Đường Kách Mệnh ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Giá trị, Phân Tích ✅ Tìm Hiểu Ý Nghĩa, Bố Cục, Hoàn Cảnh Sáng Tác, Gợi ý Đọc Hiểu Chi Tiết.
NỘI DUNG CHÍNH
Cách Mệnh Là Gì
Cách mệnh là gì? Cách mệnh hay còn được gọi là cách mạng, ý nghĩa của từ này đã được Bác giải thích trong chương đầu của “Đường Kách mệnh”:
Ngay tại chương đầu của “Đường Kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra một định nghĩa mới – chưa hề có trong các từ điển bách khoa: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi cái tốt: Thí dụ ông Galilê (1633) là khoa học cách mệnh…, ông Stephenxoong (1800) làm ra xe lửa là cơ khí cách mệnh… ông Đácuyn (1859) là cách mệnh… ông Các Mác là kinh tế học cách mệnh”.
Định nghĩa “cách mệnh” trong “Đường cách mệnh” 80 năm trước đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị về lý luận cũng như về thực tiễn.
Đón đọc thêm 🔰Sửa Đổi Lối Làm Việc 1947🔰 Nội Dung Tác Phẩm, Ý Nghĩa, Liên Hệ
Nội Dung Tác Phẩm Đường Kách Mệnh
Đường Kách mệnh (hay Đường Cách mệnh, cũng có thể hiểu là Đường Cách mạng) là tác phẩm ghi lại những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu do Bộ tuyên truyền của “Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông” phát hành vào đầu năm 1927.
Nội dung cơ bản của tác phẩm Đường Kách mệnh:
1 Khái niệm “cách mệnh”
“Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi cái tốt”
“Thí dụ ông Galilê (1633) là khoa học cách mệnh…, ông Stephenxoong (1800) làm ra xe lửa là cơ khí cách mệnh… ông Đácuyn (1859) là cách mệnh… ông Các Mác là kinh tế học cách mệnh” (1).
2. Tư cách một người cách mệnh
Trong tác phẩm, Người đã nêu lên 23 điểm thuộc “tư cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong 3 mối quan hệ cơ bản nhất của con người: quan hệ với mình, quan hệ với mọi người và quan hệ với công việc. Người viết: “Tự mình phải: Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng tham muốn về vật chất. Bí mật. Đối người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người. Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể”(2).
2.1. Tự mình phải:
– Cần, kiệm
+ Cần là sự lao động cần cù sáng tạo, có tổ chức, có kỷ luật, có kỹ thuật, có kế hoạch, có năng suất, chất lượng cao. Những thói hư, tật xấu lười lao động, ăn bám, ăn cắp, làm láo báo cáo hay vô tổ chức, vô kỷ luật là không phù hợp với đạo đức phẩm chất cách mạng. Bác Hồ rất ghét kẻ đạo đức giả, nói mà không làm, nói một đường làm một nẻo. Người cho rằng kẻ đó làm giảm đi lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Cần phải đi đối với chuyên. Nếu không chuyên thì cũng vô ích. Cần không phải là xổi. Phải biết nuôi dưỡng sức khỏe, tinh thần và lực lượng để làm việc lâu dài. Một người lười biếng sẽ làm chậm và ảnh hưởng đến công việc của rất nhiều người khác. Cần là nâng cao năng suất lao động.
Khi nói với công nhân, những người trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội, thì Bác nhắc: “Phải nâng cao kỷ luật lao động. Tình trạng muốn làm thì làm, không muốn làm thì thôi, nghỉ sớm, không ốm cũng cáo ốm để nghỉ, đều là thiếu kỷ luật lao động. Bộ đội không có kỷ luật, đánh giặc nhất định thua; nhà máy không có kỷ luật lao động, không phải là nhà máy tốt. Kỷ luật lao động không phải Bác đưa ra hay ở đâu đưa đến, mà chính là các cô, các chú bàn bạc, thông qua, tự giác thi hành. Thông qua rồi, ai không theo không được”.
+ Kiệm là “tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, đó là tiết kiệm sức lao động, thời giờ, tiền của của dân, của nước, của bản thân từ cái nhỏ, đến cái lớn. Bởi vì, của cải nếu hết còn có thể làm ra được, còn thời gian đã qua đi, không bao giờ quay trở lại. Muốn tiết kiệm thời gian, bất kỳ việc gì, nghề gì cũng phải chăm chỉ, làm nhanh. Không nên ngồi lê, nói chuyện phiếm, làm mất thời giờ của người khác. Theo Bác tiết kiệm không phải là “bủn xỉn”, “tiết kiệm là quốc sách”. “Cần” với “kiệm” đi đối với nhau như hai chân của một người. “Cần” mà không “kiệm” “thì làm chừng nào xào chừng ấy”, cũng như một cái thùng không đáy, nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không. Kiệm mà không cần, thì không tăng thêm, không phát triển được.
