Sửa Đổi Lối Làm Việc 1947 ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Ý Nghĩa, Liên Hệ ✅ Chia Sẻ Đến Bạn Đọc Ý Nghĩa, Đọc Hiểu, Giá Trị Tác Phẩm.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Toàn Văn Tác Phẩm Sửa Đổi Lối Làm Việc Của Hồ Chí Minh
Tác phẩm Sửa đổi lối làm việc của chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuốn sách gồm khoảng 100 trang, được viết vào năm 1947. Dưới đây là nội dung chính của tác phẩm.
I. Phê bình và sửa chữa
Người nêu mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc phê bình và tự phê bình. Phải mau phê bình và sửa chữa để khắc phục khuyết điểm, vì “có tẩy sạch khuyết điểm, công việc mới có tiến bộ”(1). Người chỉ ra những căn bệnh mà mỗi cán bộ, đảng viên phải khắc phục, sửa chữa (chủ quan, hẹp hòi, ba hoa…). Người chỉ ra cách phê bình: “phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm… Chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người”.
Bệnh chủ quan là chứng bệnh kém lý luận hoặc lý luận suông. “Vì kém lý luận, cho nên gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Kết quả thường thất bại…”. Vì vậy, “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông”.
Bệnh hẹp hòi “rất nguy hiểm… trong thì ngăn trở Đảng thống nhất và đoàn kết; ngoài thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân. Nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa, v.v… đều do bệnh hẹp hòi mà ra!”. Đó là những cán bộ chỉ thấy lợi ích bộ phận của mình, không thấy lợi ích của toàn thể. Vì ham danh vọng và địa vị cho nên khi phụ trách một bộ phận nào, thì lôi người này, kéo người khác, ưa thì kéo vào, không ưa thì tìm cách bẩy ra…”.
Người nhấn mạnh “Để chữa khỏi những bệnh kia, ta phải tự phê bình ráo riết và phải lấy lòng nhân ái, lấy lòng thành thật, mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau… Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”.
II. Mấy điều kinh nghiệm.
Hồ Chí Minh đã khái quát một số kinh nghiệm quan trọng, phân tích nội dung, dẫn chứng thực tế trong hoạt động phong phú của cán bộ, đảng viên và nhân dân qua các phong trào ở các địa phương, đơn vị.
1. Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong, Người chỉ ra nguyên lý: “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”.
2. Có chính sách đúng, phải có cách 1àm đúng, phù hợp tình hình, yêu cầu thực tế mới đạt kết quả. Phải làm “kiểu mẫu” để rút kinh nghiệm, không làm tràn lan, chủ quan, tham làm nhanh, “tham làm nhiều trong một lúc”.
3. Phải nghiên cứu, rút kinh nghiệm công việc đã làm một cách tường tận, gốc rễ; tỉ mỉ, cẩn thận, toàn diện trước khi thực hiện công tác mới.
4. Phải nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái, tính sáng tạo, dân chủ trong công tác của cán bộ, đảng viên. Dân chủ, hăng hái, sáng kiến luôn gắn chặt với nhau, vì “có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái và người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc thì những khuyết điểm lặt vặt cũng tự sửa chữa được nhiều”.
5. Phải xác định trách nhiệm trước công tác, nhiệm vụ được giao. Khi thực hiện bất kỳ nhiệm vụ gì cũng phải trả lời câu hỏi “Vì ai mà làm? Đối với ai phụ trách?”. Phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, luôn vì lợi ích của nhân dân, vận động nhân dân tham gia công tác “tìm đủ cách giải thích cho dân hiểu”, không “làm theo cách hạ lệnh, cách cưỡng bức”.
6. Phải sâu sát quần chúng, hợp quần chúng. Tránh bệnh hình thức, xa rời nhân dân. Thực hiện phương châm “Từ trong quần chúng mà ra, trở lại nơi quần chúng”. Mọi việc làm phải hợp với trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà định ra cách làm việc, cách tổ chức. Có như thế, mới có thể kéo được quần chúng”.
III. Tư cách và đạo đức cách mạng.
1. Tư cách của Đảng chân chính cách mạng.
Hồ Chí Minh đã nêu lên 12 tiêu chí của một Đảng cách mạng chân chính, bao gồm: Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng; Hiểu biết lý luận cách mạng gắn với thực hành; Liên hợp chặt chẽ với quần chúng; Nêu cao tính cách mạng và “lại phải khéo dùng những cách thức thi hành cho hoạt bát”; Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình; Đảng phải chọn những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo; Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài; Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới; Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành như thế nào. Người đã khẳng định bằng hai câu thơ lục bát: “Muốn cho Đảng được vững bền, Mười hai điều đó chớ quên điều nào”.
2. Phận sự của đảng viên và cán bộ.
Người cán bộ, đảng viên phải “Trọng lợi ích của Đảng hơn hết… vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng”.
Đảng viên và cán bộ phải có “đạo đức cách mạng”. Người khái quát và đi sâu phân tích năm chữ Nhân, Nghĩa, Chí, Dũng, Liêm.
“Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào.
Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng…
Trí vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng…
Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ, khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại vinh hoa, phú quý không chính đáng
Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình… Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ…”.
Người cán bộ, đảng viên “phải giữ kỷ luật”. Kỷ luật của Đảng là kỷ luật tự giác. “Không ai bắt buộc ai vào Đảng làm chiến sĩ tiên phong. Mà đó là tự giác, lòng hăng hái của mỗi người mà tình nguyện làm đảng viên”.
Đối với những người không chịu nổi khó nhọc, không chịu nổi kỷ luật nghiêm khắc của Đảng mà xin ra khỏi Đảng thì Đảng vẫn bằng lòng để họ ra. Đảng chỉ yêu cầu họ một điều là: họ thề không lộ bí mật của Đảng, không phản Đảng, không phá hoại Đảng. Như thế thì Đảng vẫn giữ cảm tình thân thiện với họ”.
