủ trương Âu Tây tư tưởng và Đông Dương tạp chí.
Họa sĩ hơn là thi sĩ.
“… Ký giả lại nghĩ rằng nếu trong một bức tranh, cái Đẹp chẳng phải là ở riêng vật nào, mà là cách ta để cái vật này gần cái vật khác để cho hình nọ với hình kia nó cân đối nhau, thì trong văn thơ cái Đẹp cũng chẳng phải là một vật riêng nào, một chữ, một câu nào, mà là cái toàn thể cả bài thơ, ở cái tình cảnh tương đối và hoà hợp nhau”. Câu này Nguyễn Giang viết trong tựa Trời xanh thẳm (t.17-18). Tôi chép lại đây để thấy rõ quan niệm của Nguyễn Giang về thi ca: làm thơ là tìm cái Đẹp mà cái Đẹp là “cái cách tình cảnh tương đối và hoà hợp với nhau”.
Có hiểu quan niệm đặc biệt ấy, cái quan niệm từ nghề vẽ chuyển sang nghề thơ, họa may vì thú thật tôi không dám chắc là đã hiểu được. Tôi quá nặng lòng trần tục mà lối thơ này quá thuần tuý chăng? Tôi không hiểu được những nhà thơ nghệ sĩ chăng? Dầu sao, xem thơ tôi muốn tìm những tâm hồn. Mà sau câu thơ Nguyễn Giang ít khi tôi thấy có gì. Sự tương đối, sự hoà hợp của những tình, những cảnh trong thơ Nguyễn Giang thấy tầm thường quá, không đủ để rung động tôi. Người ta bảo lối thơ Đường bao giờ cũng thế. Nhưng tôi đã đọc thơ của Lý Bạch, của Đỗ Phủ những bài thơ khiến tôi rung cảm biết bao!
Đã vậy, sao tôi lại nói đến thơ Nguyễn Giang trong một quyển sách chỉ nói đến những nhà thơ và những bài thơ tôi thích? Ấy là vì đọc Nguyễn Giang tôi bỗng không dám hoàn toàn tin tôi. Ấy cũng vì những ý nghĩ thành thực và ngộ ngộ giãi bày trong bài tựa dài đầu quyển Trời xanh thẳm. Vậy tôi xin trích ra đây ba bài thơ tôi để ý nhất (bài nào câu cuối cũng hay). Hoặc giả bạn đọc sẽ thấy có gì chăng, ngõ hầu khỏi mai một nhà thơ có chân tài biết đâu?
Xuân
Gió xuân phơ phất thổi trong cành
Lớp lớp bên đường bóng lá xanh
Cây cỏ cười tươi hoa mũm mĩm
Học sinh qua lại áo phong phanh
Chim non ngoài nắng bay chi chít
Đàn sáo trong cây vẳng khúc tình
Bờ suối chờ ai chưa thấy lại
Nhìn cô áo đẹp bước đi nhanh.
Con đường nắng
Xào xạc đường trưa vắng bóng người
Bốn bề nắng hạ phẳng bằng soi
Lơ thơ dưới núi hàng thông cõi
Trắng xóa bên trời tảng đá vôi
Một bước ngạt ngào trăm thức cỏ
Trước sau thăm thẳm một màu trời
Dừng chân ngắm cảnh bên bờ đá
Kìa cánh hoa vàng tưởng nhớ ai
Tháng 9-1941
26. Quách Tấn
Sinh ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu (24 tháng giêng 1910) ở làng Trường Định, huyện Bình Khê (Bình Định). Hiện làm phán sự toà sứ Nha Trang. Ông thân là người Tây học, bà thân là người Hán học. Bắt đầu học chữ Hán, năm mười một tuổi mới học chữ Quốc ngữ. Học trường Qui Nhơn. Có bằng thành chung.
Đã xuất bản: Một tấm lòng (1939), Mùa cổ điển (1941).
Đêm đã khuya, tôi ngồi một mình xem thơ Quách Tấn. Ngoài kia có lẽ trăng sáng lắm. Nhưng trời về thu, khí trời lạnh lạnh, cửa sổ bên bàn viết đóng kín. Ngọn nến trên bàn toả ra một bầu ánh sáng chỉ đủ sáng chỗ tôi ngồi. Chung quanh tối cả. Tối và im. Một thứ im lặng dày đặc. Trong ấy có muôn ngàn thứ tiếng ta không nghe. Lúc này chính là lúc xem thơ xưa. Tôi lắng lòng tôi để đón một sứ giả đời Đường, đời Tống. Đời Đường có lẽ đúng hơn. Đời Đường mới có cái âm u ấy. Thơ Tống dầu xem được ít tôi nhớ hình như quang đãng và bình yên, không như thế.
Theo gót nhà thơ, tôi đi dần vào một thế giới huyền diệu. Ở đây người ta nói rất khẽ, bước rất êm. Những tiếng khóc rộn ràng, người lời reo vui vẻ đều kiêng. Một sức mạnh vô hình, rất mềm mại nhưng rất chắc chắn nặng đè lên hết thẩy. Tình cảnh ở đây không còn là người tình cảnh ta vẫn thường quen biết. Tình cảnh ở đây đã biến thành một thứ hương mầu nhiệm. Nó quyện lấy mình ta và chân ta tự nhiên bước theo một điệu nhịp nhàng dìu dặt. Ta không thấy gì, ta không nghe gì. Nhưng ta biết thế giới này giầu sang lắm. Chốc chốc một cảnh rực rỡ vụt hiện ra trước mắt ta rồi vụt biến đi:
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng,
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng.
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng?
Ta có thể lơ đãng không thấy rõ sương trên bến Phong Kiều, trăng trên dòng Xích Bích. Không thấy cả cái giếng sầu rụng. Nhưng sắc vàng kia! Cái sắc vàng trong giây phút chiếu sáng cả trời thơ!
Rồi tất cả lại trở lại trong mờ mờ. Hương thiêng vẫn quấn quít bên mình ta, ta đã xa lắm những vui buồn lộn xộn, rộn rịp của cuộc đời; nhưng sao thỉnh thoảng giữa im lặng ta nghe như có tim ai thổn thức. Đây là lời than của một người mồ côi:
Cảnh có núi sông nhiều thú lạ,
Đời không cha mẹ ít khi vui.
Đây tiếng rên rỉ thấy mình bơ vơ trơ trọi:
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ.
Nhớ gửi vào thơ nghĩ tội thơ!
Tiếng khóc âm thầm của con người dè dặt, kín đáo ấy, nó mới não lòng làm sao! Quách Tấn đã tìm được những lời thơ rung cảm chúng ta một cách thấm thía. Người đã thoát hẳn cái lối chơi chữ nó vẫn là môn sở trường của nhiều người trong làng thơ cũ.
Tháng 10 – 1941
27. Phan Khắc Khoan
Sinh nào khoảng tháng 6- 1916 ở làng Yên Lăng, huyện Yên Thành(Nghệ an). Mồ côi mẹ thuở bé. Năm 15 tuổi cha bị mù. Học trường huyện, trường Vinh. Có bằng thành chung.
Đã đăng thơ: Phong Hoá( ký chàng Chương), Thế giới, Mới (ký Hồng Chương), Hà Nội tân văn, Tri tân.
Hai năm trước tôi đã nói đến Xa xa, tập thơ đầu của Phan Khắc Khoan. Nhưng ngoài tập Xa xa, Phan Khắc Khoan còn làm một số thơ. Nhân hỏi xem, tôi dã nhận được một lần mười một tập kèm với một lá thư đại khái nói: “Đây chỉ chừng một nửa thi phẩm của tôi, nhưng tôi không muốn anh phải mệt vì thơ tôi hơn nữa”. Dầu thế, tôi đã mệt vì thơ Phan Khắc Khoan nhiều lắm. Không phải đây đó tôi không lượm được những vần thơ dễ thương. Nhắc lại một mối tình hờ hững, Phan Khắc Khoan có những câu:
Đã chót tương phùng trong một quán
Dẫu trà ôi, chuyện nhạt cũng là duyên.
Có khi lòng bâng khuâng, người muốn:
Hạ mái tình xưa: sương về gió tạt
Nghiêng nghiêng hồn cho trút nhẹ chua cay
Có khi thấy lẻ loi, người than:
Thô vụng quá, sắm vai gì trên sâm khấu?
Hồn đơn cô, trông ngơ ngác chợ đời!…
Ồ! Những lúc bốn bên tường hiu quạnh
Thời gian không ngừng thoát một ly nào
Mà trong phòng hồn tôi cứ nao nao!
Bình yên lại, sao mà non yếu thế?
Lòng mơ khát gì đây chăng? Có lẽ,
Kìa mang ý lạ tự đâu về
Ngập hồn tôi như nước chảy tràn đê,
Rồi bút mực tình tự cùng giấy trắng.
Còn có thể tìm được nhiều lời khả ái như thế, nhất là trong những bài tả sự thờ ơ, sự phản trắc trong tình bạn. Nhưng cái tính dễ dãi của Phan Khắc Khoan thực sự dễ sợ! Ai lại đi xe lửa hạng tư chật không một chỗ đứng, từ Huế ra Thanh, mà làm luôn một thôi năm bài thơ dài! Cho nên Phan Khắc Khoan, thường không hay đi sâu vaog hồn mình để tìm thấy những điều riêng biệt.