– Hòa mà không tư
Có nghĩa là đoàn kết với mọi người vì sự nghiệp chung, không vì một lợi ích riêng tư nào. Nói như vậy không có nghĩa là không quan tâm đến lợi ích riêng, bởi vì Bác Hồ quan niệm trong lợi ích chung có lợi ích riêng của mỗi người. “Hòa mà không tư” gần với mệnh đề Nho giáo “thân với mọi người mà không kết đảng, hòa hợp với mọi người mà không a dua” song được Người nâng lên ở tầm cao mới, đó là hướng sức mạnh đại đoàn kết, hướng hành động đoàn kết với mọi người vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng nước nhà giàu mạnh. Sự nghiệp chung mà có lúc Người gọi là nghĩa lớn đó là độc lập cho Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Người coi đó là mục đích cao cả của sự đoàn kết và theo Người thì mục đích có đồng thì chí mới đồng, chí có đồng tâm mới đồng, tâm đã đồng thì làm mới chóng. Chỉ có hướng sự đoàn kết vì đại nghĩa mới tập hợp được đông đảo nhất quần chúng nhân dân. Chí đồng, tâm đồng chính là hai điều kiện bảo đảm cho sự đoàn kết chặt chẽ.
– Cả quyết sửa lỗi mình
Mục đích của việc cả quyết sửa lỗi thì theo Bác Hồ là cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ, cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn; mỗi cán bộ, đảng viên hằng ngày phải kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt, được như thế trong Ðảng sẽ không có bệnh và Ðảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng. Bác dạy “Muốn đoàn kết chặt chẽ là phải thật thà tự phê bình, thành khẩn phê bình đồng chí và những người xung quanh, phê bình, tự phê bình để cùng nhau tiến bộ, để đi đến càng đoàn kết. Ðoàn kết, phê bình, tự phê bình thật thà để đi đến đoàn kết hơn nữa”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh yếu tố năng động chủ quan ở mỗi người, đến sức mạnh của lý tưởng, của ý chí, của tu dưỡng đạo đức cách mạng. Người nói: “Muốn làm cách mạng phải cải cách tính nết mình trước tiên”. Hồ Chí Minh nhắc lại câu của Khổng Tử: “Mình phải chính tâm tu thân” nghĩa là việc gì cũng phải làm kiểu mẫu; có thế mới “trị quốc bình thiên hạ” được… Muốn cải tạo xã hội thì lòng mình phải cải tạo. Nếu lòng mình không cải tạo thì đừng nói đến cải tạo xã hội. Lòng mình còn tham ô, lãng phí, muốn cải tạo xã hội làm sao được”.
Trong tác phẩm “Tự chỉ trích” của đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, đã nêu rõ trách nhiệm của đảng viên trong việc phê bình, tự phê bình: “Mỗi đảng viên có quyền tự do thảo luận, tự do chỉ trích miễn là sự thảo luận luôn theo tinh thần bôn-sê-vích, không làm giảm uy tín của Đảng”, “phải đứng về lợi ích công cuộc của dân chúng mà chỉ trích những khuyết điểm, những chỗ lừng chừng, hoặc hèn nhát mà đẩy phong trào phát triển rộng rãi hơn”, “chớ không đặt cá nhân mình lên trên Đảng, đem những ý kiến riêng, cho dù đúng, đối chọi với Đảng, gieo mối hoài nghi, lộn xộn trong quần chúng, gây mầm bè phái, chia rẽ trong hàng ngũ Đảng. “Tự chỉ trích”, khẳng định: “Công khai, mạnh dạn, thành thực vạch ra lỗi lầm của mình và tìm phương pháp sửa chữa, chống những xu hướng hoạt đầu, thỏa hiệp, như thế không làm yếu Đảng mà làm cho Đảng được thống nhất mạnh mẽ. Làm như thế không sợ địch nhân cơ hội lợi dụng chửi rủa, vu cáo cho Đảng, không sợ “nối giáo cho giặc”. Trái lại nếu “đóng cửa bảo nhau”, giữ cái vỏ thống nhất mà bên trong là hổ lốn một cục, đầy rẫy bọn hoạt đầu, đấy mới chính là để kẻ thù chửi rủa, hơn nữa đó tỏ ra không phải là một Đảng tiên phong cách mạng mà là một Đảng hoạt đầu cải lương”. Tác phẩm còn chỉ rõ: “Kẻ địch chớ vội hý hửng tìm ở đây một sự chia rẽ hay mầm mống bè phái giữa những người cộng sản mà uổng công. Vì sau khi thảo luận rõ ràng rồi bao giờ trong hàng ngũ chúng tôi thiểu số phục tùng đa số, chỉ có một ý chí là ý chí của Đảng, nghìn người sẽ như một để chấp hành ý chí đó”.
– Cẩn thận mà không nhút nhát
Làm việc gì cũng phải suy nghĩ cẩn thận, nhưng cẩn thận ở đây không có nghĩa là quá nhút nhát, không dám đương đầu với khó khăn gian khổ đồng thời phải xem xét hoàn cảnh thực tế rồi mới hành động khi có thời cơ thuận lợi thì phải mạnh dạn, dũng cảm, quyết đoán, có như vậy thì mới đem lại kết quả.
