40+ Bài Thơ Đường Trung Quốc Hay, Nổi Tiếng Nhất

Tuyển Tập 40+ Bài Thơ Đường Trung Quốc Hay, Bất Hủ Nhất Về Tình Yêu, Cuộc Sống, Trăng… Nhiều Chủ Đề Của Các Tác Giả Nổi Tiếng.

Thơ Đường Là Gì ?

Thơ Đường, hay còn gọi là Đường thi (唐詩), là toàn bộ thơ ca được sáng tác trong thời kỳ nhà Đường (618-907) ở Trung Quốc. Đây là một trong những thời kỳ hoàng kim của văn học Trung Quốc, với sự phát triển mạnh mẽ và phong phú của thi ca.

Đặc điểm của Thơ Đường

  1. Ngôn ngữ và hình thức:
    • Thơ Đường thường được viết bằng chữ Hán, với ngôn từ trang nhã và cấu trúc chặt chẽ.
    • Các thể thơ phổ biến bao gồm ngũ ngôn (5 chữ mỗi câu) và thất ngôn (7 chữ mỗi câu), với các thể loại như tuyệt cú (4 câu) và bát cú (8 câu).
  2. Nội dung:
    • Thơ Đường thường miêu tả thiên nhiên, tình yêu, lòng yêu nước, và các triết lý sống.
    • Các bài thơ thường thể hiện tâm trạng, cảm xúc của tác giả qua những hình ảnh và biểu tượng phong phú.
  3. Phong cách:
    • Thơ Đường nổi tiếng với sự chắt lọc về ngôn từ, sâu sắc về ý tứ và giàu chất trữ tình
    • Các nhà thơ nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ, và Bạch Cư Dị đã để lại nhiều tác phẩm kinh điển, mỗi người có phong cách riêng biệt.

    Các giai đoạn của Thơ Đường

    Thơ Đường có thể chia thành bốn giai đoạn chính:

    1. Sơ Đường (618-713): Thời kỳ đầu với những nhà thơ như Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân.
    2. Thịnh Đường (714-766): Thời kỳ phát triển rực rỡ với các nhà thơ nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ.
    3. Trung Đường (766-835): Thời kỳ tiếp nối với những tác phẩm của Bạch Cư Dị, Nguyên Chẩn.
    4. Vãn Đường (835-907): Thời kỳ cuối với sự xuất hiện của nhiều nhà thơ mới nhưng không còn rực rỡ như trước.

    Dưới đây là một bài thơ nổi tiếng của Lý Bạch:

    床前明月光,
    疑是地上霜。
    举头望明月,
    低头思故乡。

    Dịch nghĩa:

    Ánh trăng sáng trước giường,
    Ngỡ là sương trên mặt đất.
    Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
    Cúi đầu nhớ cố hương.

    Thơ Đường không chỉ là một phần quan trọng của văn học Trung Quốc mà còn có ảnh hưởng sâu rộng đến văn học Việt Nam và nhiều nước khác.

    Tìm Hiểu Về Thơ Đường Trung Quốc

    Cùng Tìm Hiểu Về Thơ Đường Trung Quốc được chia sẻ chi tiết qua các thông tin sau đây:

    Thơ Đường có thể chia ra làm 4 giai đoạn: Sơ Đường (618 – 713), Thịnh Đường (714 – 766), Trung Đường (766 – 835), Vãn Đường (835 – 907).

    Thời Sơ Đường, các nhà thơ mệnh danh là “Tứ kiệt” gồm Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương và Vương Bột đã đổi được phần nào phong khí uỷ mị của thơ các triều đại trước.

    Tới Trần Tử Ngang thì có phong trào đổi mới thi ca theo tinh thần phong nhã của “Kinh thi” và “phong cốt Hán Nguỵ”, chủ trương làm thơ phải có “ký thác”, nghĩa là nói lên tâm tình của mình, ghi lại cảm xúc thật sự của mình trước hiện thực đời sống, bỏ hẳn thơ sắc tình đời Lục triều, và thơ ca công tụng đức, thơ ứng chế của một số nhà thơ đầu đời Đường như Thẩm Thuyên Kỳ, Tống Chi Vấn. Các nhà thơ sau Trần Tử Ngang làm thơ “ký thác” đều theo 2 khuynh hướng chính là trữ tình, lãng mạn, hoặc hiện thực xã hội. Ba đại biểu lớn là Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị.