Phải khắc phục “những khuyết điểm, sai lầm”. Đó là “bệnh tham lam”, “Bệnh lười biếng”, “bệnh kiêu ngạo”, “bệnh hiếu danh”, “thiếu kỷ luật”, “óc hẹp hòi”, “óc địa phương”, “óc lãnh tụ”, “bệnh hữu danh vô thực”, “bệnh kéo bè, kéo cánh”, “bệnh cận thị”, “bệnh cá nhân”, “bệnh tị nạnh”, “bệnh xu nịnh, a dua”. Người nhắc nhở về bệnh sợ tự phê bình. Người đã nói rất khảng khái”: “… Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Phải bình tĩnh tìm ra nguyên nhân sai lầm và cách sửa chữa khuyết điểm. Hồ Chí Minh chỉ rõ “Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư tự lợi, kiêu ngạo, xa hoa v v… Những thói xấu đó, họ mang từ xã hội vào Đảng”. Người phê phán thái độ đối với người có khuyết điểm, sai lầm như đối với hổ mang, thuồng luồng… đòi đuổi ra khỏi Đảng ngay…, làm cho họ chán nản, thất vọng. Hoặc họ không làm gì nữa hết. Thậm chí họ bỏ Đảng. Đó là thái độ những người máy móc quá. Đó cũng là bệnh chủ quan”.
3. Tư cách và bổn phận của đảng viên.
Hồ Chí Minh viết về tiêu chuẩn người đảng viên, thể thức giới thiệu, kết nạp người vào Đảng, rèn luyện, giáo dục đảng viên mới. Người chỉ rõ bổn phận của người đảng viên là “Suốt đời tranh đấu cho dân tộc, cho Tổ quốc; đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết, lên trước hết; hết sức giữ kỷ luật và giữ bí mật của Đảng; kiên quyết thi hành những nghị quyết của Đảng; cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc; cố gắng học tập chính trị, quân sự, văn hóa. Phải gần gũi quần chúng, học hỏi quần chúng, cũng như phải lãnh đạo quần chúng
4. Phải rèn 1uyện tính đảng.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Mỗi cán bộ, đảng viên, cần phải có tính đảng mới làm được việc. Kém tính đảng, thì việc gì cũng không làm nên”. Tính đảng là: “Phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết; việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn; lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau. Đảng phải nghiêm ngặt kiểm tra, các địa phương phải kiên quyết thực hành những nghị quyết của Đảng. Nơi nào sai lầm, ai sai lầm, thì lập tức sửa chữa. Kiên quyết chống thói nể nang và che giấu, chống thói “trước mặt thì nể, kể lể sau lưng”. Phải kiên quyết thực hành kỷ luật. Phải đòi hỏi mỗi đảng viên, trước hết là mỗi cán bộ, phải thật thà tự phê bình, tự sửa chữa những khuyết điểm của mình.
IV. Vấn đề cán bộ.
Với tư duy biện chứng, cách nhìn toàn diện, Hồ Chí Minh đã xác định “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”.
“Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Người chỉ ra những hạn chế trong công tác huấn luyện cán bộ, nêu lên nội dung huấn luyện cần tập trung: “Huấn luyện nghề nghiệp, Huấn luyện chính trị, Huấn luyện văn hóa; Huấn luyện lý luận. Học lý luận, phải nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế. Nên chia ra khoa học chính trị, khoa học kinh tế, khoa học lịch sử… tổ chức từng ban cao cấp hoặc trung cấp… Vô luận công tác môn nào, lớp huấn luyện nào, đều phải tuyệt đối chống bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi, bệnh ba hoa”.
Xuất phát từ luận đề “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” Hồ Chí Minh đã xác định “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu”. Vấn đề cán bộ là vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp, Đảng phải làm như thế nào? Người đã nêu lên 6 việc phải làm: Phải biết rõ cán bộ; phải cất nhắc cán bộ một cách cho đúng; phải khéo dùng cán bộ; phải phân phối cán bộ cho đúng; phải giúp cán bộ cho đúng; phải giữ gìn cán bộ.
Lựa chọn cán bộ có 4 tiêu chí:
a. Những người đã tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh.
b. Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng. Luôn luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế, thì dân chúng mới tin cậy cán bộ đó là người lãnh đạo của họ.
c. Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn.
Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải người lãnh đạo…
d. Những người luôn giữ đúng kỷ luật
Có 5 cách đối với cán bộ:
a. Chỉ đạo – Thả cho họ làm, thả cho họ phụ trách, dù sai lầm chút ít cũng không sợ.
b. Nâng cao – Luôn luôn tìm cách cho họ học thêm lý luận và cách làm việc, làm cho tư tưởng, năng lực của họ ngày càng tiến bộ.
c. Kiểm tra – Không phải ngày nào cũng kiểm tra. Nhưng thường thường kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm.
d. Cải tạo – Khi họ sai lầm thì dùng cách “thuyết phục” giúp cho họ sửa chữa. Không phải một sai lầm to lớn, mà đã vội cho họ là “cơ hội chủ nghĩa đã cảnh cáo”, đã “tạm khai trừ”. Những cách quá đáng như thế đều không đúng.
đ. Giúp đỡ – Phải cho họ điều kiện sinh sống đầy đủ mà làm việc.
Mấy điểm lớn trong chính sách cán bộ. Đó là những vấn đề rất hệ trọng.
Cần chú ý mấy việc: “Hiểu biết cán bộ, khéo dùng cán bộ, cất nhắc cán bộ, thương yêu cán bộ, phê bình cán bộ”.
a. Hiểu biết cán bộ: Cần biết những chứng bệnh người ta hay sai phạm để hiểu cán bộ: Tự cao, tự đại; ưa người ta nịnh mình; Do lòng yêu, ghét của mình mà đối với người; Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lấp vào tất cả mọi người khác nhau. Hồ Chí Minh đã nêu phương pháp:
“Muốn biết rõ cán bộ, muốn đối đãi một cách đúng đắn các hạng người, trước hết phải sửa những khuyết điểm của mình. Mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng.
Xem xét cán bộ không chỉ xem xét ngoài mặt mà còn phải xem tính chất của họ. Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của họ”.
b. Khéo dùng cán bộ. Cần tránh những chứng bệnh:
“Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người ngoài.
“Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà chán ghét những người chính trực.
“Ham dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh những người tính tình không hợp với mình”.
“Cách dùng cán bộ đúng là phải có lòng độ lượng vĩ đại, chí công vô tư, không có thành kiến mới không bỏ rơi cán bộ. Phải có tinh thần rộng rãi, gần gũi người mình không ưa. Phải chịu khó dạy bảo, nâng đỡ người kém. Phải sáng suốt, tránh bị bọn “vu vơ” bao vây, xa cách cán bộ tốt. Phải có thái độ vui vẻ, thân mật để gần gũi đồng chí.