– Hay hỏi
Người cách mệnh luôn phải tự mình đặt ra những câu hỏi cần phải làm gì và làm như thế nào, bên cạnh đó cần phải học hỏi, tiếp thu ý kiến của người khác không dấu dốt. Thể hiện tinh thần cầu thị, cầu tiến bộ của người cách mạng. Phải nỗ lực học tập mọi lúc mọi nơi, học thầy học bạn, để nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng giao cho, không dấu diếm khuyết điểm, không dấu dốt.
– Nhẫn nại
Cách mạng là sự nghiệp lớn lao và luôn diễn ra trong hoàn cảnh khó khăn vì vậy đòi hỏi người cách mệnh phải kiên trì bền bỉ chịu đựng những khó khăn trong công việc, đây là một đức tính rất quan trọng và cần thiết để giành được thắng lợi cuối cùng.
– Hay nghiên cứu xem xét
Khi làm cách mạng đòi hỏi phải xem xét, nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới. Qua đó, Hồ Chí Minh thấy rằng cuộc cách mạng tháng 10 Nga là đã thành công và thành công đến nơi nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật không phải tự do bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức ở các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới. Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải lấy dân chúng làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất.
– Vị công vong tư
Là luôn đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích của cá nhân vì lợi ích của tập thể có thể hi sinh lợi ích của bản thân. Đây là một trong những đức tính tạo nên phẩm chất cao quý của người cách mệnh.
– Không hiếu danh, không kiêu ngạo
Yêu cầu người cách mạng phải hết sức khiêm tốn, phải phục tùng sự phân công của tổ chức, không hiếu danh, hiếu vị, không lên mặt dạy đời; không coi thường cấp dưới, không nịnh nọt cấp trên, không chạy theo danh lợi cá nhân mà phải đặt lợi ích chung của tập thể, mục tiêu vì sự nghiệp cách mạng lên trên, không vì lợi ích cá nhân mà ảnh hưởng đến lợi ích của tập thể. Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè lùi bước, khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần người cách mệnh “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” lo hoàn thành nhiệm vụ tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Khi đã là người có chức quyền thì không tỏ ra kiêu ngạo, coi mình là trên hết mà coi thường quần chúng. Trong tác phẩm khi nói về cách tổ chức công hội Bác viết “người cách mệnh chớ có bỉ thử mình khéo hơn, lương cao hơn mà khinh người vụng và ăn tiền ít. Chớ cậy mình là nhiều tuổi mà muốn làm đàn anh,…”
– Nói thì phải làm
Người cán bộ, đảng viên dù ở cương vị nào cũng phải có tinh thần phụ trách, thành tâm phụ trách. Khi đã có quyết định chính xác thì phải quyết tâm thực hiện, dù khó khăn đến mấy cũng phải tìm mọi cách để cho quyết định được thực hiện. Bác thường nói: “Quyết tâm không phải ở hội trường, ở lời nói, mà phải quyết tâm trong công tác, trong hoạt động… Phải quyết tâm chiến đấu, quyết tâm chịu khổ, chịu khó, quyết tâm khắc phục khó khăn, quyết tâm chấp hành chính sách của Trung ương Đảng và Chính phủ… bất kỳ một việc lớn hay nhỏ đều phải có quyết tâm làm cho bằng được”. Khẳng định một trong ba nguyên tắc đạo đức của Người: Nói thì phải làm; xây đi cùng với chống và tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Lời nói đi đôi với việc làm, nói được làm được, sẽ mang lại những hiệu quả lớn, được nhiều người hưởng ứng và làm theo. Để làm được điều đó, khi đề ra công việc tránh cách nói chung chung, đại khái và khó hiểu, cần phải cụ thể, thiết thực, từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ dễ đến khó. Ngược lại nói nhiều làm ít hoặc nói mà không làm thì sẽ chỉ mang lại những kết quả phản tác dụng. Nếu chính mình tham ô mà bảo người khác liêm khiết thì không được. Nếu rói rằng phải cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, mà bản thân mình lại lười biếng, không hoàn thành những công việc được giao, không tiết kiệm, sống hoang phí, xa hoa trong khi cuộc sống của đại đa số nhân dân còn nhiều thiếu thốn, luôn tìm cách tham ô tiền của Nhà nước và nhân dân… thì những lời nói đó sẽ không có tác dụng giáo dục.
Để có một xã hội ngày càng tốt đẹp, nhân dân thực sự được hưởng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đất nước ngày càng mạnh giàu, hơn lúc nào hết lối sống mình vì mọi người, mọi người vì mình, phương châm và nguyên tắc sống “Nói thì phải làm” cần phải được thực hiện rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Làm đựơc như vậy là chúng ta đã làm tốt những điều mà lúc còn sống Bác Hồ luôn mong muốn và căn dặn.
– Giữ chủ nghĩa cho vững
Là phẩm chất hàng đầu, là yêu cầu cốt yếu nhất của người cách mạng. Đó là phải giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, suốt đời trung thành, kiên định với lý tưởng cách mạng. Có như vậy mới xây dựng được niềm tin vững chắc vào tương lai tươi sáng của cách mạng, không dao động trước khó khắn gian khổ, thậm chí hi sinh cả tính mạng mình.