    Màu sắc phong cách của các nhà thơ đời Đường rất khác nhau, tuỳ người sáng tác theo đạo Nho, đạo Phật hoặc theo Lão Trang.

    Thơ Đường có loại thơ như sau: “biên tái” (Cao Thích, Sầm Than sáng tác), thơ “điền viên” (Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên sáng tác), thơ “tân nhạc phủ” (Bạch Cư Dị, Nguyên Chẩn sáng tác), thơ “chính nhạc phủ” đời Vãn Đường (sáng tác Bì Nhật Hưu, Đỗ Tuấn Hạc) và theo khuynh hướng hiện thực (Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị sáng tác).

     Đón đọc thêm 🌿  Thơ Trung Quốc 🌿 mới nhất

    Những Bài Thơ Đường Trung Quốc Nổi Tiếng Nhất

    Sau đây là Những Bài Thơ Đường Trung Quốc Nổi Tiếng Nhất được sưu tầm để giới thiệu đến bạn đọc cùng tham khảo:

    春日雪酬潘孟陽回文 – “Xuân nhật tuyết” thù Phan Mạnh Dương hồi văn
    Tác giả: Quyền Đức Dư

    酒杯春醉好,
    飛雪晚庭閒。
    久憶同前賞,
    中秋對遠山。

    山遠對秋中,
    賞前同憶久。
    閒庭晚雪飛,
    好醉春杯酒。

    Dịch nghĩa

    Ngày xuân uống say chén rượu,
    Buổi chiều tuyết bay trong sân nhàn.
    Nhớ mãi khi cùng thưởng thức,
    Trước ngọn núi xa trong tiết trung thu.

    Trước ngọn núi xa trong tiết trung thu,
    Nhớ mãi khi cùng thưởng thức.
    Buổi chiều tuyết bay trong sân nhàn,
    Ngày xuân uống say chén rượu.

    亞枝紅 – Á chi hồng
    Tác giả: Nguyên Chẩn

    平陽池上亞枝紅,
    悵望山郵事事同。
    還向萬竿深竹里,
    一枝渾臥碧流中。

    Dịch nghĩa

    Một nhành hoa đỏ thắm đang rủ sát mặt ao đất Bình Dương,
    Buồn mọi sự việc nơi các quán dịch đều nhàm chán như nhau.
    Chạnh nhớ về chốn cũ có luỹ tre xanh um tùm,
    Với cành hoa đỏ thắm rủ sát mặt nước biếc gợn sóng.

    惡樹 – Ác thụ
    Tác giả: Đỗ Phủ

    獨繞虛齋徑,
    常持小斧柯。
    幽陰成頗雜,
    惡木剪還多。
    枸杞因吾有,
    雞棲奈汝何。
    方知不材者,
    生長漫婆娑。

    Dịch nghĩa

    Chỉ có nó trên con đường quanh phòng trống,
    Thường cầm dao dài chặt cành nhỏ.
    Nơi tối tăm cứ dần thành um tùm,
    Cây xấu chặt rồi lại mọc dữ.
    Vì ta có sẵn cây cẩu kỷ,
    Nên gà tới đậu biết làm sao.
    Thế mới rõ cái thứ bất tài,
    Lại chóng lớn tốt bề bề.

    欸乃曲其一 – Ai nãi khúc kỳ 1
    Tác giả: Nguyên Kết

    偶存名跡在人間,
    順俗與時未安閑。
    來謁大官兼問政,
    扁舟卻入九疑山。

    Dịch nghĩa

    Ngẫu tồn danh tích tại nhân gian,
    Thuận tục dữ thì vị an nhàn.
    Lai yết đại quan kiêm vấn chính,
    Biển chu khước nhập Cửu Nghi san.

    安貧 – An Bần
    Tác giả: Hàn Ốc

    手風慵展八行書,
    眼暗休尋九局圖。
    窗裏日光飛野馬,
    案頭筠管長蒲盧。
    謀身拙為安蛇足,
    報國危曾捋虎須。
    舉世可能無默識,
    未知誰擬試齊竽。

    Dịch nghĩa

    Tay đau nên làm biếng viết thư,
    Mắt kém nên nghỉ chơi cờ.
    Nắng chiếu bụi bay ngoài song cửa,
    Con ong mình dài đậu trên ống sáo tre.
    Mưu sinh chỉ làm việc vẽ rắn thêm chân,
    Làm việc quan đã từng vuốt râu cọp.
    Trên đời không còn ai biết người tài hay sao?
    Chưa kể tới có người còn tiến cử kẻ bất tài.