Đi lại, tập Xa xa vẫn là tập thơ trội hơn cả. Hình như một cuộc tình duyên không toại đã vì tác giả khơi nguồn thơ. Người ta lắm khi cần phải có một mối thất vọng lớn mới sáng mắt mà nhìn rõ mình và tạo vật. Có lẽ Phan Khắc Khoan đã nhờ thế mà cảm được cái phong vị đặc biệt của cảnh trời biển miền Nam. Cả tập Xa xa đượm một mối buồn vô hạn, một nỗi nhớ không nguôi. Tuy chỉ là nỗi buồn riêng, nhưng lời thơ nhân đó có cái buồn bát ngát, cái nhớ nhung khó hiểu của những nơi trời nước mênh mông. Người đọc thơ tưởng nghe điệu buồn dìu dìu muôn năm vẫn thì thầm trên bãi biển.
Những bức tranh nho nhỏ, xinh xinh, thu gọn trong bốn câu bảy chữ, đều buồn lây cái buồn kín đáo và man mác của thi nhân. Vì nói tình hay nói cảnh, người cũng chỉ nói lòng mình, nói cho một mình mình nghe. Hình ảnh người yêu luôn luôn theo dõi người trong lúc người muốn quên, muốn xa, đã đưa người về cuộc đời bên trong đầy ý nhị.
Tháng 7 – 1941
28. Thâm Tâm
Chính tên là Nguyễn Tuấn Trình. Sinh ngày 12 – 5- 1917 ở Hải Dương. Học ở Hải Dương.
Hiện viết giúp: Tiểu thuyết thứ bảy, truyền bá.
Bài thơ này trích dưới đây rút ra ở tập Thơ Thâm Tâm chưa xuất bản.
Thơ thất ngôn của người ta bây giờ thực có khác thơ thất ngôn cổ phong. Nhưng trong bài dưới đây lại thấy sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ. Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc. Không mềm mại uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. Nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại.
Tháng 11- 1941
Tống biệt hành
Đưa người, ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thẳm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng…
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
o O o
Ta biết người buồn chiều hôm trước.
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị, hai chị cùng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
o O o
Ta biết người buồn sáng hôm nay;
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say.
(Thơ Thâm Tâm)
29. Phan Thanh Phước
Dòng dõi Phan Thanh Giản. Chánh quán ở Nam kỳ. Sinh ở Huế năm 1916. Học ở Quản Trị, Faifo, Huế. Có bằng thành chung. Hiện làm việc ở nam Triều.
Phan Thanh Phước nói: “Một bài thơ của tôi xong là tôi tự thấy sút kém một tí sức trong sức khoẻ của tôi, như vậy tức nhiên có một phần sức khoẻ của tôi đã vào trong thơ tôi, tôi tự hỏi thế là trong thơ tôi có cả hồn lẫn xác tôi chăng”.
Ai đọc hết tập Vương hương chắc cũng có cảm giác ấy: trong thơ Phan Thanh Phước quả có cả hồn lẫn xác đã làm tội cái hồn. Một bài thơ hay, dầu nhẹ nhàng vui vẻ, dầ sầu não thương đau, bao giờ cũng là một sự giải thoát. Giải thoát ra khỏi cái u tối của xác thịt để sống cái sáng láng của linh hồn. “Tự giác nhi giác tha”, cái tôn chỉ của nhà Phật cũng là tôn chỉ nhà thơ. Phan Thanh Phước ít khi đạt được tôn chỉ ấy. Ta thấy người khổ sở lắm, mỗi bước mỗi ngập ngừng, mỗi bước mỗi vấp vào xác thịt. Tập Vương hương với cái tên yêu kiều, đã bày ra một cuộc hỗn chiến gay go, đau dớn giữa xác và hồn.
Kể cũng đáng tiếc, mỗi lần Phan Thanh Phước thoát ly được ra ngoài cái vương víu của xác thịt, người tỏ ra có bản lĩnh lắm.
Tôi vẫn biết người có tính ưa lập dị, nhưng dầu sao cũng là một tâm hồn phong phú hay hay.
Khi người yêu, mối tình của người luôn luôn thắc mắc. Người có ngồi suốt đêm nhìn người yêu hay không, không ai biết được. Nhưng người đã có những cảm giác của một người thức đêm như thế:
Anh đã thức trọn đêm không biết nhọc
Ngồi lặng yên cho mắt ngắm em say;
Đời vắng xa, xa hết những chua cay
Còn em đẹp mềm thơm và chua ngọt.
Song gần nhau lâu rồi cũng có khi chán. Lúc bấy giờ người sẽ sống lại cái vui xưa:
Muốn sống êm ta gợi phút yêu đầu,
Anh bỡ ngỡ say em người xa lạ.
Thiết tưởng ta vẫn có thể để hy vọng vào những tác phẩm sau này của Phan Thanh Phước.
Tháng 10 – 1941
Chú thích
Các đoạn thơ trích trên rút trong tập Vương hương chưa xuất bản (10/19941).
30. Lưu Trọng Lư
Sinh năm 1912 ở Cao Lao Hạ, huyện Bố Trạch (Quảng Bình). Học trường Quốc học Huế đến năm thứ ba, ra Hà Nội học tư rồi bỏ đi làm báo, làm sách cho đến nay.
Chủ trương Ngân sơn tùng thư, Huế (1933- 1934).
Đã viết giúp: Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm, Tiến hoá, Hanoi báo, Tân thiếu niên, Tao đàn…
Đã xuất bản: Tiếng thu (1939).
Lư đang nằm trên giường xem quyển “Tiếng thu” bỗng ngồi dậy cười to:
– A ha! Thế mà mấy bữa ni cứ tưởng…
-?
– Hai câu:
Giật mình ta thấy bồ hôi lạnh,
Mộng đẹp bên chăn đã biến rồi.
mấy bữa ni tôi ngâm luôn mà cứ tưởng là của Thế Lữ…
Thì ra hai câu ấy của Lư!
Ở đời này, ít người lơ đãng hơn. Thi sĩ đời nay họ khôn lắm, có khi ranh nữa, Và yêu thơ, thường ta chả nên biết người: thiệt thòi cho họ và thiệt thòi ngay cho mình. Nhưng yêu thơ Lư mà quen Lư vô hại, thì đời Lư cũng như một bài thơ. Nếu quả như người ta vẫn nói, thi sĩ là một kẻ ngơ ngơ ngác ngác, chân bước chập chững trên đường đời, thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai hết. Giá một ngày kia Lư có nhảy xuống sông ôm bóng trăng mà chết ta cũng không nên ngạc nhiên tí nào.
Trong thơ Lư, nếu có tả chim kêu hoa nở, ta chớ tin, hay ta hãy tin rằng tiếng kia màu kia chỉ có ở trong mộng. Mộng! Đó mới là quê hương của Lư. Thế giới thực của ta với bao nhiêu thanh sắc huy hoàng Lư không nghe thấy gì đâu. Sống ở thế kỷ hai mươi, ngày ngày nện gót giày xuống các con đường Hà Nội, mà người cứ mơ màng thấy mình gò ngựa ở những chốn xa xăm nào.
Cảnh mộng có khi cũng có màu sắc như chiếc cánh diều lững thững trên sườn núi hay con nai vàng ngơ ngác trong rừng thu. Nhưng thường ta chỉ thấy những cảnh rất mơ hồ, không có ở thời nay mà cũng không có ở thời nào. Hãy đọc bài “Thơ sầu rụng”: Bóng người con gái quay tơ trong đó ẩn sau một màn mây mờ. Ta biết có nàng nhưng ta không thấy nàng và ta cũng chớ nên tìm nàng làm chi… Cứ để lòng trôi theo cái âm hưởng đặc biệt của bài thơ, ngân nga, dằng dặc, buồn buồn, đều như tiếng guồng xa… Sau bài thơ bát ngát một trời đất ta không hiểu, thi nhân cũng không hiểu.
Nhưng dầu sao con người mơ mông ấy cũng đã rơi xuống giữa cõi trần, người đã sống một cuộc đời rất thực ở trần gian. Có điều mỗi khi kể lại những chuyện thực trong đời mình, người để xen vào rất nhiều chuyện trong mộng. Nhưng chuyện dầu chuyện mộng, tình bao giờ cũng thực. Và mối tình chan chứa trong bài thơ bắt ta phải bồi hồi.
Đặc sắc của Lư chính là ở chỗ này. Từ những kỷ niệm tươi sáng về người mẹ đã khuất, cho đến bao nhiêu buồn thương, bao nhiêu chán nản, bao nhiêu đâu khổ vì tình yêu, cả cái cảnh đời giá lạnh của đôi vợ chồng lúc “tình đà xế bòng”, cùng cái thú ngây ngất của cuộc đời ” giang hồ”. Lư đều kể cho ta nghe một cách rất cảm động.