– Hy sinh
Lý tưởng cộng sản vô cùng trong sáng, tươi đẹp. Nhưng để đi đến tương lai tươi sáng đó là cả một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ vượt qua bao khó khăn thử thách. Vì chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không bao giờ chịu từ bỏ quyền lợi của mình mà luôn tìm mọi cách, thủ đoạn nham hiểm, tàn bạo để thực hiện mưu đồ của chúng. Nên mỗi người khi bước vào hoạt động cách mạng phải xác định tinh thần sẵn sàng hi sinh cho lý tưởng cộng sản, kể cả hi sinh cả tính mạng mình.
– Ít lòng tham muốn về vật chất
Là không tham danh vị, không tham tiền. Có gan chống lại những ham muốn vinh hoa, phú quý không chính đáng. Bác rất ghét những kẻ luôn tìm cách đút túi mình tài sản của dân, bởi tham ô là thói rất xấu, rất có hại, không những phí phạm của cải của xã hội, mà còn làm vẩn đục chế độ, mất cán bộ. Tham ô là tội ác.
– Bí mật
Trong cách mạng phải đề ra đường lối, xây dựng tổ chức, trong tổ chức có sự đoàn kết thống nhất cao. Giữa tổ chức và cá nhân có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau nên người cách mệnh trong quá trình hoạt động, phải luôn tuyệt đối giữ bí mật về tài liệu công tác tổ chức
2.2. Đối với người phải:
– Với từng người phải khoan thứ
Nêu cao tình cảm cách mạng cao cả của những người cùng chí hướng, luôn khoan dung, độ lượng. Khi đồng chí mắc khuyết điểm phải góp ý chân thành với ý thức xây dựng tạo mọi điều kiện thuận lợi để đồng chí sửa chữa khuyết điểm, không dấu diếm khuyết điểm, nhưng cũng không ghen ghét, đố kị hoặc có ấn tượng xấu với người mắc khuyết điểm.
– Với đoàn thể thì nghiêm
Nêu cao ý thức tập thể, luôn đặt lợi ích tập thể lên trên hết, trước hết, cách mạng không loại trừ tự do cá nhân, nhưng yêu cầu mỗi người cách mạng phải biết đặt lợi ích cá nhân trong lợi ích tập thể. Khi được tổ chức cách mạng giao nhiệm vụ thì phải tuyệt đối phục tùng, dù phải vượt qua gian khổ hoặc phải hy sinh tính mạng.
– Có lòng bày vẽ cho người
Thể hiện lòng vị tha, những gì mình biết người khác chưa hiểu phải luôn tìm cách giúp đỡ, bày vẽ để cùng tiến bộ và hoàn thành nhiệm vụ chung. Có lòng bày vẽ cho người hoàn toàn khác với thói ích kỷ, tự cao tự đại.
– Trực mà không táo bạo
Phẩm chất thẳng thắn, trung thực, quyết đoán nhưng không vội vàng hấp tấp khi giải quyết công việc, nhất là khi góp ý cho người khác phải nghiên cứu, phải xem xét hoàn cảnh cụ thể, toàn diện, đúng mức. Tránh chủ quan, phiến diện, nóng vội dễ dẫn đến thất bại.
– Hay xem xét người
Thể hiện tinh thần tập thể cao, đồng thời phải thường xuyên quan tâm giúp đỡ, sống chan hòa, thân ái với đồng chí đồng đội luôn học hỏi lẫn nhau những điều hay, điều tốt, góp ý chân thành những thiếu sót, khuyết điểm cùng nhau sửa chữa, cùng tiến bộ
2.3. Làm việc phải:
– Xem xét hoàn cảnh kỹ càng
Trước khi thực hiện công việc phải nghiên cứu, phải đánh giá điều kiện khách quan chủ quan, thuận lợi, khó khăn, khả năng tổ chức thực hiện để có quyết định đúng đắn; tránh vội vàng, chủ quan phiến diện sẽ dẫn đến thất bại.
Trước sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp, Bác Hồ quyết định ra đi tìm đường cứu nước, Người nhận ra để được tự do cần phải lãnh đạo toàn dân đoàn kết chống giặc, để làm được điều đó phải làm cách mệnh. Vậy cách mệnh trước hết là phải làm cho dân giác ngộ, phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, dân vì không hiểu tình thế trong thế giới, không biết so sánh, không có mưu chước, chưa nên làm đã làm, khi nên làm lại không làm. Cách mệnh phải hiểu phong triều, phải bầy sách lược cho dân. Do đó để làm cách mệnh thành công phải xem xét hoàn cảnh trong và ngoài nước để từ đó tập trung lực lượng đánh giặc. Khi vừa lấy được Pari, chính quyền còn non trẻ, các thế lực phản cách mạng tìm mọi âm mưu thủ đoạn để chống phá, trong hoàn cảnh đó công xã không xem xét kĩ càng, đúng đắn, tổ chức không khéo léo đưa ra những quyết đoán sai lầm, dẫn đến việc công xã Pari tan rã.