    安定城樓 – An Định thành lâu
    Tác giả: Lý Thương Ẩn

    迢遞高城百尺樓,
    綠楊枝外盡汀洲。
    賈生年少虛垂涕,
    王粲春來更遠遊。
    永憶江湖歸白髮,
    欲回天地入扁舟。
    不知腐鼠成滋味,
    猜意鵷雛竟未休。

    Dịch nghĩa

    Lầu trăm thước trong thành cao chót vót,
    Hàng dương liễu xanh um tới tận bãi sông.
    Giả Sinh còn trẻ đã phải rơi lệ,
    Vương Xán khi xuân về vẫn phải xa nhà.
    Mãi mong cảnh tóc bạc quy ẩn giang hồ,
    Muốn thu trời đất vào trong chiếc thuyền con.
    Biết đâu rằng chuột thối lại thành ra món ngon,
    Người đời vẫn không ngừng ghen ghét chim phượng hoàng.

    Gửi đến bạn chùm 🌾 Thơ Trung Quốc Về Hoa 🌾 đặc sắc

    Những Bài Thơ Đường Của Trung Quốc Bất Hủ

    Mời bạn đọc thưởng thức thêm những bài Những Bài Thơ Đường Của Trung Quốc Bất Hủ nổi tiếng sau đây:

    安南送曹別敕歸朝 – An Nam tống Tào Biệt Sắc quy triều
    Tác giả: Cao Biền

    雲水蒼茫日欲收,
    野煙深處鷓鴣愁。
    知君萬里朝天去,
    為說征南已五秋。

    Dịch nghĩa

    Mây nước xanh bao la, nắng sắp tắt,
    Chim chá cô kêu buồn thảm trong sương khói miền xa xôi cùng cực này.
    Được biết ông sắp ra đi vạn dặm trên đường trở về chầu vua,
    Xin tâu giùm là tôi đi nam đã được 5 năm rồi.

    鸚鵡 – Anh Vũ
    Tác giả: La Ẩn

    莫恨雕籠翠羽殘,
    江南地暖隴西寒。
    勸君不用分明語,
    語得分明出轉難。

    Dịch nghĩa

    Đừng có hờn giận lông xanh rụng trong lồng quý,
    Đất Giang Nam ở đây ấm áp mà Lũng Tây (quê mi) thì lạnh lẽo.
    Khuyên mi đừng có nói hết mọi sự thật,
    Vì mọi sự thật nói ra hết, mi sẽ gặp tai hoạ.

    鸚鵡洲 – Anh Vũ châu
    Tác giả: Lý Bạch

    鸚鵡來過吳江水,
    江上洲傳鸚鵡名。
    鸚鵡西飛隴山去,
    芳洲之樹何青青。
    煙開蘭葉香風暖,
    岸夾桃花錦浪生。
    遷客此時徒極目,
    長洲孤月向誰明?

    Dịch nghĩa

    Chim anh vũ xưa bay đến sông Ngô
    Bãi trên sông mới truyền lại tên Anh Vũ
    Chim anh vũ đã bay về Tây qua núi Lũng
    Bãi thơm cây xanh biếc làm sao!
    Khói toả ra từ lá cây lan làm gió thơm nổi dậy
    Bờ liền với hoa đào, sóng gấm sinh
    Lúc ấy người đi đày trông hoài cõi xa
    Trên bãi dài mảnh trăng cô đơn còn soi sáng cho ai.

    鸚鵡洲送王九之江左 – Anh Vũ châu tống Vương Cửu chi Giang Tả
    Tác giả: Mạnh Hạo Nhiên

    昔登江上黃鶴樓,
    遙愛江中鸚鵡洲。
    洲勢逶迤繞碧水,
    鴛鴦鸂鶒滿灘頭。
    灘頭日落沙磧長,
    金沙熠熠動飆光。
    舟人牽錦纜,
    浣女結羅裳。
    月明全見蘆花白,
    風起遙聞杜若香。
    君行泰泰莫相忘。