Một điều rõ ràng: Đọc thơ người khác ta có thể tìm thấy nhiều bài âm điệu tinh tế hơn, nhiều hình ảnh xinh đẹp hơn, nhưng ít bài cảm động như thơ Lư. Ấy, chỉ vì Lư thành thực hơn. Hãy xem: tuy chẳng phải n của gia đình lư đã không ngần ngại mà nói đến vợ đến con, một điều các thi nhân ta gần đây hình như kiêng lắm.
Tôi bỗng nhớ câu nói của Pascal: “Tưởng kẻ viết là một nhà văn, không ngờ lại gặp một người “.
Tôi biết có kẻ trách Lư cẩu thả, lười biếng, không biết chọn chữ, không chịu khó gọt dũa câu thơ. Nhưng Lư có làm thơ đâu, Lư chỉ để lòng mình tràn lan trên mặt giấy. Tình đã gửi trong lời thơ, Lư không còn đoái hoài đến nữa. Lư vứt chỗ này một bài, chỗ khác một bài, với cái phóng khoáng cả một kẻ khinh hết thảy những cái gì gọi là quý ở đời này. Sánh với những người yêu thơ Lư, Lư là người thuộc thơ mình ít nhất. Âu cũng là điều bất lợi. Một điều bất lợi nữa là trong khi thơ Việt Nam đương đi tìm nghệ thuật mới lạ, những tình cảm khuất khúc, những hình sắc phiền phức của thiên nhiên, thì Lư cũng chỉ có một ít khúc đàn bình dị, một ít khúc đàn xưa, dầu có đổi xoang đổi điệu cũng vẫn là những khúc đàn xưa.
Nhưng ngoài cái sở thích nhất thời còn những sở thích đời đời không thay đổi.
Bao giờ còn có những cặp vợ chồng nhớ tiếc buổi tân hôn thì những câu như:
Còn đâu ánh trăng vàng
Mơ trên làn tóc rối?…
Đêm ấy xuân vừa sang
Em vừa hai mươi tuổi.
vẫn khiến họ bâng khuâng.
Bao giờ còn có những kẻ say đắm tình yêu và đau khổ vì yêu thì những câu như:
Ta mơ trong đời hay trong mộng?
Vùng cúc bên ngoài động dưới sương.
hay:
Đợi đến luân hồi sẽ gặp nhau
Cùng em nhắc lại chuyện xưa sau.
Chờ anh dưới gốc sim già nhé!
Em hái đưa anh đoá mộng đầu.
vẫn tìm thấy những tiếng dội trong lòng người.
Dầu chưa lăn lóc trong trường tình, đọc thơ Lư người ta cũn phải bồi hồi vì cảnh phong ba ngoài kia, nơi thi nhân đương trôi nổi. Qua khung cửa bài thơ, ngọn gió lạnh ngoài khơi đưa tới, người ta sẽ thấy xao động cho dầu đã khép chặt cõi lòng để sông một cuộc đời êm ấm.
Sao lại có người có thể đọc những câu như thế mà vẫn dửng dưng. Họ bảo những nỗi đau thưong ấy thường quá. Vâng thường, thường lắm thường như hầu hết những nỗi đau thương thành thực của loài ngườịTôi không muốn nói nhiều. Trước sự đau thương của người bạn, tôi muốn im lìm kính cẩn. Tôi chỉ biết, dầu có ưa thơ người này hay người khác, mỗi lúc buồn đến, tôi lại trở về với Lưu Trọng Lư. Có những bài thơ cứ vương vấn trong trí tôi hằng tháng, lúc nào cũng như văng vẳng bên tai. Bởi vì Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức của lòng ta.
Tháng 3 – 1941
31. Nguyễn Nhược Pháp
Con nhà văn hào Nguyễn Văn Vĩnh. Sinh ngày 12-12-1914 ở Hà Nội, mất ngày 19-11-1938. Học ở Hà Nội. Có bằng tú tài Tây.
Làm thơ từ năm 1932. Ngoài thơ có viết nhiều truyện ngắn và kịch.
Có viết giúp: Annam nouveau, Hanoi báo, Tinh hoa, Đông Dương tạp chí.
Đã xuất bản: Ngày xưa (1935).
Thơ in ra rất ít mà được người ta mến rất nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp.
Không mến sao được? Với đôi ba nét đơn sơ, Nguyễn Nhược Pháp đã làm sống lại cả một thời xưa. Không phải cái thời tráng lệ hay mơ màng của Huy Thông, mà là một thời xưa gồm những màu sắc tươi vui, những hình dáng ngộ nghĩnh. Thời xưa ở đây đã mất hết cái vẻ rầu rĩ cố hữu và đã biết cười, cái cười của những “thắt lưng dài đỏ hoe”, những đôi “dép cong” nho nhỏ. Những cảnh ấy vốn có thực. Nhưng dầu sự thực không có thì nhà thơ sẽ tạo ra, khó gì Mặc cho những nhà khảo cổ cặm cụi tìm nguyên do câu chuyện hai vị thần giành nhau một nàng công chúa, thi nhân cứ cho là có thực và người thấy khi Thuỷ Tinh đã bắt quyết gọi mưa để khoe tài, thì Sơn Tinh chẳng chịu thua, liền:
Vung tay niệm thần chú. Núi từng dải,
Nhà lớn, đồi con lổm cổm bò
Chạy mưa.
Sáng hôm sau, Thuỷ Tinh cưỡi rồng vàng đến xin cưới:
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia độ năm mươi hòm ngọc trai,
Khập khễnh bò lê trên đất lạ;
Trước thành tấp tểnh đi hai hàng.
Nhưng chậm mất rồi. Sơn Tinh đã đến trước. Tức quá THuỷ Tinh liền ra lệnh cho bọn đồ đệ dương oai:
Cá voi ngoác mồm to muốn đớp;
Cá mập vẫy đuôi cuồng nhe răng;
Càng cua lởm chởm giơ như mác;
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Ai xem những cảnh ấy mà không buồn cười. Thi nhân cũng chỉ muốn thế: kiếm chuyện cười chơi.
Cũng có khi người cười những nhân vật chính người đã tạo ra, như cái cô bé đi chùa Hương trong thiên ký sự chép những câu thật thà:
Em đi, chàng theo sau.
Em không dám đi mau,
Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giàu.
Có khi chẳng biết người muốn cười ai. Sau khi tả cái đẹp của Mỵ Nương, người thêm một câu:
Mê nàng bao nhiêu người làm thơ,
Người vờ ngớ ngẩn để kiếm cớ giễu mình chơi, hay người muốn giễu những kẻ đứng trước gái đẹp bỗng thấy hồn thơ lai láng?
Lại có khi không giễu mình không giễu người, thi nhân cũng cười: cười vì cảnh ngộ. Như khi Sơn Tinh và Thuỷ Tinh cùng đến hỏi Mỵ Nương, Hùng Vương sung sướng nhìn con
Nhưng có một nàng mà hai rể,
Vua cho rằng thế cũng hơi nhiều.
Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào hình như cũng thoáng thấy bóng người đương khúc khích cười. Nhưng cái cười của Nguyễn Nhược Pháp khác xa những lối bông lơn khó chịu của các ông tú, từ Tú Xuất, Tú Xương, đến Tú Mỡ. Nó hiền lành và thanh tao. Nội chừng ấy có lẽ cũng đủ cho nó một địa vị trên thi đàn. Nhưng còn có điều này nữa mới thật đáng quý: với Nguyễn Nhược Pháp nụ cười trên miệng bao giờ cũng kèm theo một ít cảm động trong lòng. Những cảnh, những người đã khiến thi nhân cười cũng là những cảnh, những người thi nhân mến. Người mến cô bé đi chùa Hương và cùng cô bé san sẻ mọi nỗi ước mơ, sung sướng, buồn rầu. Người mến nàng Mỵ Nương. Lúc Mỵ Nương từ biệt cha đi theo chồng, người thấy:
Lầu son nàng ngoái trông lần nữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
rồi:
Nhìn quanh khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: “Phụ vương ôi! Phong Châu!”
Một điều lạ là những câu tình tứ như thế ghép vào bên cạnh những câu buồn cười mà không chút bỡ ngỡ. Cái duyên của Nguyễn Nhược Pháp là ở đó. Chắc Nguyễn Nhược Pháp không chịu ảnh hưởng của ẠFrance, nhưng xem Ngày xưa tôi cứ nhớ đến cái duyên của tác giả Le livre de mon ami. Phải chăng Nguyễn Nhược Pháp cũng hay giễu đời và thương người như ẠFrance? Không? nói giễu đời e không đúng. Nguyễn Nhược Pháp chỉ muốn tìm những cảnh, những tình có thể mua vui. Dầu sao tôi thấy Nguyễn Nhược Pháp già lắm, khác hẳn người bạn chí thân của người là Huy Thông. Người nhìn đời như một ông già nhìn đàn trẻ con rất ngộ ngĩnh và cũng rất dễ yêu, mặc dầu người vẫn còn trẻ lắm. Người mất năm hai mươi bốn tuổi, lòng trong trắng như hồi còn thơ.
Tháng 10-1941
32. Phan Văn Dật
Sinh ngày 17-8-1909 ở làng Phú Xuân, huyện Hương Trà (Thừa Thiên). Chánh quán: làng Đạo Dầu, phủ Triệu Phong (Quảng Trị). Học trường Quốc học Huế đến đậu thành chung. Hiện làm thư ký ngạch trước bạ Huế.