– Quyết đoán
Thể hiện tác phong, phương pháp giải quyết công việc một cách dứt khoát. Khi đã nhận nhiệm vụ cách mạng giao cho thì phải kiên quyết tìm mọi cách thực hiện; không rụt rè, bàn lùi, thoái chí sẽ dẫn đến thất bại, việc tốt, việc hay, việc có lợi cho cách mạng thì dù nhỏ cũng kiên quyết làm; việc xấu việc sai, dù có đem lại lợi ích cho bản thân thì cũng kiên quyết tránh.
Làm cách mạng rất khó khăn và nguy hiểm, vì vậy người cách mạng phải suy xét hoàn cảnh và đưa ra quyết định phù hợp đối với cách mạng, phải quyết đoán không do dự làm lỡ mất thời cơ.
– Dũng cảm
Đức tính cao quý của người cách mạng, thắng không kiêu, bại không nản, tìm mọi cách để thực hiện nhiệm vụ được giao, dù phải vượt qua vô vàn khó khăn, gian khổ, thậm chí hy sinh cả tính mạng cũng quyết tâm hoàn thành. Trong cuộc chiến chống kẻ thù xâm lược ranh giới giữa sự sống và cái chết rất mong manh vì vậy nếu như không có lòng dũng cảm thì không thể làm cách mạng thành công.
– Phục tùng đoàn thể
Người cách mạng tham gia hoạt động trong một tổ chức đoàn thể nhất định, nên đòi hỏi phải có ý thức tập thể, tính kỷ luật cao. Khi được tổ chức, toàn thể phân công công tác thì phải tuyệt đối chấp hành; phải đặt lợi ích của đoàn thể lên trên hết, sẵn sàng hy sinh quyền lợi của cá nhân vì lợi ích của đoản thể.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách đảng viên cộng sản luôn nhấn mạnh vấn đề xây dựng ý thức tổ chức và kỷ luật, phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Bởi lẽ, sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm. Người chỉ rõ: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ có kỷ luật. Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”(4). Người đòi hỏi mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu về phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính quyền. Trong giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, người yêu cầu mọi đảng viên phải ra sức góp phần xây dựng và giữ vững sự đoàn kết nhất trí trong Đảng. Bởi lẽ, đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công. “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Do đó, tất cả cán bộ, đảng viên, dù ở cương vị khác nhau, làm công tác khác nhau, cũng đều phải đoàn kết nhất trí để làm tròn nhiệm vụ, “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng, của tập thể trước lợi ích của cá nhân. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Trong một số trường hợp cá nhân phải biết hi sinh lợi ích của bản thân vì lợi ích của tập thể.
Tóm lại: “Tư cách của một người cách mệnh” là phác thảo cơ bản, đầu tiên hoàn chỉnh về đạo đức để người cách mạng có đủ uy tín tập hợp và lãnh đạo quần chúng. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tinh thần cách mạng tiên tiến, triệt để của giai cấp công nhân và truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam đã được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh trong “Tư cách một người cách mệnh” là những yêu cầu trong công tác giáo dục, rèn luyện, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; đồng thời, là tiêu chí cơ bản trong đánh giá chất lượng đảng viên.
Quán triệt tư tưởng của Người, mỗi đảng viên dù ở bất cứ đâu, đảm nhiệm bất cứ nhiệm vụ gì trong bộ máy của Đảng, Nhà nước và đoàn thể chính trị-xã hội đều phải ra sức nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực trí tuệ, trình độ tổ chức, nhiệt tình, trách nhiệm và đạo đức của người cộng sản để đủ sức lãnh đạo quần chúng, truyền ngọn lửa nhiệt tình cách mạng cho quần chúng; đồng thời, không bao giờ được quên rằng: ý chí, bản lĩnh, tài năng chỉ có thể nảy nở và trở thành tấm gương sáng khi nó được xây dựng trên nền tảng đạo đức cách mạng.
Về Tác Giả Đường Kách Mệnh
Khái quát các thông tin quan trọng về tác giả Đường Kách Mệnh – Nguyễn Ái Quốc.
- Nhà cách mạng, nhà văn Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1890-1969), lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19.5.1890, lớn lên đổi tên là Nguyễn Tất Thành.
- Quê gốc : xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Gia đình: nhà Nho nghèo, cha là Nguyễn Sinh Sắc, mẹ là Hoàng Thị Loan.
- Trong cuộc đời hoạt động cách mạng và viết văn, làm thơ, Người lấy hai tên chính là Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh. Ngoài ra, còn có nhiều tên và bút danh khác.
- Là một người thông minh ham học hỏi và có lòng yêu nước thương dân sâu sắc, tìm ra con đường giải phóng dân tộc, lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống Pháp và Mĩ.
- Phong cách nghệ thuật:
- Thống nhất: về cả mục đích, quan điểm và nguyên tắc sáng tác.
- Đa dạng, mỗi thể loại, Nguyễn Ái Quốc lại có một cách viết khác nhau.