Phải thực hành những công việc cụ thể: Khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến, khiến cho cán bộ có gan phụ trách, có gan làm việc; không nên tự tôn, tự đại, mà phải nghe, phải hỏi ý kiến của cấp dưới”.
c. Phải có gan cất nhắc cán bộ – “Cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế, công việc nhất định chạy… Nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang, nhất định không ai phục, mà gây nên mối lôi thôi trong Đảng. Như thế là có tội với Đảng, với nhân dân… Biết rõ ràng cán bộ, mới có thể cất nhắc cán bộ một cách đúng mực”.
d. Yêu thương cán bộ – Trong lúc tranh đấu, rất dễ mất một người cán bộ. Vì vậy, Đảng phải yêu thương cán bộ. Nhưng thương yêu không phải là vỗ về, nuông chiều, thả mặc. Thương yêu là giúp họ học tập thêm, tiến bộ thêm”.
đ. Đối với những cán bộ sai lầm – Hồ Chí Minh đã cắt nghĩa rất biện chứng và thấu tình “Trừ những người cố ý phá hoại, ngoài ra không ai cố ý sai lầm, sai lầm là vì không hiểu, không biết. Vì vậy, đối với cán bộ bị sai lầm, ta quyết không nên nhận rằng họ muốn như thế, mà công kích họ. Trái lại, ta phải dùng thái độ thân thiết, giúp họ tìm ra cái cớ vì sao mà sai lầm? Sai lầm như thế, sẽ có hại đến công việc như thế nào? Làm thế nào mà sửa chữa? Tóm lại, phải phê bình cho đúng”. Người đã nêu lên rất thẳng thắn “Chúng ta không sợ có sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm. Và càng sợ những người lãnh đạo không biết tìm cách đúng để giúp cán bộ sửa chữa sai lầm và khuyết điểm”.
V. Cách lãnh đạo.
Hồ Chí Minh đã “chỉ vẽ” rất cụ thể cách thức và nội dung công việc của người cán bộ.
1. Lãnh đạo và kiểm soát.
Lãnh đạo đúng nghĩa là.
“- Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng.
– Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong.
– Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được…
“Chọn người và thay người cũng là một vấn đề quan trọng trong việc lãnh đạo… Phải chú ý với những người “công thần cách mạng”, “những người nói suông”. Chống bệnh quan liêu, bàn giấy.
Vì ba điều mà cần phải có kiểm soát: 1. Có kiểm soát như thế mới biết rõ cán bộ và nhân viên tốt hay xấu. 2. Mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các cơ quan. 3. Mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các mệnh lệnh và nghị quyết. Kiểm soát có hai cách: từ trên xuống và từ dưới lên.
2. Lãnh đạo thế nào?
“Có hai cách lãnh đạo: Một là liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng; Hai là liên hợp người lãnh đạo với quần chúng.
…Bất kỳ việc gì, nếu không có chính sách chung, kêu gọi chung, không thể động viên khắp quần chúng… Bất kỳ việc gì (thí dụ việc chỉnh đốn Đảng), người lãnh đạo phải có một số người hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo.
Nhóm trung kiên này phải mật thiết liên hệ với quần chúng, công việc mới thành.
Vì vậy, bất kỳ cơ quan nào, bộ đội nào, cũng cần phải chọn một nhóm người hăng hái, trung thành, có năng lực, giữ kỷ luật, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo.
Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”.
3. Học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng.
Hồ Chí Minh xác định “Dân chúng rất khôn khéo, rất anh hùng. Vì vậy, chúng ta phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng.
… Mỗi khẩu hiệu, mỗi một công tác, mỗi một chính sách của chúng ta, phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng, phải nghe theo nguyện vọng của dân chúng”.
Phải tránh cách làm việc quan liêu, mệnh lệnh, ép buộc dân chúng. Phải “làm theo cách của quần chúng”. Phải thực hành theo nguyên tắc:
– Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng.
– Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết.
– Chớ khư khư giữ theo “sáo cũ”. Luôn luôn phải theo tình hình thiết thực của dân chúng nơi đó và lúc đó, theo trình độ giác ngộ của dân chúng, theo sự tình nguyện của dân chúng mà tổ chức họ, tùy hoàn cảnh thiết thực nơi đó và lúc đó, đưa ra tranh đấu.
– Chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng. Nhưng phải khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hóa nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng.
“Phải đưa chính trị vào giữa dân gian“. Trước kia, việc gì cũng từ “trên dội xuống”. Từ nay việc gì cũng phải từ “dưới nhoi lên”.
VI. Chống thói ba hoa.
Bệnh ba hoa là “bạn đường” của bệnh chủ quan và bệnh hẹp hòi. “Vì thói ba hoa còn, tức là bệnh chủ quan và bệnh hẹp hòi cũng chưa khỏi hẳn”.
1. Thói ba hoa là gì?
Người đã chỉ ra biểu hiện của thói ba hoa.
a. Dài dòng, rỗng tuếch. Nói dài, viết dài mà không có nội dung.
b. Có thói “cầu kỳ“. Là cách “dùng từng đống danh từ lạ, nói hoặc viết theo cách Tây” quần chúng không hiểu.
c. Khó khăn, lúng túng. Không chịu học tập, thiếu chuẩn bị, khi nói, khi viết quần chúng không hiểu.
d. Báo cáo lông bông. Báo cáo giả dối. Thành công ít, thì suýt ra nhiều. Còn khuyết điểm thì giấu đi… Hoặc là báo cáo chậm trễ. Không nêu rõ nội dung, vấn đề một cách rõ ràng, có hệ thống.
đ. Lụp chụp, cẩu thả. Phải tránh bệnh này bằng cách: “Không biết rõ, chớ nói, chớ viết. Khi không có gì cần nói, không có gì cần viết, chớ nói, chớ viết càn”.
e. Bệnh theo “sáo cũ“. Do làm việc thiếu chuẩn bị, nội dung mênh mông, không thiết thực, công thức máy móc, nói, viết những từ hoa mỹ, quần chúng không hiểu, không đem lại kết quả.
g. Nói không ai hiểu. Nội dung tuyên truyền, khẩu hiệu của Đảng “viết một cách cao xa, màu mè, đến nỗi chẳng những quần chúng không hiểu, mà cả cán bộ cũng không hiểu”.
h. Bệnh hay nói chữ. Là bệnh ham dùng chữ nước ngoài nhưng không biết rõ nghĩa, “dùng không đúng mà cũng ham dùng, cái hại càng to”.