Viết văn từ 1924, đến 1927 có đăng Nam Phong, Thần Kinh, Rạng Đông, (ký Tiêu Lang và Thường Nga Phố).
Đã xuất bản: Bâng Khuâng (1935).
Hồi tháng 12-1935 tôi có viết trên báo Tràng An một bài về quyển Bâng Khuâng. Nay xem lại thơ Phan Văn Dật cảm tưởng vẫn không khác xưa. Vậy xin trích mấy đoạn chính trong bài thơ ấy.
Trong làng thơ, Phan Văn Dật thuộc về phái thanh niên. Nhưng có lẽ thanh niên vì tuổi hơn vì thơ. Giữa lúc ấy một luồng không khí mới thúc giục người ta thoát ly gia đình, Phan Văn Dật đã dám ca tụng cái tình cha con, anh em; sách của người, người đề tặng song thân, tưởng ngày nay cũng là một điều ít có.
Những điều người mơ ước cũng giống hệt những điều mơ ước của các cụ ta ngày xưa: một cuộc đời bình dị nơi thôn dã. Tôi thấy ở người cái lòng chán nản, hơn nữa cái lòng căm giận những nơi đô hội. Mối hận dài trong thơ Phan Văn Dật sẽ chẳng là cái hận của Dương Quý Phi bị hy sinh vì lẽ nước, nó là cái hận một người đàn bà bị sức quyến rũ của thành thị cướp mất chồng con. Nguyễn Nhược Pháp với tập “Ngày xưa” đã nhìn vào cảnh vật xưa bằng con mắt một người thời nay, Phan Văn Dật với tập “Bâng khuâng” đã nhìn cảnh vật ngày nay sau bức màn một tâm hồn xưa.
Giữa cuộc đời náo động, người ngoảnh mặt làm ngơ và tự tạo cho mình một thế giới riêng, một thế giới lặng lẽ đầy mơ mộng. Cuộc đời như thế ắt sẽ bằng phẳng vô sự. Nhưng chỉ vô sự đối với những con mắt không tinh. Thực ra trong lòng thi nhân không phải là vô sự: thi nhân không thiết chuyện hằng ngày nhưng vẫn luôn luôn sống với một cuộc đời đã qua rất phong phú:
Tôi không hay hưởng cùng cái hiện tại.
Hững hờ, tôi thường để nó đi qua.
Chuyện ngày nay sau tôi sẽ xót xa,
Tôi chỉ tiếc những giờ không trở lại.
“Những giờ không trở lại” đó, Phan Văn Dật nhắc đến một cách âu yếm. Nào những mối tình xưa, xa hơn nữa, những cảm hoài thời thơ ấu, những khi nô đùa với những trẻ con hàng xóm, những khi anh em dắt tay nhau vơ vẩn trong vườn:
Vào buổi bình minh, năm ấy xưa,
Trong vườn đào lý, phủ sương mờ,
Dắt tay hai trẻ tìm hoa rụng,
Mơ chuyện thần tiên, nghĩ vẩn vơ.
Những cảnh ấy đã qua trong đời mình có khi thi nhân để lẫn với những cảnh đã qua mấy mươi năm đời trước. Nhân biệt một người bạn, Phan Văn Dật đã thay lời người đàn bà xưa tiễn chồng đi lính viết lên những câu nhịp nhàng và cảm động. Nỗi buồn riêng ấy của thi nhân còn khiến người nghĩ liên miên đến những nỗi đau đớn của người xương phụ cùng cái ngao ngán vì mọi cuộc tang thương.
Nói cho đúng, thi nhân chẳng phải hoàn toàn sống trong cảnh xưa cảnh mộng và cái thế giới chung quanh tuyệt không có trong con mắt thi nhân. Người cũng biết say vì cảnh đẹp thoáng qua trước mắt. Có lúc bỗng sực nhớ mình là một trai trẻ đương tuổi yêu, nghệ sĩ nắn mấy vần thơ:
Ca ngợi tình yêu, vẻ đẹp em,
Lời thơ réo rắt tôi săn tìm.
Cậy người mang tặng cho em đọc,
Em để vào ngăn em chẳng xem.
Thì xưa nay vẫn thế!
Thơ Phan Văn Dật không rực rỡ không réo rắt, không hùng tráng, khong làm tha bồi hồi ngây ngất, nhưng vẫn khiến ta ưa đọc: nó là những vần thơ dễ thương. Ta không cảm phục mà ta lưu luyến, cũng như ta lưu luyến đất Kinh đô là nơi quê hương của thi nhân. Người yêu văn sẽ xem thi nhân như bạn nếu không thể xem như thầy.
Chính Phan Văn Dật cũng không muốn làm thầy ai. Người vốn biết:
Sự hoàn toàn tìm kiếm chỉn thêm hoài.
Ngọc lành là chuyện nói mà chơi,
Chớ kể ngọc nào không có vết!
Tháng 12-1935
33. Đông Hồ
Chính tên là Lâm Tấn Phác. Sinh ngày 16 tháng 2 năm Bính Ngọ (10-3-1906) ở làng Mỹ Đức (Hà Tiên). Thôi học nhà trường năm 16 tuổi. Chịu ảnh hưởng tạp chí Nam Phong.
Lập trí đức học xá. Chủ trương báo Sống (1935).
Đã viết giúp: Nam Phong, Trung bắc tân văn, Đông Pháp thời báo, Kỳ lân báo…
Đã xuất bản:Thơ Đông Hồ (1932), Cô gái xuân (1935).
Hoàn cầu dễ ít có thứ tiếng được âu yếm, nâng niu như tiếng Nam. Âu cũng vì tiếng Nam đương ở trong cảnh khốn cùng, đương bị nhiều người rẻ rúng. Thói thường con nhà nghèo vẫn thương yêu cha mẹ hơn con nhà sang trọng.
Nhưng yêu quốc văn mà đến như Đông Hồ kể cũng ít. Thất học từ năm mười lăm, mười sáu; từ đó người chỉ học quốc văn, viết quốc văn, rồi mở trường chuyên dạy quốc văn. Cả những lúc người đai cơm bầu nước cùng học trò đi chơi các vùng thắng cảnh đất Phương thành, các đảo dữ miền duyên hải, tôi tưởng cũng chỉ vì quốc văn: người đi tìm cảm hứng vậy.
Khốn nỗi, người ra đời vào lúc văn học nước nhà đương hồi tàn tạ. Vốn tính hiền lành, không đủ táp bạo để gây nên giữa làng văn một cuộc biến động cần phải có, lúc đầu người chỉ cam tâm hiến mình cho những lối xưa ràng buộc. và người cũng không hề lấy thế làm bứt rứt khó chịu, chưa bao giờ người có ý muốn thoát ly.
Mặc dầu sự tình cờ đã đôi lần đưa người ra ngoài khuôn sáo. Trong tập Thơ Đông Hồ, giữa bao nhiêu câu trơn tru mà tầm thường, trống rỗng đột nhiên ta gặp đôi lời dường như trong ấy ẩn náu một linh hồn. Như những lời thuật hoài sau khi nàng Linh Phượng đã thành người thiên cổ:
Mối sầu khôn dãi cùng trời đất;
Chén rượu đành khuây với nước non.
Cùng những lời nhớ bạn, hoặc thật thà:
Khi biệt dễ dàng khi gặp khó;
Chốn vui ai nhớ chốn sầu chi.
hoặc kín đáo
Cái oanh đâu bỗng ngoài hiên gọi:
Đã hai lần rồi xuân vắng mai (1)
Với nỗi thắc ấy, với nỗi buồn man mác ấy, Đông Hồ đã đi xa trường thơ Nam Phong nhiều lắm.
Nhưng trong tập Thơ Đông Hồ, lạ nhất là bài “Tuổi xuân”, người ta có thể tưởng nó đã ở đâu lạc tới. Đến khi tác giả đưa in lại vào tập Cô gái xuân, ta mới thấy nó tìm được hoàn cảnh tự nhiên của nó. Bởi vì trong bài “Tuổi xuân” có cái bồng bột, cái trịnh trọng trước tình yêu mà cả thế hệ trước đây không từng quen biết: họ quen xem người đàn bà như một thứ đồ chơi.
Đông Hồ vẫn là người của thế hệ bây giờ vậy. Cho nên phong trào thơ mới vừa nổi lên là người nhận ngay được con đường của mình. Với phong trào thơ mới tưởng không có sự đắc thắng nào vẻ vang hơn.
Từ nay, Đông Hồ sẽ chỉ ca tình yêu và tuổi trẻ. Ngòi bút của thi nhân riêng âu yếm những nỗi lòng của thiếu nữ, khi bình yên lặng lẽ, khi phới phới yêu đương. “Cô gái xuân” của Đông Hồ thỏ thẻ những lời đến dễ thương, những lời tuồng như lả lời mà vẫn trong sạch. Ta thấy trong lời nàng cả cái êm dịu cái mơn trớn vuốt ve của tình ái. Nghe nàng nói lòng nào không xiêu? Nhất là khi nàng kể cảnh ái ân trên bãi biển ta khó có thể không cùng nàng mơ tưởng đến những cảnh ấy. Đông Hồ là người thứ nhất đã đưa vào thi ca Việt nam cái vị bát ngát của tình yêu dưới ánh trăng thanh tiếng sóng.