- Di sản văn học:
- Văn chính luận: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Tuyên ngôn độc lập (1945), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Không có gì quý hơn độc lập tự do (1966)…
- Truyện và kí: Pari (1922), Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922), Con người biết mùi hun khói (1922), Vi hành (1923), Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu (1925), Nhật kí chìm tàu (1931), Vừa đi đường vừa kể chuyện (1963)…
- Thơ ca: Nhật kí trong tù (viết trong thời gian bị giam cầm trong nhà lao Tưởng Giới Thạch từ 1942-1943), chùm thơ viết ở Việt Bắc từ 1941-1945.
=> Di sản văn học lớn lao về tầm vóc, phong phú về thể loại và đa dạng về phong cách.
👉Cập nhật thông tin đầy đủ về tác giả: Thơ Hồ Chí Minh
Đọc thêm ❤️️Lời Kêu Gọi Toàn Quốc Kháng Chiến❤️️ Nội Dung, Phân Tích
Về Tác Phẩm Đường Kách Mệnh
Về tác phẩm Đường kách mệnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, do Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông ấn hành lần đầu tiên tại Quảng Châu (Trung Quốc) năm 1927.
Tác phẩm được triển khai theo ba nội dung cơ bản sau:
- Những vấn đề lý luận cách mạng chung;
- Tổng kết các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, rút ra bài học cho cách mạng Việt Nam;
- Xác định phương pháp tổ chức và hoạt động cách mạng.
Trong cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã soạn thảo nhiều văn kiện lịch sử quan trọng, nhưng có thể khẳng định rằng Đường cách mệnh là một trong số các tác phẩm, mà những ý tưởng hàm chứa trong đó, không chỉ được thực tiễn chứng minh là đúng đắn, độc đáo, sáng tạo mà còn có sức sống mãnh liệt, có sức lay động sâu xa trái tim hàng triệu triệu người.
Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Đường Kách Mệnh
Chia sẻ cho bạn các thông tin về xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác Đường kách mệnh chi tiết:
Tác phẩm Đường cách mệnh được chuẩn bị vào những năm 1925-1926 và được xuất bản vào năm 1927. Đây là thời kỳ hoạt động đầy sôi nổi và hiệu quả của Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người tập hợp những người Việt Nam yêu nước, thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Công việc đầu tiên Nguyễn Ái Quốc làm là mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Người vừa là giảng viên chính, vừa là người tổ chức và hướng dẫn lớp học.
Thời gian từ năm 1925 đến năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức được ba lớp đào tạo với tổng số 75 học viên. Các bài giảng của Người là tài liệu chính cho học viên nghiên cứu, trao đổi.
Đầu năm 1927, các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp học tại Quảng Châu được bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông tập hợp lại và xuất bản thành sách với tên gọi Đường cách mệnh. Sách có khổ 13 x 18cm, in trên giấy nến, kiểu chữ viết thường.
Chia sẻ thêm ❤️️Bài Thơ Lịch Sử Nước Ta [Hồ Chí Minh]❤️️ Nội Dung, Phân Tích
Ý Nghĩa Tác Phẩm Đường Kách Mệnh
Tác phẩm Đường kách mệnh có ý nghĩa lịch sử lẫn thực tiễn rất lớn. Xem ngay chia sẻ sau đây của Thohay.vn để biết chi tiết:
- Tác phẩm Đường cách mệnh đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam những năm 20 của thế kỷ XX, trong việc kết hợp phong trào yêu nước với chủ nghĩa Mác – Lênin tạo lập các tiền đề tư tưởng lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.
- Góp phần khắc phục sự khủng hoảng về đường lối cứu nước của dân tộc; khẳng định rõ xu hướng lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam, vừa thỏa mãn được các nhu cầu khách quan của đất nước, vừa phù hợp với xu thế của thời đại sau Cách mạng Tháng Mười Nga.
- Trở thành cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ cách mạng Việt Nam; tài liệu mẫu mực trong việc học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào giải quyết cách vấn đề thực tiễn, nhất là trong những giai đoạn lịch sử có sự thay đổi mang tính chất bước ngoặt.
- Nhiều vấn đề có liên quan đến con đường cách mạng, xây dựng, tổ chức, đoàn kết các lực lượng cách mạng, về vai trò lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng Đảng vững mạnh, nhất là các chuẩn mực đạo đức của người cộng sản vẫn giữ nguyên tính thời sự trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
Tóm Tắt Tác Phẩm Đường Kách Mệnh
Dưới đây là bản tóm tắt ngắn về nội dung chính của tác phẩm Đường Kách Mệnh:
Đường Kách Mệnh giới thiệu tính chất và kinh nghiệm các cuộc cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789), Cách mạng tháng Mười Nga (1917) và khẳng định chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là triệt để. Sau đó tiếp tục giới thiệu về Quốc tế I, Quốc tế II; phê phán đường lối phi mác xít của những người cơ hội trong Quốc tế II.
Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng Việt Nam là bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới và để đảm bảo sự thắng lợi đó, nó phải dựa vào Quốc tế III, tức Quốc tế Cộng sản.