2. Cách chữa thói ba hoa.
“l. Phải học cách nói của quần chúng. Chớ nói như cách giảng sách.
2. Phải luôn luôn dùng những lời lẽ, những thí dụ giản đơn, thiết thực và dễ hiểu.
3. Khi viết, khi nói, phải luôn luôn làm thế nào cho ai cũng hiểu được. Làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm làm theo lời kêu gọi của mình. Bao giờ cũng phải tự hỏi: Ta viết cho ai xem? Nói cho ai nghe?
4. Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết.
5. Trước khi nói, phải nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận. Phải nhớ câu tục ngữ: “Chó ba khoanh mới nằm. Người ba năm mới nói”.
Đọc thêm ❤️️Lời Kêu Gọi Toàn Quốc Kháng Chiến ❤️️ Nội Dung, Phân Tích
Về Tác Giả
Tổng hợp một số thông tin chính quan trọng về tác giả Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh (sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 – mất ngày 2 tháng 9 năm 1969) là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc và cách mạng Việt Nam. Người đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh và giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dụng chủ nghĩa xã hội
- Hồ Chí Minh có tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung. Quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Gia đình: Thân phụ là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc – một nhà Nho yêu nước có tư tưởng tiến bộ có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Người. Thân mẫu của Người là bà Hoàng Thị Loan.
- Không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc, Hồ Chí Minh còn được biết đến với tư cách là một nhà văn nhà thơ lớn.
- Sự nghiệp sáng tác: Hồ Chí minh sáng tác nhiều thể loại, để lại một khối lượng tác phẩm lớn
- Văn chính luận: Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Sửa đổi lối làm việc,…
- Truyện, kí: Vi hành, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu
- Thơ: Nhật kí trong tù, Thơ Hồ Chí Minh…
👉 Cập nhật thông tin đầy đủ về Chủ tịch Hồ Chí Minh: Thơ Hồ Chí Minh
Về Tác Phẩm Sửa Đổi Lối Làm Việc 1947
Về tác phẩm Sửa đổi lối làm việc 1947 của chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là văn bản thuộc thể loại chính luận, phương thức biểu đạt chính là nghị luận.
Cuốn sách “Sửa đổi lối làm việc”chỉ khoảng 100 trang khổ 13cm x 19cm do Bác Hồ viết và hoàn thiện tại Đồi Khau Tý cuối năm 1947, ký tên X.Y.Z và Nhà xuất bản Sự thật in và phát hành toàn quốc đầu năm 1948.
Trong cam go, lãnh tụ Hồ Chí Minh vẫn ngồi viết tác phẩm bằng trách nhiệm cao nhất trước toàn Đảng, toàn dân. Người chỉ đạo việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo, nâng cao uy tín và đạo đức của Đảng trước nhân dân; đề cao và khẳng định sự gắn bó máu thịt giữa Đảng, chính quyền với nhân dân.
Đừng bỏ lỡ ❤️️Bài Thơ Lịch Sử Nước Ta [Hồ Chí Minh]❤️️ Nội Dung, Phân Tích
Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Sửa Đổi Lối Làm Việc
Thohay.vn chia sẻ cho bạn các thông tin chi tiết về xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác tác phẩm Sửa đổi lối làm việc của Bác Hồ.
Cuốn sách “Sửa đổi lối làm việc” được hoàn thiện vào cuối năm 1947, nghĩa là Đảng ta mới thực sự nắm quyền được 2 năm. Và, sau 2 nắm cầm quyền, Đảng đã lãnh đạo chính quyền đưa cách mạng Việt Nam vượt qua khỏi tình trạng “ngàn cân treo sợi tóc”.
Cũng chỉ 2 năm đó, Bác Hồ đã phát hiện một số căn bệnh của Đảng cầm quyền mà nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ gây tổn hại lớn cho Đảng. Với ý thức “cán bộ là đầy tớ của dân, công bộc của dân”, trong hoàn cảnh này đòi hỏi họ phải thật sự gương mẫu, nêu cao đạo đức cách mạng, chấp nhận mọi hy sinh gian khổ vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, tháng 10/1947 tại Việt Bắc, với bút danh XYZ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”
Ý Nghĩa Tác Phẩm Sửa Đổi Lối Làm Việc
Sửa đổi lối làm việc là tác phẩm chính luận có nội dung sâu sắc, toàn diện về giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ cách mạng của Đảng, của Nhà nước ta. Xuyên suốt tác phẩm là những chỉ dẫn của Người về giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có năng lực làm việc và tư cách đạo đức, thực sự là “công bộc” của Nhân dân.
Đón đọc bài thơ ❤️️Tin Thắng Trận [Báo Tiệp]❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích
Tóm Tắt Tác Phẩm Sửa Đổi Lối Làm Việc
Bạn có thể tham khảo thêm bản tóm tắt tác phẩm Sửa đổi lối làm việc được Thohay.vn chia sẻ sau đây.
Tác phẩm Sửa đổi lối làm việc nêu 6 nội dung lớn, là 6 vấn đề hệ trọng. Có vấn đề lâu dài, có vấn đề là trước mắt, có vấn đề là căn bệnh trầm kha. Sáu vấn đề đó là: Phê bình và sửa chữa; mấy điều kinh nghiệm; tư cách và đạo đức cách mạng; vấn đề cán bộ; cách lãnh đạo và chống thói ba hoa… Từ chủ đề chính là xây dựng chỉnh đốn Đảng, cuốn sách đã đề cập những vấn đề cấp bách:
- Thứ nhất, Bác dạy phải nhận thức và thực hiện có hiệu quả một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng là phê bình và tự phê bình. Phải khắc phục cho được tình trạng hữu khuynh, né tránh cũng như thiếu xây dựng trong phê bình, thiếu trung thực trong tự phê bình.
- Thứ hai, Bác chỉ rõ, đảng viên cán bộ phải nhận thức đúng đắn vai trò của lý luận và đổi mới việc giáo dục lý luận cho cán bộ, đảng viên; phải khắc phục cho được bệnh coi thường lý luận, lý luận suông, sách vở, giáo điều, phải học tập lý luận chính trị một cách thiết thực, tránh hình thức, qua lọa, đại khái…
- Thứ ba,Người đề cao vai trò của đạo đức cách mạng và việc tư dưỡng đạo đức của cán bộ, đảng viên, khắc phục cho được các bệnh tham ô, lãng phí. Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính theo Bác không có gì khó. Tóm tắt lại có 5 điều răn: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm.