Ai cũng thấy thơ Đông Hồ và Cô gái xuân khác nhau xa. Tuy vậy, nếu trong Thơ Đông Hồ ta thấy khơi nguồn thơ Cô gái xuân thì trong Cô gái xuân vẫn còn lai láng cái buồn những vần thơ cũ.
Tháng 8-1941
Chú thích
(1)- “Mai” cũng là tên người yêu (xem bài “Nhớ Mai” trong Cô gái xuân)
34. Mộng Tuyết
Chính tên là Lâm Thái Úc (đáng lẽ là Út, nữ sĩ vẫn nhận tên mình là út). Sinh ngày 9-1-1918 ở làng Mỹ Đức (Hà Tiên). Chỉ học trường hết bậc Sơ đẳng, rồi luyện tập quốc văn ở Trí Đức học xã.
Trong những người do Trí Đức học xã đào luyện ra thì Mộng Tuyết có đặc sắc hơn cả. Nhờ ô. Đông Hồ nói dùm, tôi được xem tập Phấn hương rừng của nữ sĩ. Tập thơ bìa thếp vàng, giấy tàu tốt, chính nữ sĩ viết và vẽ để làm vui riêng trong khuê phòng. Nét bút hoa mỹ, nét vẽ phóng túng, thỉnh thoảng lại chen vào ít câu chữ Hán cũng của Mộng Tuyết, thực là một cái thú cho người xem.
Còn thơ, hoặc nhẹ nhàng dí dỏm, hoặc hàm xúc lâm ly, hoặc nhớ nhung bát ngát, hoặc xôn xao rạo rực, tổng chi là lời một thiếu nữ, khi tình tự, khi đùa giỡn, khi tạ lòng người yêu. Người xem thơ bỗng thấy lòng run run như khi được đọc thư tình gửi cho một người bạn: người thấy mình đã phạm vào chỗ riêng tây của một tâm hồn, trong tay như đương nắm cả một niềm ân ái.
Nhưng có một điều đáng suy nghĩ: người thiếu nữ trong tập thơ này có làm ta quyên những thiếu nữ do trí tưởng thi nhân đàn ông tạo ra không? Nàng, một người đàn bà thiệt, nàng có đàn bà hơn những người đàn bà trong tưởng tượng kia không? Dầu sao, có những lời thơ như câu sau này tả cảnh xuân:
Chốn buồng khuê, xuân đến thăm em.
Hay như bài đề tặng bộ Việt Pháp tự điển (1), những lời tuy bình dị mà có một vẻ yêu kiều riêng tưởng ngòi bút đàn ông khó có thể viết ra được.
Tháng 8-1941
35. Nguyễn Xuân Huy
Sinh ngày 15-7-1915 ở làng Dũng Quyết, huyện ý Yên (Nam Định). Học ở Nam Định. Hiện dạy học ở Hà Nội.
Đã viết giúp: Đông tây, Phụ nữ thời đàm, Nhật Tân, Tân thiếu niên, Hanoi báo.
Cứ mỗi chiều Nguyễn Xuân Huy lại ra ngồi ở một mỏm đá trên bờ sông Vân (Ninh Bình) để sống những giờ thần tiên trong tưởng tượng với một nữ học sinh có gặp qua vài lần.
Thi nhân còn nhỏ, người tình trong mộng lại nhỏ hơn. Thi nhân sẽ dạy cho người yêu học. Hai người sẽ sống chung với nhau, âu yếm nhau, nhưng cũng dỗi nhau, đùa nhau và chơi với nhau đủ mọi trò trẻ con.
Tôi tưởng theo Nguyễn Xuân Huy thuật lại giấc mộng tình ấy mới có thể hiểu được hai bài thơ trích dưới đây, nhất là bài “Giận nhau”, mà báo Phụ nữ thời đàm hồi Ô. Phan Khôi chủ trương đem sánh với bài “Trường can hành” của Lý Bạch. Tôi sẽ không có cái táo bạo của ông Phan, nhưng tôi cũng thấy thơ Nguyễn Xuân Huy hay lắm. Mối tình ở đây vừa thanh sạch như tình ruột thịt, vừa nồng say như tình yêu. Tình ấy, một đời người ta chỉ để nuôi trong mộng một lần, khi lòng xuân mới nhóm và người ta còn giữ được cái trong trắng của tuổi ngây thơ. Chúng ta – những ai không còn tuổi ấy – xem thơ Nguyễn Xuân Huy sẽ được hưởng chút gió trong lành thổi về thời mười tám.
36. Hằng Phương
Vợ Ô. Vũ Ngọc Phan (1). Con Ô. Lê Dư. Sinh năm 1908 ở làng Nông Sơn(Quảng Nam). Học chữ Hán bảy tám năm. Chữ Tây chỉ học đến lớp nhất.
Đã đăng thơ: Phụ nữ tân văn, Ngày nay, Hà Nội tân văn, Đàn bà.
Thơ Hằng Phương cùng một giọng êm dịu, ngọt ngào như thơ Vân Đài. Nhưng ít dấu tích thơ Đường và thành thực hơn. Như đoạn cuối trong bài “Lòng quê” trích theo đây lời thơ thực yểu điệu dễ thương. Hằng Phương mượn lời chim để nói nỗi lòng mình. Nhưng thực ta không còn biết đây là lời người hay lời chim. Bởi mối tình ở đây nhẹ nhàng quá, trong trẻo quá. Người thơ tưởng chừng đã biến thành chim…
Tình quê còn đưa thi hứng cho Hằng Phương nhiều lần nữa. Có khi nó lẫn với lòng thương người mẹ đã khuất:
Ngày nay bên khóm trúc
Em thơ khóc rưng rức,
Tìm mẹ biết tìm đâu?
Trời xanh xanh một màu…
Có khi nó chỉ là tình lưu luyến cảnh quê hương:
Ai về cố quận cho ta nhắn
Gửi chút lòng thương nhớ núi sông.
Hằng Phương rất mến cảnh. Ngườu âu yếm nhìn những lúc trăng lên:
Sáng trưng mái ngói nhà ai,
Đôi chim ngỡ buổi ban mai, giật mình.
Những lúc bình minh:
Sương đêm còn đọng trên cành,
Rưng rưng hạt ngọc, long lanh nhìn trời.
Và:
Nách tường đôi lứa chim sâu,
Nằm trong tổ ấm thò đầu nhởn nhơ…
Những bức tranh nho nhỏ ấy đơn sơ mà xinh tươi làm sao. Hồn thi nhân âu cũng thế.
Tháng 12-1941
Chú thích
(1) Hằng Phương là tên, không phải là biệt hiệu
37. Nguyễn Bính
Sinh năm 1919 ở làng thiện Vịnh, huyện Vụ Bản (Nam Định).
Không hề học ở trường, chỉ học ở nhà với cha và cậu.
Làm thơ từ năm 13 tuổi. Đã làm được gần một nghìn bài. Được giải khuyến khích về thơ Tự lực văn đoàn năm 1937.
Đã đăng thơ: Ngày nay, Tiểu thuyết thứ năm, Nam cường.
Đã xuất bản: Lỡ bước sang ngang, Tâm hồn tôi (Lê Cường, Hà Nội 1940), Hương cố nhân (Á Châu, Hà Nội 1941).
Ở mỗi chúng ta đều có một người nhà quê. Cái nghề làm ruộng và cuộc đời bình dị của người làm ruộng cha truyền con nối từ mấy nghìn năm đã ăn sâu vào tâm trí chúng ta. Nhưng khôn hay dại- chúng ta ngày một lìa xa nền nếp cũ để hòng đi tới chỗ mà ta gọi là văn minh. Dầu sao, những tính tình tư tưởng ta hấp thụ ở học đường cám dỗ ta, những cái phiền phức của cuộc đời mới lôi cuốn ta, nên ở mỗi chúng ta người nhà quê kia vốn khiêm tốn và hiền lành ít có dịp xuất đầu lộ diện. Đến nỗi có lúc ta tưởng chàng đã chết rồi. Ở Nguyễn Bính thì không thế. Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường. Tôi muốn nói Nguyễn Bính vẫn còn giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm. Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau, bụi chuối là hoàn toàn cảnh tự nhiên của ta và những tính tình đơn giản của dân quê là những tình cảm căn bản của ta. Giá Nguyễn Bính sinh ra thời trước, tôi chắc người đã làm những âu ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm và những tác phẩm của người, bây giờ đã có vô sỗ những nhà thông thái nghiên cứu. Họ chẳng ngớt lời khen những câu như:
Nhà em có một giàn bầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
hay:
Lòng anh: giếng ngọt trong veo
Giăng thu trong vắt biển chiều trong xanh
Lòng em như bụi kinh thành,
Đa đoan vó ngựa chung tình bánh xe.