    Dịch nghĩa

    Xưa có lên lầu Hoàng Hạc trên bờ
    Từ xa đã yêu thích bãi Anh Vũ trong sông
    Hình thế bãi uốn khúc bao quanh bởi nước xanh
    Chim uyên ương vịt nước đầy đầu bãi
    Mặt trời lặn trên doi đất dài
    Cát vàng lấp lánh bởi nắng quái chiều hôm
    Người chài kéo dây thuyền nhiều màu sắc
    Những cô giặt vải kết lại những chiếc xiêm lụa
    Trăng sáng thấy toàn bông lau trắng
    Gió thổi thoang thoảng mùi hương hoa lan đỗ nhược
    Anh lên đường bình yên và nhớ đừng quên…

    飲李十二宅 – Ẩm Lý thập nhị trạch
    Tác giả: Trương Kế

    重門敝春夕,
    燈燭靄余煇。
    醉我百尊酒,
    留連夜未歸。

    Dịch nghĩa

    Nhà nhà làm buổi chiều xuân kém đi,
    Đèn đuốc và mây làm ta ngột ngạt.
    Uống cả trăm chén ta đã say,
    Chủ nhà cứ giữ lại, liền mấy tối chưa cho về.

    Bật mí nội dung ❤️️  Thơ Chữ Hán ❤️️ nổi tiếng

    Tuyển Tập Thơ Đường Trung Quốc Ngắn Hay

    Tham khảo thêm Tuyển Tập Thơ Đường Trung Quốc Ngắn Hay được chia sẻ sau đây nhé!

    飲酒看牡丹 – Ẩm tửu khán mẫu đơn
    Tác giả: Lưu Vũ Tích

    今日花前飲,
    甘心醉數杯。
    但愁花有語,
    不為老人開。

    Dịch nghĩa

    Hôm nay uống rượu bên hoa
    Vui lòng say sưa mấy chén
    Chỉ e hoa sẽ nói:
    Không phải nở cho người già.

    恩制賜食於麗正殿書院宴賦得林字 – Ân chế tứ thực ư Lệ Chính điện thư viện yến phú đắc “lâm” tự
    Tác giả: Trương Duyệt

    東壁圖書府,
    西園翰墨林。
    誦詩聞國政,
    講易見天心。
    位竊和羹重,
    恩叨醉醴深。
    載歌春興曲,
    情竭為知音。

    Dịch nghĩa

    Phủ Đông Bích chứa sách
    Vườn phía Tây nhiều nho sĩ
    Đọc Kinh Thi biết việc nước
    Giảng Kinh Dịch hiểu lòng trời
    Chức vụ cao được vua trọng
    Ơn vua cuồn cuộn, (vừa) uống rượu say sưa
    vừa hát khúc nhạc xuân
    Tận tình vì người tri âm.

    鷗 – Âu
    Tác giả: Đỗ Phủ

    江浦寒鷗戲,
    無他亦自饒。
    卻思翻玉羽,
    隨意點春苗。
    雪暗還須浴,
    風生一任飄。
    幾群滄海上,
    清影日蕭蕭。

    Dịch nghĩa

    Bến sông lạnh, vạc vui chơi,
    Chẳng làm gì mà đầy đủ.
    Không cần nghĩ khi lật bộ lông trắng như ngọc,
    Tuỳ ý mổ mạ non.
    Trắng như tuyết phủ sau khi tắm,
    Gió nổi lên một khi tung bay.
    Có bầy nào trên biển xanh,
    Lại ngày ngày thảnh thơi có hình ảnh trong sáng như thế?

    幼女詞 – Ấu nữ từ
    Tác giả: Thi Kiên Ngô

    幼女才六歲,
    未知巧與拙。
    向夜在堂前,
    學人拜新月。

    Dịch nghĩa

    Con gái nhỏ mới lên sáu tuổi,
    Chưa biết sẽ khéo léo hay vụng về.
    Nhưng ban đêm đứng trước nhà,
    Học người lớn van vái trăng non.

    巴童答 – Ba Đồng đáp
    Tác giả: Lý Hạ

    巨鼻宜山褐,
    龐眉入苦吟。
    非君唱樂府,
    誰識怨秋深?

    Dịch nghĩa

    Cự tỵ nghi sơn cát,
    Bàng my nhập khổ ngâm.
    Phi quân xướng nhạc phủ,
    Thuỳ thức oán thu thâm?