- Thứ tư, Bác chỉ ra những vấn đề thuộc về vai trò quyết định của đội ngũ cán bộ và phải đổi mới cách đánh giá bồi dưỡng và sử dụng cán bộ. Sử dụng cán bộ là sử dụng người có tài, có đức, có cách phẩm chấn cần, kiệm, liêm, chính. Những người như vậy phải được bồi dưỡng và sử dụng.
- Thứ năm, vấn đề cách lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo theo hướng ra quyết định đúng và kịp thời, tổ chức thực hiện đúng, khéo, giám sát, kiểm tra chặt chẽ, đúng đắn.
- Thứ sáu, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền giáo dục. Tầm quan trọng và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục mang tính thuyết phục, nhất là phải đổi mới cách nói và viết của cán bộ, đảng viên, phải khắc phục thói ba hoa, sáo rỗng, nói không đi đôi với làm.
Đọc Hiểu Tác Phẩm Sửa Đổi Lối Làm Việc
Đừng bỏ lỡ nội dung đọc hiểu tác phẩm Sửa đổi lối làm việc được chia sẻ sau đây:
Một vài ý nghĩa rút ra sau khi đọc tác phẩm:
- Thứ nhất, tác phẩm chỉ ra những mặt mạnh, mặt yếu (ưu khuyết điểm, những căn “bệnh”) của cán bộ, từ đó giúp cho công tác tổ chức cán bộ phát huy thế mạnh và khắc phục những hạn chế họ.
- Thứ hai, tác phẩm nhắc nhở mỗi người chúng ta cho dù trên bất kỳ công việc nào cũng không ngừng phải rèn luyện, tu dưỡng, trau dồi phẩm chất đạo đức, tác phong, lối sống, lề lối làm việc.
- Thứ ba, đối với công việc mỗi cán bộ đảng viên phải có tinh thần trách nhiệm, không ngừng nâng cao ý thức tự giác, học hỏi.
- Thứ tư, cán bộ, đảng viên phải giám chịu trách nhiệm trước công việc của mình, sẵn sàng sửa chữa những sai lầm khuyết điểm.
- Thứ năm, giải quyết công việc cần linh hoạt, uyển chuyển, không dập khuôn, không xa rời thực tế.
=>Tóm lại: “Sửa đổi lối làm việc” giúp cho Đảng rút ra nhiều bài học bổ ích, đẩy mạnh công tác, hiệu quả công việc, làm cho Đảng lớn mạnh không ngừng; Mặt khác giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên khắc phục được những sai lầm khuyết điểm.
Đọc và phân tích bài 🔰Tinh Thần Yêu Nước Của Nhân Dân Ta🔰Nội Dung, Giá Trị
Giá Trị Tác Phẩm Sửa Đổi Lối Làm Việc
Tổng kết về giá trị rút ra được từ tác phẩm Sửa đổi lối làm việc của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Giá trị lý luận
- “Sửa đổi lối làm việc” có ý nghĩa phương pháp luận đặc biệt sâu sắc. Nó thể hiện những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh. Tác phẩm đã trình bày một cách hệ thống các nguyên tắc, nguyên lý, quy luật cơ bản thành một tổng thể về công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng trong điều kiện trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhân dân trong đấu tranh giành độc lập, xây dựng đất nước.
- Nội dung lý luận trong “Sửa đổi lối làm việc” vừa kế thừa lý luận Mác-Lênin về xây dựng đảng, kế thừa đạo đức nho giáo của các nước phương Đông và từ truyền thống văn hóa dân tộc.
- Các quan điểm lý luận đó của tác phẩm có tác dụng giáo dục, định hướng, chỉ đạo trong công tác xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh qua mọi thời kỳ phát triển, đi lên Chủ nghĩa xã hội của đất nước.
Giá trị thực tiễn
- “Sửa đổi lối làm việc” là cuốn cẩm nang học tập có giá trị thiết thực, bổ ích trong giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng, nó nhằm giúp cho mỗi cán bộ đảng viên nhận thức được những chuẩn mực, vạch cho mỗi người thấy được những “bệnh” hay mắc phải và giúp họ nắm các giải pháp để nhận thức, sửa chữa, giúp họ trở thành những người cách mạng chân chính, trung thành với sự nghiệp cao cả của đảng và của Nhân dân.
- Đến nay, “Sửa đổi lối làm việc” của Hồ chủ tịch vẫn còn nguyên giá trị nội dung để đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực như quan liêu, tham nhũng, độc đoán, chuyên quyền, ba hoa, hẹp hòi, ích kỷ.
Bài Học Kinh Nghiệm Từ Tác Phẩm Sửa Đổi Lối Làm Việc
Năm 1947, Bác đã viết cuốn Sửa đổi lối làm việc để xây dựng cách lãnh đạo và lề lối làm việc, làm cẩm nang cho cán bộ đảng viên trong điều kiện Ðảng cầm quyền. Dưới đây là một số bài học kinh nghiệm được rút ra từ tác phẩm:
👉Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Ðó là một chân lý nhất định”.
Bên cạnh việc đào tạo và rèn luyện đội ngũ cán bộ cần kiệm liêm chính, chí công vô tư làm công bộc cho dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi các ngành các cấp và địa phương tìm và tiến cử nhân tài để kiến quốc. Nhờ sự góp sức đồng lòng của toàn dân, toàn quân mà cuộc kháng chiến trường kỳ của ta thắng lợi vẻ vang và sự nghiệp cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Ðảng từng bước phát triển bền vững.
=> Liên hệ hiện nay: Muốn tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo. Thí dụ: Bắt buộc cán bộ trong mỗi ngành phải thiết thực báo cáo và cất nhắc nhân tài”.
👉Chính sách thì đúng, cách làm thì sai
Những đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước ban hành hoàn toàn đúng, nhưng xuống đến các địa phương thì bị thực hiện sai lệch hoặc thực hiện không đến nơi đến chốn, đánh trống bỏ dùi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét nguyên nhân của sự việc là vì chúng ta không xét đến nguyên nhân cơ bản: trách nhiệm và năng lực của những người thi hành chính sách.
=> Cũng vì thế nên Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Bất kỳ việc gì, chúng ta phải bắt đầu từ gốc, dần dần đến ngọn, từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, chớ nên tham mau, tham nhiều trong một lúc” .