Tiếc thay Nguyễn Bính lại không phải là người thời xưa! Cái đẹp kín đáo của những vần thơ Nguyễn Bính tuy cảm được một số đông công chúng mộc mạc, khó lọt vào con mắt các nhà thông thái thời nay. Tình cờ có đọc thơ Nguyễn Bính họ sẽ bảo: “Thơ như thế nàythì có gì?”. Họ có ngờ đâu đã bỏ rơi một điều mà người ta không thể hiểu được bằng lý trí, một điều quý vô ngần: hồn xưa của đất nước.
Kể, một phần cũng là lỗi thi nhân. Ai bảo người không nhà quê hẳn? Người đã biết trách người gái quê:
Hoa chanh nở ở vườn chanh,
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về,
Hương đồng, gió nội bay đi ít nhiều.
Thế mà chính người cũng đã “đi tỉnh” nhiều lắm. Dấu thị thành chẳng những người mang trên quần áo, nó còn in vào tận trong hồn. Khi người than:
Đời có gì tươi đẹp nữa,
Buồn thì đến khóc, chết thì chôn.
Khi người tả cảnh xuân:
Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong.
ta thấy người không còn gì quê mùa nữa.
Thế thì những câu trên này nên bỏ đi ư? Ai nỡ thế. Nhưng có những câu ấy mà người ta khó nhận thấy cái đặc sắc của Nguyễn Bính, chỗ Nguyễn Bính thì hơn các nhà thơ khác, ít được người ta nhìn thấy, Đó là một điều đáng vì Nguyễn Bính phàn nàn. Đáng trách chăng là giữa những bài giống hệt ca dao người bỗng chen vào một đôi lời quá mới. Ta thấy khó chịu như khi vào một ngôi chùa có những ngọn đèn điện trên bàn thờ. Cái lối gặp gỡ ấy của hai thời đại rất dễ trở nên lố lăng.
Tháng 8-1941
38. Vũ Hoàng Chương
Sinh ngày 5-5-1916 ở Nam Định. Có bằng tú tài Tây. Đã theo học trường Luật, nhưng lại bỏ để làm Phó thanh tra Sở Hoả xa miền Bắc hơn một năm. Dạy tư một độ, hiện giờ theo học ban cử nhân toán học.
Đã xuất bản: Thơ say (1940).
Ý giả Vũ Hoàng Chương địng nối cái nghiệp những thi hào xưa của Đông Á: cái nghiệp say. Người say đủ thứ: say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn “hơn” cổ nhân những thứ say mới nhập cảng: say thuốc phiện, say nhẩy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: say thơ. Vũ Hoàng Chương có cái dụng ý muốn say để làm thơ. Cái dụng ý ấy không khỏi có hại. Nhưng một lần kia, bước chân vào tiệm nhảy, người quên dụng ý làm thơ ngoài cửa và lần ấy người đã làm một bài thơ tuyệt hay.
Tôi yêu những vần thơ chếnh choáng, lảo đảo mà nhịp nhàng theo điệu kèn khiêu vũ…
Âm ba gợn gợn nhỏ,
Ánh sáng phai phai dần…
Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân.
Lui đôi vai, tiến đôi chân,
Riết đôi tay, ngả đôi thân,
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió…
Quả là những vần thơ say.
Cái dụng ý làm thơ Vũ Hoàng Chương cũng còn bỏ quên lần nữa.
Kể, cái say sưa của Vũ Hoàng Chương là một thứ say sưa chừng mực, say sưa mà không hẳn là trụy lạc, mặc dầu từ say sưa đến trụy lạc đường chẳng còn dài chi. Nhưng trụy lạc hay say sưa đều mang theo một niềm ngao ngán. Niềm ngao ngán ấy ta vốn đã gặp trong thơ xưa. Duy ở đây nó có cái vị chua chát, hằn học và bi đát riêng.
Mỗi lần nói đến hôn nhân, Vũ Hoàng Chương có giọng khinh bỉ vô cùng. Người thấy hôn nhân chỉ là sự chung chạ của xác thịt, một sưh bẩn thỉu đã làm dơ dáy bao mộng đẹp của tuổi hoa niên:
Hai xác thịt lẫn vào nhau mê mải,
Chút ngây thơ còn lại cũng vừa chôn.
Khi tỉnh dậy bùn nhơ nơi Hạ giới
Đã dâng lên ngập quá nửa linh hồn.
Khốn nỗi! Thoát ly được hôn nhân cùng mọi trói buộc khác, nào người có tìm được hạnh phúc, người chỉ thấy bơ vơ:
Mênh mông đâu đó ngoài vô tận
Một cánh thuyền say lạc hướng đêm.
Con thuyền say kia chính là linh hồn và cuộc đời của thi nhân. Rút lại, hy vọng cao nhất của người là quên. Quên hết thảy những thứ lợm giọng của khách làng chơi:
Hãy buông lại gần đây làn tóc rối,
Sát gần đây, gần nữa, cặp môi điên,
Rồi em sẽ dìu anh trên cánh khói,
Đưa hồn say về tận cuối trời Quên.
Tháng 9-1941
39. Mộng Huyền
(1) Sinh ở Huế năm 1919. Hiện học ban thành tú tài ở Hà Nội.
Đã đăng thơ: Tràng An, Sông Hương.
Bài thơ trích sau rút trong tập Rung động chưa xuất bản.
Thơ Mộng Huyền có đôi ba bài đã đến với tôi như một hơi gió hiền hoà. Tôi nghĩ đến hơi gió ngàn năm vẫn đìu hiu trên sông Hương.
Trong lời thơ hiu hắt một linh hồn yểu điệu và buồn buồn, hay thương người mà cũng rất dễ thương. Nó không tràn ngập, không lấn áp hồn ta. Nó chỉ nhẹ nhàng, chỉ âm thầm và e lệ. Ta đừng nói to, đừng bước nặng, hãy lắng hồn ta lại để đón lấy hồn người.
Ngày nọ, thi nhân về thăm nhà một cô thôn nữ sớm từ trần. Người lẳng lặng đi qua, bước rất nhẹ nhàng vì:
Sợ làm kinh động sầu xưa cũ
Ẩn nấp mình trong bụi cỏ vàng.
Ta hãy theo gương ấy và chớ làm kinh động chút hồn thơ đang nương mình trong bụi cỏ lời thơ.
Tháng 7-1941
Chú thích
(1) Thi sĩ yêu cầu chúng tôi đừng để tên thật của người.
40. Nguyễn Đình Thư
Sinh ngày 1-2-1917 ở làng Phước Yên, huyện Quảng Điền (Thừ Thiên). Nhà rất nghèo, nhờ bà ngoại nuôi đến lớn, nên đặt tên Thư, lấy ý rằng đời xưa Ô. Ngụy Thư khôn lớn nhờ bên ngoại.
Học trường Queignec, trường Quốc học Huế. Có bằng thành chung. Hiện làm thư ký Kho bạc Huế.
Khách yêu thơ gặp được một bài thơ hay là một cái thú. Nếu bài thơ lại chưa từng in lên mặt giấy cho hàng vạn người xem thì cái thú lại gấp hai. Thơ in ra rồi hình như có mất đi một tí gì, có lẽ là ít hương trinh tiết.
Tôi đã được nếm cái thú thanh thiết ấy trong khi xem thơ Nguyễn Đình Thư.
Đây không phải là một nguồn thơ tân kỳ. Xem xong ta có thể nghĩ đến thơ người ày, người khác. Mặc dầu, lần thứ nhất tôi đọc những vần thơ ấy, nó cứ lưu luyến hoài trong tâm trí như tiếng nói một người bạn tuy mới quen mà vẫn thân yêu từ bao giờ.
Thơ Nguyễn Đình Thư không nói chuyện gì lạ: một chút tình thoảng qua, một đêm trăng lạnh, vài con bướm vẽ vành, một buổi chia ly, nỗi lòng người bị tình phụ, đi lại chỉ những buồn thương, những vui sướng rất quen. Nhưng buồn ở đây là một mối buồn âm thầm, lặng lẽ, thấm thía vô cùng, cái buồn không nước mắt, cái buồn của điệu Nam Bình trên sông Hương. Lòng thi nhân như một nguồn sầu vô hạn rưới khắp cảnh vật, bao phủ cả vừng trăng khuya:
Không biết hôm nay trăng nhớ ai
Mà buồn đưa lạnh suốt đêm dài?
Trông chừng quạnh quẽ mênh mông quá
Như trải u hoài muôn dặm khơi.
Buồn cho đến những khi đang vui, những khi yêu và được yêu, cũng buồn. Bài thơ thành ra lời của thi nhân thì thầm một mình: người xem hình như cũng cần phải ngâm rất to. Đọc to lên nghe sỗ sàng thế nào như nghe những bài ca Huế phổ vào cái âm nhạc ầm ỹ của đôi bàn máy hát.
Nhưng thi nhân dễ buồn thì cũng dễ vui. Một chút nắng mới báo tin xuân cũng đủ khiến người vui. Cái vui của Nguyễn Đình Thư có vẻ kín đáo, nhưng không miễn cưỡng, không gượng gạo. Người vui hồn nhiên, cái vui của cây cỏ.