    柏學士茅屋 – Bá học sĩ mao ốc
    Tác giả: Đỗ Phủ

    碧山學士焚銀魚,
    白馬卻走身岩居。
    古人已用三冬足,
    年少曾開萬卷餘。
    晴雲滿戶團傾蓋,
    秋水浮階溜決渠。
    富貴必從勤苦得,
    男兒須讀五車書。

    Dịch nghĩa

    Trong núi xanh, vị học sĩ nảy nướng con cá mè,
    Ngựa trắng chạy khuất rồi, thân còn náu bên sườn núi.
    Người xưa đã dùng đủ ba năm.
    Khi còn trẻ từng mở hơn cả vạn quyển sách.
    Mây khô đầy cửa tụ lại làm nghiêng cả cột che,
    Nước vào mùa thu nổi gần thềm, tuôn xuống rãnh.
    Phú quý đương nhiên là kết quả sức lao động mà có,
    Thân trai nên đọc sách nhiều có thể chất đầy năm xe.

    巴陵夜別王八員外 – Ba Lăng dạ biệt Vương Bát viên ngoại
    Tác giả: Giả Chí

    柳絮飛時別洛陽,
    梅花發後到三湘。
    世情已逐浮雲散,
    離恨空隨江水長。

    Dịch nghĩa

    Khi hoa liễu bay, tôi dời Lạc Dương,
    Đến khi tôi tới Tam Tương thì hoa mai đã tàn rồi.
    Tình đời mau phai nhạt như đám mây trôi,
    Nhưng tình cảm lúc biệt ly thì còn mãi như dòng sông.

    Tặng bạn chùm 💜 Thơ Hán Việt 💜 hay nhất

    Thơ Đường Trung Quốc Về Tình Yêu Đặc Sắc

    Thohay.vn sẽ giới thiệu đến bạn chùm Thơ Đường Trung Quốc Về Tình Yêu Đặc Sắc và hay nhất dưới đây:

    月夜 – Nguyệt Dạ
    Tác giả: Đổ Phủ

    今夜鄜州月,
    闺中只独看.
    遥怜小儿女,
    未解忆长安.
    香雾云鬟湿,
    清辉玉臂寒.
    何时倚虚幌,
    双照泪痕干.

    Dịch thơ

    Châu Phu này lúc trăng soi,
    Buồng the đêm vắng riêng coi một mình.
    Đoái thương thơ dại đầu xanh,
    Tràng An chưa biết mang tình nhớ nhau.
    Sương sa thơm ướt mái đầu,
    Cánh tay ngọc trắng lạnh màu sáng trong.
    Bao giờ tựa bức màn không,
    Gương soi chung bóng lệ dòng dòng khô.

    Hoa Sơn Kỳ
    Tác giả: Bạch Cư Dị

    哭到天亮,
    眼泪掉下来,枕头飘起来,
    身体下沉,毯子飘走。

    告别老老码头,
    长江不应该满,
    我的泪水溢出眼眶。

    Dịch nghĩa

    Khóc đến rạng ngày,
    Nước mắt rơi khiến nổi cả gối,
    Thân chìm đắm, chăn trôi đi mất.

    Tiễn nhau bên bến Lao Lao,
    Trường Giang chẳng nên đầy,
    Là nước mắt em tràn ngập.

    相思 – Tương Tư
    Tác giả: Vương Duy

    作者 – 王维 – 唐
    红豆生南国,
    春来发几枝?
    愿君多采撷,
    此物最相思!

    Dịch nghĩa

    Nước nam sinh đậu đỏ,
    Xuân về nở cành xinh.
    Chàng ơi hái nhiều nhé,
    Nhớ nhau tha thiết tình.

    秋风词 – Thu Phong Từ
    Tác giả: Lý Bạch

    秋风词
    秋风清,
    秋月明。
    落叶聚还三,
    寒鸦栖复惊。
    相思相见知何日,
    此时此夜难为情。

    Dịch nghĩa

    Gió thu thanh,
    Trăng thu sáng.
    Lá rụng lúc tụ lúc tán,
    Quạ lạnh đang đậu bỗng rùng mình.
    Nhớ nhau không biết ngày nào gặp,
    Lúc ấy đêm ấy chan chứa tình.