👉Phải nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái
Muốn phát huy được sáng kiến và lòng hăng hái thì phải đầu tư điều kiện phát triển về cả tinh thần và vật chất mà trong đó, như Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ rằng, chính cách lãnh đạo không được dân chủ và công tác tư tưởng không được tích cực là nguyên nhân cản trở sáng kiến và làm nguội nhiệt tình.
=> Ðể giải quyết triệt để hiện tượng này thì cấp trên cũng nên thỉnh thoảng trưng cầu ý kiến phê bình của cấp dưới và đồng thời người lãnh đạo: “Phải biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình, để tự mình sửa chữa”
Phân tích văn bản🔰Tuyên Ngôn Độc Lập🔰 Ý Nghĩa, Giá Trị Lịch Sử
Những Liên Hệ Bản Thân Về Sửa Đổi Lối Làm Việc
Những liên hệ bản thân về sửa đổi lối làm việc. Nếu là một cán bộ, đảng viên thì dưới đây là những điều nên thực hiện:
- Tiên phong, gương mẫu kiên định với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối trung thành với Đảng, vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
- Tiên phong, gương mẫu nghiên cứu, học tập, quán triệt, thực hiện Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng.
- Tiên phong, gương mẫu chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng.
- Tiên phong, gương mẫu thực hiện chức trách, nhiệm vụ của người đảng viên và nhiệm vụ được giao
- Tiên phong, gương mẫu giữ gìn đạo đức, lối sống, tác phong.
- Tiên phong, gương mẫu giữa nói và làm, chấp hành sự phân công của tổ chức Đảng, xây dựng khối đoàn kết, đồng thuận trong cơ quan, đơn vị
- Tiên phong, gương mẫu trong quan hệ với đồng nghiệp và người dân.
- Tiên phong, gương mẫu trong việc chấp hành và lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát.
2 Mẫu Phân Tích Tác Phẩm Sửa Đổi Lối Làm Việc Hay Nhất
Sưu tầm các mẫu phân tích tác phẩm Sửa đổi lối làm việc của chủ tịch Hồ Chí Minh hay nhất gửi đến bạn đọc.
Mẫu Phân Tích Tác Phẩm Sửa Đổi Lối Làm Việc Hay – Mẫu 1
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết xong tháng 10/1947, tác giả ký tên X.Y.Z. được Nhà xuất bản Sự thật in lần đầu năm 1948, dày 100 trang. Không nhiều về số trang nhưng tác phẩm đặt ra những vấn đề rất lớn của cách mạng, của đảng cầm quyền, đặt trong bối cảnh những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp cực kỳ gay go, thiếu thốn, ác liệt, soi dưới ánh sáng văn hóa mới mẻ nhất của nhân loại hôm nay càng thấy tầm vóc thiên tài của Hồ Chí Minh.
Bác dùng chữ rất giản dị nhưng rõ ràng, dễ hiểu, “sửa đổi” nghĩa là phải sửa lại, đổi thay lối làm việc, ai cũng có thể làm được. Nếu viết “Cách mạng lối làm việc” thì to tát quá và cũng không đúng với bản chất vấn đề vì Nhà nước mới đã ra đời 2 năm, tức lối làm việc mới đã có 2 năm rồi. Thế nên dùng “sửa đổi” là đúng nhất, lối làm việc mới đã có rồi nhưng nay phải sửa lại, đổi thay cho phù hợp.
Toàn bộ tác phẩm “Sửa đối lối làm việc” là những ưu tư, nỗi khắc khoải của Người với mong muốn cán bộ, đảng viên nhận thức đúng được vị trí, vai trò của mình để làm việc, cống hiến vì hạnh phúc nhân dân, Bác yêu cầu những cán bộ Cách mạng phải trung thành tuyệt đối với lý tưởng, mục tiêu cao cả Đảng là suốt đời rèn luyện đạo đức cách mạng để phục vụ nhân dân, Bác nói “người lãnh đạo là người đầy tớ của nhân dân”.
Với tác phẩm này, Bác trang bị cho các đồng chí của mình những thước đo, tiêu chuẩn đạo đức nhằm thu hút sự ủng hộ của nhân dân để tập trung nguồn lực cho kháng chiến và đồng thời, để cán bộ cách mạng sửa chữa những thói hư tật xấu thường có trong mỗi con người, để rèn luyện và nêu cao đạo đức cách mạng của đảng cầm quyền.
Người quan niệm: Cán bộ cách mạng là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành; đồng thời báo cáo tình hình của dân cho Chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng; từ đó Người xem cán bộ là cái “gốc” của mọi công việc; công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay xấu có ảnh hưởng quyết định tạo nên.
Người cũng nghiêm khắc phê bình những khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ, đồng thời đề ra những quan điểm và giải pháp về vấn đề này, trong đó có việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trở thành những người có văn hóa, tri thức, nghiệp vụ và đạo đức cách mạng.
Bác viết dung dị nhưng lập luận chặt chẽ, câu từ sâu sắc, toàn diện. Cả 6 phần Bác đều nêu những khuyết điểm của cán bộ đảng viên; nhưng tập trung nhất là phần III – Tư cách và đạo đức cách mạng, và đây cũng là phần có vị trí đặc biệt quan trọng và có độ dài nhất trong tác phẩm của Người.
Ở đây, Bác yêu cầu mỗi đảng viên phải thực hiện một cách nghiêm túc mối quan hệ giữa lời nói và việc làm “chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành” và nêu nhiệm vụ cụ thể của mỗi cán bộ đảng viên phải làm gì, làm như thế nào để thực hành lý luận.
Bác viết “Vô luận thế nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng”. Trái lại, những cán bộ, đảng viên nào “ham muốn địa vị, tìm cách phát tài, ra mặt anh hùng, tự cao tự đại..vv đó đều là trái với lợi ích của Đảng”, Bác lấy “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” là những phẩm chất cơ bản của đạo đức cách mạng; đó là cơ sở, cái cốt lõi để thực hành lý luận.
Người cũng chỉ rõ, trong Đảng ta còn có những người chưa học được, chưa làm được bốn chữ “Chí công vô tư”, cho nên mắc phải chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa này như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các chứng bệnh nguy hiểm.