Về điệu thơ thì có đến bốn năm lối. Riêng trong lối lục bát thỉnh thoảng ta lại gặp những câu phảng phất giọng Kiều hay giọng ca dao lẫn với một tí phong vị mới. Chẳng hạn như những câu:
Một thương là sự đã liều
Thì theo cho đến xế chiều chứ sao!
Sa buồn mây nối đồi thông,
Khói cao nghi ngút đôi vùng giang tân.
Có khi lại xen vào một hai tiếng của đàng trong nghe cũng hay:
Cách vời trước biết bèo mây
Chung đôi xưa “nỏ” sum vầy làm chi.
Nhất là chữ “thương” một chũ đầu miệng của người Huế, thi nhân dùng đến luôn và dùng khi nào cũng có duyên (trên kia ta đã thấy một lần):
Mấy bữa trông trời bớt nhớ thương,
Chim say nắng mới hót inh vườn.
Gió xao trăng động hương cành,
Trông ra mấy dặm liều thành thương thương.
Mở lòng đón phong trào mới, điều ấy đã đành, nhưng cũng chớ quên tìm đến nguồn thiên nhiên của nòi giống. Nguyễn Đình Thư đã có ý ấy. Ít nhiều hồn xưa đã ngưng lại trong thơ Nguyễn Đình Thư.
Tháng 1-1941
41. T. T. Kh
Hồi tháng 9-1937, Tiểu thuyết thứ bảy đăng một chuyện ngắn của Ô. Thanh Châu: “Hoa ti gôn”. Ít ngày sau, toà soạn nhận được một bài thơ nhan đề ” Bài thơ thứ nhất”, rồi lại nhận được một bài thơ nữa: “Hai sắc hoa ti gôn”. Hai bài đều ký tên T. T. Kh, và đều nét chữ run run. Từ đấy toà soạn Tiểu thuyết thứ bảy không nhận được bài nào nữa và cũng không biết T. T. Kh ở đâu.
Nhưng sau khi bài thơ kia đăng rồi, xóm nhà văn bỗng xôn xao. Có đến mấy người nhất quyết T. T. Kh chính là người yêu của mình. Và người ta phê bình rất náo nhiệt. Có kẻ không ngần ngại cho hai bài ấy là những áng thơ kiệt tác.
Nói thế đã đành quá lời, nhưng trong hai bài ấy cũng có những câu thơ xứng với vẻ lâm ly của câu chuyện. Cô bé T. T. Kh yêu. Người yêu của cô có nét mặt rầu rầu và có lẽ đã đọc nhiều văn Từ Trẩm Á. Cô bé kể: Những buổi chiều thu, đứng dưới giàn hoa ti gôn.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc tôi vui;
Bảo rằng: “Hoa giống như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!”
Cô bé ngây thơ không tin. Ai ngờ lời nói văn hoa kia bỗng thành sự thực. Chàng đi…
Ở lại vườn Thanh có một mình,
Tôi yêu gió lạnh lúc tàn canh,
Yêu trăng lạnh lẽo rơi trên áo,
Yêu bóng chim xa, nắng lướt mành
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa. lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác!
– Gió hỡi, làm sao lạnh rất nhiều?
Ngày ấy là ngày buồn nhất trong đời nàng:
Người xa xăm quá – Tôi buồn quá
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường.
Từ đó mùa thu qua, rồi thu qua. Nàng vẫn luôn luôn tưởng nhớ, nhưng tin buồn chàng nào có hay; cho nên nàng tự hỏi:
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Một nỗi đau đớn trần truồng, không ẩn sau Liễu Chương Đài như nỗi đau đớn của nàng Kiều ngày trước (1).
Cho đến hôm nay, xem chuyện, tình cờ lại thấy cảnh hoa xưa. Nàng không sao cầm lòng được:
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ, khóc chút duyên!
Bốn năm đã qua từ ngày tờ báo vô tình hé mở cho ta một cõi lòng. Ai biết ” con người vườn Thanh” bây giờ ra thế nào? Liệu rồi đây người có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về chín suối?
Tháng 11-1941
————————–
(1) Khi về hỏi Liễu Chương Đài.
Cành xuân đã bẻ cho người chuyền tay!
42. Trần Huyền Trân
(1) Sinh ngày 13 tháng 9- 1913 ở Hà Nội. Tự học ở Hà Nội.
Hiện viết giúp: Tiểu thuyết thứ bảy, Truyền bá, Phổ thông bán nguyệt san.
Viết đến đây tôi định khép cửa lại, dầu có thiên tài gõ cửa cũng không mở. Thế mà lại phải mở cửa để đón một nhà thơ nữa: Trần Huyền Trân. Trần Huyền Trân, con người có tên lạ ấy không phải là một thiên tài. Nhưng tôi ưa những vần thơ hiền lành và ít nói yêu đương.
Cũng có lần thi nhân tỏ tình tương tư:
Xa nhau gió ít lạnh nhiều,
Lửa khuya tàn chậm, mưa đổ nhanh.
Nhưng thường thì Huyền Trân tìm thi hứng, hoặc trong những cảnh đời buồn bã như cảnh đời cùng của thi sĩ Tản Đà:
Có đàn con trẻ nheo nheo,
Có dăm món nợ eo sèo bên tai.
Nhện dăng già bút một vài đường tơ.
Ngiên son lớp lớp bụi mờ,
Một ôn tờ lại từng tờ cổ thi.
hoặc trong cảnh đồng quê:
Mặt trời say rượu tắm ven đông
Nước thẹn bâng khuâng ửng má hồng.
Bầy sẻ đâu về cười khúc khích
Rủ nhau lúa chín trộm vài bông.
Đồng quê của Huyền Trân đã mất hết vẻ quê mùa. Nó làm duyên dáng như một cô gái thành thị.
Huyền Trân ưa nhất là nói tình mẹ con.
Người gợi cái hình ảnh Phạm Ngũ lão sau khi dẹp giặc Nguyên. Đêm ấy khao quân vừa tan. Ai nấy đều yên ngủ. Cho chiến mã cũng:
Đuôi mừng phủi sạch bụi binh đao.
Giữa lúc ấy Phạm Ngũ Lão một mình ngồi trong trướng lòng băn khoăn nhớ mẹ:
Binh thư ngừng giở, bào quên cởi.
Đèn nhớ mong ai bấc lụi dần.
Thế rồi tướng quân quất ngựa tìm về chốn
Nằm ôm gốc gạo lều dăm mái
Cánh liếp che sương hé đợi chờ.
Than ôi! Tướng quân về tới nơi thì mẹ già không còn nữa.
Thơ Huyền Trân không xuất sắc lắm. Nhưng sau khi đọc hoài những câu rặt anh anh em em, tôi đã tìm thấy ở đây cái thú của người đi đổi gió.
Tháng 11-1941
—————————
(1)- Thi sĩ xin giấu tên thật.
Xem thêm văn bản ❤️️Lời Kêu Gọi Toàn Quốc Kháng Chiến ❤️️ Nội Dung, Phân Tích
Những Cảm Nhận Về Cuốn Sách Thi Nhân Việt Nam Hay Nhất
Đọc ngay những cảm nhận về cuốn sách Thi nhân Việt Nam hay nhất sau đây để hiểu hơn về ý nghĩa của nó.
Cảm Nhận Về Cuốn Sách Thi Nhân Việt Nam Hay – Mẫu 1
Tác phẩm Thi nhân Việt Nam như một cuốn bách khoa toàn thư nên nền thơ mới. Bạn có thể tìm thấy tất cả những tác phẩm đặc sắc nhất của nhiều tác giả.
Cuốn sách nói về 44 nhà thơ của phong trào thơ mới và thi nhân Tản Đà ở “ghế danh dự”: Thế Lữ, Vũ Đình Liên,Lan Sơn,Thanh Tịnh, Thúc Tề, Huy Thông, Nguyễn Vỹ, Đoàn Phú Tứ, Xuân Diệu, Huy Cận, Yến Lan, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Nguyễn Bính …
Những bài thơ được chọn lọc tinh tế, sắc xảo, thể hiện được cá tính, cái tôi, khắc hoạ được chân dung của tác giác lúc bấy giờ. Ngoài việc ghi nhận những bài thơ trong phong trào Thơ mới, tác phẩm còn tóm tắt tiểu sử, cuộc đời, tình cảm, quan niệm, chân lý sống của từng nhà thơ .
Ngoài ra tác giả Hoài Thanh – Hoài Chân còn đưa ra những nhận xét, phân tích về những nhà thơ vô cùng mộc mạc nhưng sâu sắc. Tác phẩm là nguồn tư liệu dồi dào, phong phú. Các bạn học sinh sinh viên có thể tra cứu nhanh chóng. Những bài thơ được sắp xếp theo tên tác giả, rất dễ tìm đọc.
Ngoài những nhận xét rất tế nhị và đắt giá về từng nhà thơ được đưa vào hợp tuyển và về những bài thơ của phong trào thơ mới, cuốn sách còn được coi như là một nguồn tư liệu khá đầy đủ về phong trào thơ mới với bài luận đầu sách: “Một thời đại trong thi ca”.