Về đảng chính trị, Nguyễn Ái Quốc xem đảng cách mệnh, đảng cộng sản là nhân tố quyết định sự thành công của cách mệnh.
Tác giả cũng xác định khái niệm lực lượng cách mạng dựa vào tiêu chí “bị áp bức”: “ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết” nên “công nông là gốc cách mệnh”, không chỉ vì họ chiếm số đông trong dân chúng mà cơ bản là họ bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất, tàn bạo nhất. Nguyễn Ái Quốc coi “học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ… là bầu bạn cách mệnh của công nông”
Đón đọc bài thơ ❤️️Tin Thắng Trận [Báo Tiệp]❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích
Bố Cục Tác Phẩm Đường Kách Mệnh
Về bố cục tác phẩm Đường Kách Mệnh, ta có thể phân chia như sau:
Về mặt hình thức, ngoài lời đề tựa, cuốn sách được phân chia theo từng vấn đề, số trang cũng được đánh theo từng vấn đề, không đánh liền cho cả cuốn sách. Trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã tập trung đề cập 15 vấn đề
- (1) Tư cách một người cách mệnh;
- (2) Vì sao phải viết sách này?
- (3) Cách mệnh;
- (4) Lịch sử cách mệnh Mỹ;
- (5) Cách mệnh Pháp;
- (6) Lịch sử cách mệnh Nga;
- (7) Quốc tế;
- (8) Phụ nữ quốc tế;
- (9) Công nhân quốc tế;
- (10) Cộng sản thanh niên quốc tế;
- (11) Quốc tế giúp đỡ;
- (12) Quốc tế cứu tế đỏ
- (13) Cách tổ chức công hội;
- (14) Tổ chức dân cày;
- (15) Hợp tác xã
Đọc Hiểu Tác Phẩm Đường Kách Mệnh
Chia sẻ thêm nội dung đọc hiểu tác phẩm Đường Kách Mệnh của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sau đây cho bạn cùng tham khảo.
1. Chủ đề tư tưởng
Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt của tác phẩm là giáo dục lý luận cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tổng kết thực tiễn phong trào cách mạng trong nước và quốc tế, cuốn sách đã trình bày một cách hệ thống những vấn đề cơ bản của lý luận cách mạng, làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối cách mạng Việt Nam.
2. Nội dung chính của “Đường Kách mệnh”
- Tư cách một người cách mệnh: Nội dung gồm 3 phần: Tự mình phải cần kiệm – liêm chính – vị công vô tư. Giữ chủ nghĩa cho vững…; Đối người phải: với từng người thì khoan thứ. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người; – Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán, dũng cảm, phục tùng đoàn thể.
- Con đường cách mệnh:
- Tác giả xác định các loại cách mạng: Tư bản cách mệnh như cách mệnh Pháp năm 1789, Mỹ cách mệnh độc lập năm 1776; Nhật cách mệnh năm 1864; Dân tộc cách mệnh như: Italia đuổi cường quyền Áo năm 1859; Tàu đuổi Mãn Thanh 1911; Giai cấp cách mệnh như công nông Nga đuổi tư bản và giành lấy chính quyền 1917.
- Từ lịch sử và thực tiễn, tác giả đã định hướng cho cách mạng Việt Nam là đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga “theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
- Về lực lượng cách mạng: Công nông là người chủ cách mệnh “là vì công nông bị áp bức nặng hơn, là vì công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết, là vì công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”.
- Về đoàn kết quốc tế, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ rằng, cách mạng Việt Nam phải đoàn kết với các lực lượng cách mạng thế giới.
- Về phương pháp cách mạng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định rằng, phương pháp cách mạng giữ vai trò hết sức quan trọng.
- Về Đảng Cộng sản:
- Đảng là điều kiện đầu tiên để đảm bảo cho sự thắng lợi của cách mệnh. “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
- ể lãnh đạo cách mạng, Đảng phải theo chủ nghĩa Mác – Lênin. “Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Đọc hiểu tác phẩm 🔰Tinh Thần Yêu Nước Của Nhân Dân Ta🔰Nội Dung, Giá Trị
Giá Trị Tác Phẩm Đường Kách Mệnh
Tác phẩm Đường Kách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, cụ thể như sau:
Giá trị lý luận
- Thông qua tác phẩm Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc – Người cộng sản Việt Nam đầu tiên – đã trình bày những điều cốt lõi của học thuyết cách mạng Mác – Lênin, phù hợp với một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu. Điều này khẳng định tính phổ biến của các nguyên lý của học thuyết Mác– Lênin trên phạm vi toàn cầu, không chỉ ở Châu Âu, mà còn ở Phương Đông, Châu Á.
- Tác phẩm đánh dấu một giai đoạn mới trong nhận thức lý luận của Nguyễn Ái Quốc, góp phần phát triển sáng tạo nhiều vấn đề trong lý luận cách mạng Mác – Lênin.
Giá trị thực tiễn
- Tác phẩm truyền tải nhiệt huyết cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần yêu nước, triệt để cách mạng của Người cho các thế hệ cán bộ, đảng viên ngày nay.