    Chia sẻ chùm 🌷 Thơ Trung Quốc Về Tình Yêu 🌷 lãng mạn

    Thơ Tiếng Trung Về Tình Yêu Đầy Cảm Xúc

    Xem thêm tuyển tập Thơ Tiếng Trung Về Tình Yêu Đầy Cảm Xúc được Thohay.vn sưu tầm sau đây:

    玉楼春-春恨: Ngọc Lâu Xuân
    Tác giả: Án Thù

    玉楼春-春恨
    绿杨芳草长亭路,
    年少抛人容易去。
    楼头残梦五更钟,
    花底离愁三月雨。
    无情不似多情苦,
    一寸还成千万缕。
    天涯地角有穷时,
    只有相思无尽处。

    Dịch thơ

    Liễu xanh cỏ ngát hương ngoài lộ
    Tuổi trẻ ra đi đâu có khó
    Trên lầu trằn trọc suốt năm canh
    Ly biệt tháng ba hoa ướt rũ

    Vô tình nào khổ tựa đa tình
    Một tấc tơ lòng muôn vạn mớ
    Chân trời mặt đất còn chia ngăn
    Chỉ có nhớ nhau không hạn chỗ

    断章 / Đoạn Chương

    你站在桥上看风景,
    看风景人在楼上看你。
    明月装饰了你的窗子,
    你装饰了别人的梦。

    Dịch nghĩa

    Em đứng trên cầu ngắm phong cảnh,
    Người đứng trên lầu ngắm phong cảnh lại ngắm nhìn em.
    Trăng sáng tô điểm của sổ phòng em
    Em tô điểm giấc mộng của người.

    红豆词: Hồng Đậu Từ
    Tác giả: Tào Tuyết Cần

    作者: 曹雪芹 – 清
    滴不尽相思血泪抛红豆
    开不完春柳春花满画楼
    睡不稳纱窗风雨黄昏后
    忘不了新愁与旧愁
    咽不下玉粒金波噎满喉
    瞧不尽镜里花容瘦
    展不开的眉头挨不明的更漏
    呀!
    恰便似遮不住的青山隐隐
    流不断的绿水悠悠

    Dịch thơ

    Còn chảy mãi lệ tương tư thẫm đỏ
    Hoa, liễu buồn thôi nở chốn lầu son,
    Không yên giấc, mưa gió ngoài song cửa
    sầu với sầu, tìm đến cuối hoàng hôn
    Nuốt chẳng trôi, những lời vàng tiếng ngọc
    Gương sáng soi khuôn mặt đã hao gầy
    Mày chau lại, mong canh thâu chóng hết
    Chao ôi!
    Non xanh thấp thoáng không ngăn được
    Nước biếc mênh mông trôi chẳng dừng.

    七夕 – Thất tịch
    Tác giả: Bạch Cư Dị

    煙霄微月澹長空,
    銀漢秋期萬古同。
    幾許歡情與離恨,
    年年並在此宵中。

    Dịch nghĩa

    Trăng mờ trời đạm khói lồng mây,
    Ngân Hán ngàn thu chẳng đổi thay.
    Bao nỗi hoan tình cùng ly hận,
    Hằng năm đều ở tại đêm nay.

    白头吟 / Bạch Đầu Ngân

    白头吟
    皑如山上雪,
    皎若云间月。
    闻君有两意,
    故来相决绝。
    今日斗酒会,
    明旦沟水头。
    躞蹀御沟上,
    沟水东西流。

    Dịch nghĩa

    Trắng như tuyết trên núi,
    Sáng như trăng ở trong mây.
    Nghe lòng chàng có hai ý,
    Nên thiếp quyết cắt đứt.
    Ngày hôm nay nâng chén sum vầy,
    Sớm mai đã đưa tiễn nhau ở bên sông.
    Đi lững thững trên dòng nước,
    Nước cứ chảy xuôi mãi từ đông về tây (mà không quay về).

    Gửi tặng bạn 🔻 Thơ Hán Việt Về Tình Yêu 🔻 lãng mạn

    Thơ Tiếng Trung Buồn Tâm Trạng

    Chia sẻ thêm chùm Thơ Tiếng Trung Buồn Tâm Trạng và mang nhiều cung bậc cảm xúc dưới đây:

    Trung thu nguyệt 中秋月
    Tác giả: Bạch Cư Dị

    萬里清光不可思
    添愁益恨繞天涯
    誰人隴外久徵戍
    何處庭前新別離
    失寵故姬歸院夜
    沒蕃老將上樓時
    照他幾許人腸斷
    玉兔銀蟾遠不知

    Dịch thơ

    Vời vợi trăng trong sáng dặm trường
    Nỗi buồn chất ngất giận thêm vương
    Người đi biên tái bao giờ lại ?
    Kẻ ở thềm xưa luống đoạn trường
    Thất sủng thứ phi về viện ở
    Tàn binh lão tướng ẩn cung tường
    Não nề trăng tỏ người đau xót
    Thỏ ngọc xa hay chuyện thế thường ?