Ở phần tiếp theo, Bác phê phán thói làm việc lề mề chậm chạp, thiếu khoa học, tác giả giễu những người “lười biếng, chậm chạp”: “Khi thi hành, kềnh kềnh càng càng, không hoạt bát nhanh chóng. Hoặc thi hành một cách miễn cưỡng, không sốt sắng, không đến nơi đến chốn. Kết quả nhỏ là: nghị quyết đầy túi áo, thông cáo đầy túi quần. Đó là vì tính lười biếng, chậm chạp. Vì không hiểu rằng: Đảng cũng như thân thể một con người. Mệnh lệnh và nghị quyết cũng như mạch máu. Mạch máu chạy đều khắp thân thể thì người mạnh khoẻ. Mạch máu dừng lại đâu, không chạy thì chỗ đó sẽ tê liệt, sinh bệnh”.
Lời văn là lời ăn tiếng nói của nông dân, sinh động như một đoạn văn vần dễ nhớ với các từ láy toàn bộ “kềnh kềnh càng càng”, láy phụ âm “sốt sắng”, nhất là cách gieo vần của ca dao “nghị quyết đầy túi áo, thông cáo đầy túi quần”.
Tuy nhiên, cách so sánh thì thật sự bác học, là cách nói của nhà chính trị hiểu sâu kiến thức khoa học y khoa: “Đảng cũng như thân thể một con người. Mệnh lệnh và nghị quyết cũng như mạch máu. Mạch máu chạy đều khắp thân thể thì người mạnh khoẻ”. Không chỉ đúng ở thời đó, ở thời đại thông tin bùng nổ hôm nay càng đúng!
Lối so sánh lấy điểm tựa là quy luật tự nhiên để nói về quy luật của cách mạng, của con người nên chắc chắn, thuyết phục, thấm thía: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Quy luật của sông nước, cây cối này như một sự hiển nhiên đem so sánh với “người cách mạng”, thì cũng là sự hiển nhiên như vậy!
Nhìn từ góc độ con chữ sẽ thấy các chữ “thiết thực”, “cốt” được tác giả nhắc đi nhắc lại nhiều lần như một lời nhắn thiết tha: phải đề cao tính mục đích (cốt), phải thiết thực phê bình sửa chữa cũng như phê bình sửa chữa phải thiết thực!
Đọc “Tư cách và đạo đức cách mạng” trong “Sửa đổi lối làm việc” chúng ta càng hiểu và thấm nhuần hơn tư tưởng phấn đấu tu dưỡng của mỗi cán bộ cách mạng, để có đủ đức, đủ tài, đủ phẩm chất đạo đức cách mạng, lãnh đạo bằng đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng vào hiện thực cuộc sống.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là ánh sáng soi đường cho dân tộc ta, đất nước ta vững bước đi lên con đường hạnh phúc của Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa cộng sản thì tác phẩm Sửa đổi lối làm việc là ánh sáng cho những cuộc chỉnh đốn rất cần thiết để Đảng khỏe mạnh hơn, phục vụ dân tốt hơn!
Mẫu Phân Tích Tác Phẩm Sửa Đổi Lối Làm Việc Tiêu Biểu – Mẫu 2
Bằng trái tim, khối óc tinh tường và mẫn cảm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấu suốt những vấn đề đặt ra của một dân tộc vừa giành được độc lập, tự do; những khuyết điểm, chứng bệnh, thói tật tiêu cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Chính vì vậy, dù bận trăm công nghìn việc và dành nhiều tâm trí chỉ đạo cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh, với bút danh X.Y.Z., đã viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc làm tài liệu cho tổ chức đảng các cấp và cán bộ, đảng viên học tập, rèn luyện, tu dưỡng.
Tác phẩm hoàn thành tháng 10-1947, đề cập đến công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng; yêu cầu từng tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên phải sửa đổi từ tư tưởng đến hành động, bảo đảm thích ứng với yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.
Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong tác phẩm không chỉ có giá trị lý luận, mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc trong việc xây dựng hệ giá trị chuẩn mực cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng và con người Việt Nam nói chung hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ giá trị lịch sử, truyền thống văn hóa, đất nước, con người Việt Nam cả những mặt mạnh và hạn chế. Chính vì vậy, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người đã chỉ ra những mặt hạn chế, khuyết điểm, chứng bệnh, thói tật tiêu cực cụ thể cùng với nguyên nhân và tác hại để cán bộ, đảng viên nghiên cứu kỹ, nhận thức rõ mà cố gắng sửa chữa.
Đầu tiên là bệnh chủ quan, bệnh kiêu ngạo. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguyên nhân của bệnh chủ quan là: “Kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông”. Vì chủ quan mới sinh ra bệnh kiêu ngạo, đó là “Tự cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tâng bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai cũng không bằng mình”
Do chủ quan, kiêu ngạo nên rất sợ phê bình, Người viết: “Không thèm học hỏi quần chúng, không muốn cho người ta phê bình. Việc gì cũng muốn làm thầy người khác”; “Sợ phê bình, tức là “quan liêu hóa”, tức là tự mãn tự túc, tức là “mèo khen mèo dài đuôi””.
Thứ hai là bệnh hẹp hòi. Hẹp hòi là thường chỉ biết đến mình, không có tinh thần hợp tác. Hẹp hòi cùng với tính gia trưởng sẽ dẫn đến áp đặt ý muốn chủ quan của mình cho người khác, tạo nên tư tưởng thứ bậc theo kiểu “sống lâu lên lão làng”.
Hẹp hòi còn sinh ra bệnh bè phái, kéo bè kéo cánh đi đến chia rẽ, gây mất đoàn kết, làm cho bộ máy quản lý bị vô hiệu; đồng thời, sinh ra bệnh cục bộ địa phương, địa phương nào vun vén cho địa phương ấy, làm suy yếu sự hợp tác.
Chính vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi bệnh hẹp hòi là một thứ bệnh nặng trong Đảng, sinh ra nhiều bệnh khác: “Trong, thì bệnh này ngăn trở Đảng thống nhất và đoàn kết. Ngoài, thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân. Nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa, v.v., đều do bệnh hẹp hòi mà ra!”
Thứ ba là bệnh khai hội. Có thể hiểu đây là bệnh hình thức. “Đó cũng vì bệnh xa quần chúng, bệnh hình thức, khai hội lấy lệ, khai hội để mà khai hội, chớ nào phải vì lợi ích của quần chúng mà khai hội!”
Liên quan đến bệnh “khai hội”, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra bệnh “hữu danh, vô thực” là loại bệnh: “Làm việc không thiết thực, không từ chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm lên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm được ít suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch”.