Một thời đại trong thi ca đề cập đến nhiều vấn đề bao gồm: Nguồn gốc thơ mới (không chỉ tìm nguồn gốc thơ mới từ sự tiếp xúc với phương Tây, mà trước hết phải tìm nó từ đời sống tinh thần xã hội Việt Nam đương thời); cuộc tranh luận thơ mới-thơ cũ; vài nét về con đường phát triển 10 năm của thơ mới; đặc điểm về hình thức và thể loại; triển vọng trước mắt của thơ mới;
Tinh thần cốt lõi của thơ mới; tấn bi kịch của cái “tôi” (đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi, mất bề rộng ra đi tìm bề sâu, nhưng càng đi sâu càng thấy lạnh); sự bế tắc sau 10 năm phát triển của thơ mới (với sự xuất hiện của các khuynh hướng thơ bí hiểm như thơ Bích Khê, Nguyễn Xuân Sanh v.v.), đồng thời gợi ý cho các nhà thơ về nỗ lực vượt thoát khỏi sự bế tắc (trở về cội nguồn dân tộc, tìm đến di sản tinh thần của cha ông, nhất là ca dao).
Ngoài giá trị nội dung, Thi nhân Việt Nam còn được đánh giá là có một giá trị nghệ thuật rất cao. Giọng văn xuôi của Hoài Thanh và Hoài Chân trong cuốn này gần như giọng tâm tình, âm điệu nhẹ nhàng và câu từ duyên dáng, đôi khi cũng rất dí dỏm. Điều dễ nhận thấy khi đọc tác phẩm là tác giả luôn điều hòa, không quá khắt khe với những bài thơ dở cũng như không quá ca ngợi những bài thơ hay.
Bên cạnh một số điểm nổi bật, tác giả Thi nhân Việt Nam cũng còn đôi chỗ đi hơi xa khi cho rằng “cứ đi sâu vào hồn một người ta sẽ gặp hồn chung của loài người”, đồng thời cũng không thật thỏa đáng khi coi thơ mới là toàn bộ nền thơ Việt Nam khi đó (mà bỏ qua những tác giả khác đương thời như Tú Mỡ, Đỗ Phồn v.v.; hoặc dòng thơ cách mạng).
Song nhìn tổng thể, Thi nhân Việt Nam là công trình biên khảo có giá trị tin cậy cao về phong trào Thơ mới, cả về ba mặt: nghiên cứu, phê bình và tuyển thơ. Cuốn sách ra đời sau khi hành trình thơ mới đã đi được 10 năm và vẫn còn tiếp tục chặng đường, nhưng vẫn có ý nghĩa của một công trình tổng kết cả phong trào.
Thi Nhân Việt Nam là một tác phẩm giá trị đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam. Đây là cuốn sách giúp ích rất lớn cho học sinh sinh viên trong quá trình tìm hiểu lịch sử văn học cũng như những nét hay nét đẹp trong thơ văn Việt Nam. Tác phẩm đã được công chúng đón nhận và khẳng định được tầm quan trọng, giá trị của mình.
Ngoài những giá trị về nội dung, Thi Nhân Việt Nam còn đem lại nguồn cảm hứng cho những bạn trẻ yêu văn học, thơ ca. Bạn có thể tìm mua sách ở bất kì nhà sách nào. Nếu là một người yêu văn thơ thì đây là một cuốn sách không thể bỏ qua.
Cảm Nhận Về Cuốn Sách Thi Nhân Việt Nam Chọn Lọc – Mẫu 2
Thơ – những âm vần và nhịp điệu dễ nhớ, giản dị mà lại sâu sắc. Tôi thích thơ, nó mang lại cho tôi cảm giác như đang lạc vào một khoảng không gian cùng với tác giả. Trong không gian ấy tôi cảm nhận được cả niềm vui, nỗi buồn và cả sự tiếc nuối mà tác giả mang đến trong tác phẩm.
Một bài thơ có thể ngắn có thể dài, nhưng nó lại chứa đựng cả một tư tưởng lớn bao trùm cả một thời đại. Vì chính lẽ đó, tôi đã đến thư viện trường rất thuờng xuyên để tìm đến những bài thơ hay và tình cờ tôi đã thấy được cuốn sách “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh – Hoài Chân, trong đó có các tác giả mà tôi yêu thích cùng với các bài thơ của họ. Và như một lẽ tất nhiên, tôi đã mượn nó để thỏa mãn sự hiếu kỳ của mình.
Mở đầu của cuốn sách là một bài phê bình về “Một thời đại trong thi ca”. Tôi đã rất ngỡ ngàng vì có những thứ chưa tiếp xúc và chưa biết. Vì vậy, tôi đã định bỏ nó lại, nhưng Sapphire đã viết : “Tác giả gửi đi những thông điệp và việc của người đọc là giải mã những thông điệp đó một cách thấu đáo nhất có thể”. Quyết tâm của tôi lại nổi lên, tôi mở sách ra và ngồi đọc, tìm tòi tỉ mỉ những thông tin chưa biết. Quả thật, quyển sách đã đem đến cho tôi rất nhiều sự ngạc nhiên.
Thi nhân Việt Nam” là cuốn sách phê bình về phong trào thơ mới Việt Nam, do hai anh em nhà văn Hoài Thanh và Hoài Chân biên soạn. Đây là một hợp tuyển thơ đầu tiên của thời kỳ thơ mới – những bài thơ lãng mãn chịu ảnh hưởng của nền văn hóa phương tây, ghi nhận lại những tên tuổi nhà thơ và những bài thơ giá trị trong khoảng 1932–1941.
Cuốn sách bình luận theo phương pháp chủ quan, được nhiều nhà văn đánh giá rất cao về giọng bình và trình độ cảm nhận của tác giả. Cuốn sách đã tập hợp được rất nhiều tác giả mà tôi yêu thích cũng như các thi nhân ưu tú nhất của thời kỳ này. Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mạc Tử,…Tổng cộng có tất cả 44 nhà thơ và Tản Đà – nhà thơ giao thoa giữa hai thời đại cũ và mới được ở “ghế danh dự”.
Tác giả đã viết “Thi nhân Việt Nam” một cách rất tỉ mỉ và chân thành. Đây là một tài liệu tốt để rèn luyện kĩ năng lí luận văn học. Cuốn sách sẽ đem lại cho bạn những kiến thức phong phú.
Chẳng hạn như ông đã nói rằng không thể lấy độ dài để định giá một bài thơ; nêu cách nhận diện thơ mới sao cho đúng đắn, là phải “sánh bài hay với bài hay”, bởi lẽ “cái tầm thường, cái lố lăng chẳng phải của riêng một thời nào”. Đồng thời ông cũng nói lên hai thời đại bao gồm trong cái ta chung và cái tôi riêng, tấn bi kịch của các nhà thơ mới, gợi ý cho họ lối thoát bằng tình yêu tiếng Việt.
Có một câu văn đặc biệt được trích dẫn ở nhiều tư liệu: “Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ.
Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Câu văn này thật sự rất hay, nó như một sự tổng kết cho một thời đại rực rỡ huy hoàng của thơ ca. Và nó cũng được rất nhiều thế hệ sau nhớ đến để mang theo suốt chặng đường đời của mình. Hoài Thanh, Hoài Chân đã làm rung động cả một thế hệ theo sau như vậy.
“Thi nhân Việt Nam” cũng đã trải qua một thời thăng trầm. Khi nó mới được xuất bản, người ta phủ nhận nó vì nó dám khen cái thứ “thơ buồn”. Nhưng điều càng bất ngờ hơn chính là Hoài Thanh cũng không ít hơn một lần chối bỏ nó. Có lẽ vì nó không hợp thời hợp thế chăng?
Một cuốn sách tổng kết lại cả một giai đoạn thơ ca khi mới xuất hiện bị người ta phủ định, thì dần dà về sau, khi nhìn lại những tác phẩm ấy, ta mới hiểu rõ, mới sâu sắc cảm nhận được sự đánh giá, phê bình của tác giả dành cho một quãng thời gian đổi mới. Cuốn sách dù đã được trả về đúng vị trí, giá trị của nó nhưng thật đáng tiếc, Hoài Thanh đã mất, và cũng đem theo một nỗi niềm u uẩn.
“Thi nhân Việt Nam” là một cuốn sách rất hay. Nó phù hợp với những người yêu thơ ca. Nó cũng phù hợp với những ai muốn tìm nguồn tư liệu để tích lũy kiến thức, nâng cao khả năng lí luận văn học. Cuốn sách không phải cứ đọc ngày một ngày hai là xong, mà trong từng câu chữ, ta phải ngẫm đi ngẫm lại rất nhiều lần để hiểu được ý nghĩa của nó. Tin tôi đi, thời gian của bạn sẽ không lãng phí nếu bạn dùng để đọc và ngẫm cuốn sách này.
Đọc xong sách, tôi cảm nhận sâu sắc rằng Hoài Thanh không hổ danh là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của Văn học Việt Nam hiện đại. “Thi nhân Việt Nam” chính là cuốn sách hay nhất viết về Thơ mới, và cũng là một trong những cuốn sách hay nhất của phê bình văn học Việt Nam.
Đọc và tìm hiểu ❤️️Bài Thơ Lịch Sử Nước Ta [Hồ Chí Minh]❤️️ Bên Cạnh Đọc Tác Phẩm Thi Nhân Việt Nam