- Nghiên cứu thật kỹ lưỡng tác phẩm sẽ tiếp tục làm sáng tỏ phương pháp cách mạng nói chung và phương pháp công tác tư tưởng nói riêng. Đó là, trước hết phải làm tốt công tác giáo dục lý luận cách mạng, sau đó phải tuyên truyền, vận động để biến thành hành động cách mạng.
- Tác phẩm có vai trò củng cố, vun đắp ý chí cách mạng, kiên trì đường lối cách mạng Việt Nam.
Mẫu Phân Tích Tác Phẩm Đường Kách Mệnh Hay Nhất
Đọc thêm mẫu phân tích tác phẩm Đường Kách Mệnh hay nhất dưới đây để hiểu hơn về thông điệp truyền tải của văn bản này.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc Việt Nam nhiều di sản vô cùng quý báu, một trong những di sản đó là tác phẩm “Đường Cách mệnh”.
Tác phẩm là kết quả tập hợp những bài giảng của Người dùng trong các lớp huấn luyện cán bộ của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc) vào những năm 1925, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông tập hợp, in thành sách “Đường Cách mệnh” vào năm 1927.
Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu, hàm chứa giá trị lý luận, thực tiễn to lớn và sâu sắc, đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, trong việc kết hợp phong trào công nhân và yêu nước với chủ nghĩa Mác, tạo lập các tiền đề tư tưởng, lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tác phẩm có ý nghĩa và vai trò như “kim chỉ nam” cho đường lối của cách mạng Việt Nam. Một trong những nội dung cơ bản của Tác phẩm đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vận dụng linh hoạt và sâu sắc trong lãnh đạo cách mạng, đó là vấn đề giải quyết mối quan hệ dân tộc – giai cấp của cách mạng.
Tác phẩm “Đường Cách mệnh” với vấn đề giải quyết mối quan hệ dân tộc – giai cấp là kết tinh sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc Việt Nam và tính nhân loại trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tác phẩm đã thể hiện rất rõ và sâu sắc tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, thực chất là vấn đề giải phóng và phát triển dân tộc; vấn đề giai cấp, thực chất là vấn đề giải phóng các giai cấp, tầng lớp khỏi tình trạng áp bức bóc lột, đem lại cơm ăn áo mặc, tự do hạnh phúc cho nhân dân.
Trong điều kiện đất nước bị xâm lược, vấn đề giai cấp luôn được Hồ Chí Minh đặt trong mối quan hệ biện chứng với vấn đề dân tộc. Lợi ích của giai cấp thống nhất chặt chẽ với lợi ích dân tộc và lợi ích dân tộc thống nhất với lợi ích quốc tế. Điều đó có nghĩa là chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”.
Giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp vô sản có mối quan hệ biện chứng trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện rất rõ trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”. Trong nội dung giải phóng dân tộc bao hàm nội dung giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Sự nghiệp giải phóng dân tộc càng tiến hành triệt để và thắng lợi bao nhiêu thì sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng xã hội càng thuận lợi bấy nhiêu.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đường lối nhất quán và xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Do vậy, việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp và quốc tế được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo vào các giai đoạn cách mạng của nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam phải hết sức sáng tạo, phải tùy thuộc vào tình hình cụ thể của đất nước.
Do ở phương Đông, dân tộc được hình thành sớm, ý chí tinh thần dân tộc cao, phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc mạnh mẽ nên Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chủ nghĩa dân tộc được Hồ Chí Minh xem là động lực to lớn của người Việt Nam và khi chủ nghĩa dân tộc thắng lợi dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân sẽ thống nhất với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Đường lối cách mạng của Việt Nam được vận dụng sâu sắc từ tư tưởng của Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”. Qua đó cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta từ năm 1930 đến nay đã rất coi trọng việc bồi dưỡng tinh thần dân tộc, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi áp bức bất công, giải phóng dân tộc, thực hiện quyền tự quyết dân tộc theo lập trường giai cấp công nhân. Qua các giai đoạn cách mạng, đường lối xuyên suốt và nhất quán cách mạng Việt Nam là: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Để đảm bảo cho sự nghiệp đổi mới, trong tất cả các văn kiện của Đảng luôn khẳng định mục tiêu cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều kiện cơ bản đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng là trung thành, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và cũng có nghĩa là trung thành với lợi ích cơ bản lâu dài của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và lợi ích dân tộc.
Tác phẩm “Đường Cách mệnh” nói chung và tư tưởng về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp và vấn đề quốc tế trong Tác phẩm là một sáng tạo lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Tóm lại, những nội dung cơ bản mà “Đường cách mệnh” đề ra luôn luôn là kim chỉ nam, là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong những năm đấu tranh giành chính quyền, trong hai cuộc trường chinh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong những năm cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tác phẩm “Đường Cách mệnh” đến nay vẫn giữ nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đó là bài học quý, đòi hỏi Đảng ta cần phải vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với điều kiện mới của đất nước trong quá trình hội nhập sâu rộng quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Đọc và phân tích văn bản🔰Tuyên Ngôn Độc Lập🔰 Ý Nghĩa, Giá Trị Lịch Sử