    关雎 – Thuộc Thư Kinh
    Tác giả: Chưa rõ

    关关雎鸠、
    在河之洲。
    窈窕淑女、
    君子好逑。

    Dịch nghĩa

    Đôi chim thư cưu hót hoạ nghe quan quan,
    Ở trên cồn bên sông.
    Người thục nữ u nhàn,
    Phải là lứa tốt của bậc quân tử (vua).

    相思曲:Tương Tư Khúc
    Tác giả: Đới Thúc Luân

    作者:戴叔伦 – 唐。
    高楼重重闭明月,
    肠断仙郎隔年别。
    紫萧横笛寂无声,
    独向瑶窗坐愁绝。
    鱼沉雁杳天涯路,
    始信人间别离苦。
    恨满牙床翡翠衾,
    怨折金钗凤凰股。
    井深辘轳嗟绠短,
    衣带相思日应缓。
    将刀斫水水复连,
    挥刃割情情不断。
    落红乱逐东流水,
    一点芳心为君死。
    妾身愿作巫山云,
    飞入仙郎梦魂里。

    Dịch thơ

    Mảnh trăng thanh lầu cao che khuất
    Lòng đau vì xa cách nhiều năm
    Tiếng tiêu điệu sáo lặng im
    Một mình buồn bã ngóng nhìn phương xa
    Bên chân trời chim bay cá lặn
    Mòn mõi vì âm tín không về
    Chiếu chăn hờn oán não nề
    Kim thoa bẻ gãy lời thề còn đâu
    Giếng nước sâu mà giây thì ngắn
    Xiêm y buồn người chẳng điểm trang
    Dùng dao chém nước nước liền
    Kéo kia cắt đứt mối tình được không?
    Theo dòng nước loạn hồng trôi mãi
    Tấm tình em một phiến vì chàng
    Xin làm mây núi Vu Sơn
    Nhập sâu vào cõi mộng hồn người thương.

    淮上喜會梁川故人 – Hoài thượng hỷ hội Lương Xuyên cố nhân
    Tác giả: Vi Ứng Vật

    江漢曾為客,
    相逢每醉還。
    浮雲一別後,
    流水十年間。
    歡笑情如舊,
    蕭疏鬢已斑。
    何因北歸去?
    淮上對秋山

    Dịch nghĩa

    Trên sông Hoài mừng gặp bạn cũ đất Lương Xuyên
    Từng làm khách tại Giang Hán
    Mỗi lần gặp nhau uống rượu say mới về
    Sau khi chia tay, đời như mây trôi
    Thời gian như nước chảy, thấm thoắt đã mười năm
    Gặp lại nhau vui cười, tình vẫn như xưa
    Mái tóc đã điểm bạc
    Vì nguyên cớ gì không trở về
    Trên sông Hoài nhìn về núi mùa thu.

    Xem thêm tập ✳️ Thơ Buồn Cho Số Phận ✳️ con người

    Thơ Tiếng Trung Về Cuộc Sống Hay Nhất

    Tìm đọc thêm tập Thơ Tiếng Trung Về Cuộc Sống Hay Nhất được chia sẻ sau đây nhé!

    灞陵道中作 – Bá Lăng đạo trung tác
    Tác giả: Vi Trang

    春橋南望水溶溶,
    一桁晴山倒碧峰。
    秦苑落花零露濕,
    灞陵新酒撥醅濃。
    青龍夭矯盤雙闕,
    丹鳳褵褷隔九重。
    萬古行人離別地,
    不堪吟罷夕陽鐘。

    Dịch nghĩa

    Trên cầu xuân nhìn về phía nam nước mênh mông
    Một dãy núi quang tạnh đảo những đỉnh xanh (trên mặt nước)
    Vườn Tần hoa rụng sương rơi ướt
    Bá Lăng rượu mới, tan hết mùi nồng
    Rồng xanh bay lên trời chỉ còn đế trống ở hai cửa
    Phượng đỏ rời đi xa cách chín từng
    Từ vạn cổ là nơi người đi chia tay
    Ngâm thơ xong buồn không chịu được với tiếng chuông chiều.