Điều đó dẫn đến hậu quả: “Thế là không làm tròn nhiệm vụ của mình. Thế là dối trá với Đảng, có tội với Đảng. Làm việc không thiết thực, báo cáo không thật thà, cũng là một bệnh rất nguy hiểm”.
Ngày nay, trong xã hội ta, không những bệnh hình thức vẫn chưa được đẩy lùi, mà còn có thêm bệnh phong trào. Đây là hiện tượng chạy theo người khác, ngành khác, địa phương khác một cách thiếu cân nhắc vào năng lực, điều kiện, hoàn cảnh và nhu cầu cụ thể của mỗi ngành, mỗi địa phương, do đó, thường không hiệu quả, lãng phí các nguồn lực.
Thứ tư là bệnh nể nang, đây là thứ bệnh không dám nói thẳng, nói thật, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh. Điều này có ảnh hưởng từ văn hóa trọng tình của người Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra căn bệnh này của cán bộ, đảng viên: “Vì họ hàng quen biết, bầu bạn, thân thích, anh em, cho nên lúc họ có sai lầm cũng cứ nể nang không thiết thực phê bình, thiết thực sửa đổi, sợ mất lòng”
Tiếp theo là bệnh tham lam. Những cán bộ, đảng viên được giao giữ trọng trách lãnh đạo, quản lý, nhất là những lĩnh vực có nhiều lợi ích, nếu bản lĩnh không vững vàng dễ bị cám dỗ, dễ sinh lòng tham.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Những người mắc phải bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà chỉ “tự tư tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình. Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. Tiền bạc đó ở đâu ra? Không xoay của Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ đen buôn lậu. Không sợ mất thanh danh của Đảng, không sợ mất danh giá của mình”.
Ngày nay, bệnh tham lam được cho là một trong những nguyên nhân dẫn đến bệnh tham nhũng. Đảng và Nhà nước ta đang chống căn bệnh này rất quyết liệt.
Bệnh thứ sáu là bệnh thiếu kỷ luật. Căn bệnh này nếu xuất hiện ở đội ngũ cán bộ, đảng viên thì hậu quả nghiêm trọng và nguy hiểm là dẫn đến làm mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Bệnh thiếu kỷ luật trong Đảng là một trong những nguyên nhân chính sinh ra bệnh thiếu ý thức thực thi nghiêm pháp luật trong xã hội.
Tiếp theo là bệnh cận thị. Có thể hiểu đây là bệnh tủn mủn, thiếu tầm nhìn. Bệnh này làm cho con người ta thường bỏ qua cái tổng thể, sa đà vào các tiểu tiết, nhìn thấy cái nhỏ mà bỏ qua cái lớn, nhìn thấy cái trước mắt mà bỏ qua cái lâu dài, nhìn thấy cái gần mà bỏ qua cái xa, không biết tính toán, định liệu, mọi thứ loay hoay giậm chân tại chỗ, công việc kém hiệu quả, sinh ra chủ quan, “đến đâu hay đến đó”, “nước đến chân mới nhảy”.
Bệnh thứ tám là bệnh bệnh xu nịnh, a dua. Đối với những căn bệnh này của cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn chỉ rõ: “Lại có những người trước mặt thì ai cũng tốt, sau lưng thì ai cũng xấu. Thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm, không có khí khái”. Người yêu cầu: “Kiên quyết chống thói nể nang và che giấu, chống thói “trước mặt thì nể, kể lể sau lưng””.
Căn bệnh thứ 9 nên tránh là bệnh cá nhân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện của bệnh cá nhân thể hiện dưới nhiều hình thức, chẳng hạn như “mặc kệ”, mà người dân đã đúc kết thành nhiều câu, như “ôm rơm rặm bụng”, “cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại”, “sống chết mặc bay”, “mũ ni che tai”…
Căn bệnh này càng nguy hiểm khi mà đội ngũ cán bộ, đảng viên mắc phải, bởi “mắc phải bệnh đó thì dễ đi đến chỗ để lợi ích cá nhân lên trên, để lợi ích của Đảng và dân tộc xuống dưới”. Người đánh giá: “Đó là thái độ của những đảng viên và cán bộ ươn hèn yếu ớt”.
Bệnh tị nạnh cũng là vấn đề quan trọng. Bệnh tị nạnh là không muốn cho ai hơn mình, làm triệt tiêu mọi sáng kiến, sinh ra bệnh kèn cựa, ghen ăn tức ở, đó là: “Con gà tức nhau tiếng gáy”, “Trâu buộc ghét trâu ăn”,….Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nguyên nhân của thứ bệnh này là do nhiều người không hiểu rõ hai chữ “bình đẳng”: “Cái gì cũng muốn “bình đẳng”.
Ngoài ta, chúng ta cần chống thói ba hoa. Chủ tịch Hồ Chí Minh dành hẳn phần VI của tác phẩm Sửa đổi lối làm việc để nói về việc chống thói ba hoa. Người cho rằng, đây là một trong những chứng bệnh rất nguy hiểm.
Người phân tích chứng bệnh này thể hiện ở cách nói: Dài dòng, rỗng tuếch; có thói “cầu kỳ”; khô khan, lúng túng; báo cáo lông bông; lụp chụp, cẩu thả; bệnh theo “sáo cũ”; nói không ai hiểu; bệnh hay nói chữ.
Có thể nói, tác phẩm Sửa đổi lối làm việc đã nêu ra hầu hết các khuyết điểm, chứng bệnh, thói tật tiêu cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên thường mắc phải và cách khắc phục. Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo, chỉ cần mắc một bệnh là hỏng việc và gây tác hại cho Đảng, cho Chính phủ và nhân dân.
Chính vì vậy, Người yêu cầu: “Vì vậy, ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế, Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công”.
Điều đó cũng có nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra vấn đề cần xây dựng hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam trong xã hội mới.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên cần tích cực nghiên cứu, học tập, quán triệt những chỉ dẫn của Người trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, từ đó, có những nhận thức, hành động thiết thực, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi những khuyết điểm, chứng bệnh, thói tật tiêu cực, hình thành những giá trị, chuẩn mực mới thích ứng với yêu cầu trong bối cảnh mới.
Tham khảo thêm tác phẩm ❤️️Vi Hành [Nguyễn Ái Quốc]❤️️Nội dung, ý nghĩa