    山居秋暝 / Sơn Cư Thu Minh
    Tác giả: Vương Duy

    山居秋瞑
    空山新雨后,
    天气晚来秋。
    明月松间照,
    清泉石上流。
    竹喧归浣女,
    莲动下渔舟。
    随意春芳歇,
    王孙自可留。

    Dịch nghĩa

    Ngọn núi vắng sau cơn mưa
    Thời tiết ban đêm đã là thu rồi
    Ánh trăng sáng chiếu qua rừng cây tùng
    Suối nước xanh chảy trên đá
    Nghe có tiếng trúc xào xạc mấy cô đi giặt áo về
    Tiếng lá sen xao động có người hạ thuyền xuống
    Tùy ý, hương xuân đã hết
    Các vương tôn muốn ở lại thì tự nhiên

    灞陵行送別 – Bá Lăng hành tống biệt
    Tác giả: Lý Bạch

    送君灞陵亭,
    灞水流浩浩。
    上有無花之古樹,
    下有傷心之春草。
    我向秦人問路跂,
    雲是王粲南登之古道。
    古道連綿走西京,
    紫闕落日浮雲生。
    正當今夕斷腸處,
    驪歌愁絕不忍聽。

    Dịch nghĩa

    Tiễn ông nơi đình Bá Lăng,
    Sông Bá chảy mênh mông.
    Trên cây cổ thụ không thấy hoa,
    Dưới đất cỏ xuân như lộ vẻ thương tâm.
    Tôi hỏi đường người đất Tần tại ngã rẽ chia tay,
    Đáp rằng chính là con đường xưa Vương Xán đi về nam.
    Đường cũ xa vời vợi dẫn tới Tây kinh,
    Mây chiều đang nổi trên hoàng cung.
    Đúng vào lúc chiều tà chia tay buồn đứt ruột,
    Ai hát bài “Ly Ca” không còn lòng dạ đâu mà nghe.

    野老歌 / Dã Lão Ca
    Tác giả: Trương Tịch

    老农家贫在山住,耕种山田三四亩。
    苗疏税多不得食,输入官仓化为土。
    岁暮锄犁傍空室,呼儿登山收橡实。
    西江贾客珠百斛,船中养犬长食肉。

    Dịch nghĩa

    Ông lão nhà nghèo ở trong núi,
    Cày cấy đất núi được ba bốn mẫu.
    Lúa ít đóng thuế nhiều nên không có lúa để ăn,
    Gom về kho quan để mốc thành đất.
    Cuối năm, cày bừa để dựa góc nhà trống không,
    Ông kêu con cháu lên núi hái hạt dẻ rừng về ăn.
    Nhà buôn ở Tây Giang kho báu có cả trăm hộc,
    Chó nuôi trên thương thuyền ngày nào cũng có thịt ăn.

    春中田园作 / Xuân Trung Điền Viên Tác
    Tác giả: Chưa rõ

    春中田园作
    屋上春鸠鸣,
    村边杏花白。
    持斧伐远扬,
    荷锄觇泉脉。
    归燕识故巢,
    旧人看新历。
    临觞忽不御,
    惆怅远行客。

    Dịch nghĩa

    Chim xuân cưu kêu trên mái nhà,
    Hoa hạnh trắng thông bên đang nở.
    Cầm rìu chặt cành vươn xa,
    Lấy cuốc khơi mạch suối.
    Chim én bay về nhận ra tổ cũ của mình,
    Người cũ xem lịch mới.
    Cầm chung rượu trên tay nhưng không uống,
    Xót thương người phương xa.

    Chia sẻ thêm chùm ✳️ Thơ Về Cuộc Sống Bình Yên ✳️ hay nhất

    Thơ Tiếng Trung Về Thầy Cô Ý Nghĩa

    Tham khảo thêm chùm Thơ Tiếng Trung Về Thầy Cô Ý Nghĩa và hay nhất sau đây:

    螃蟹詠-林黛玉 – Bàng giải vịnh
    Tác giả: Tào Tuyết Cần

    鐵甲長戈死未忘,
    堆盤色相喜先嘗。
    螯封嫩玉雙雙滿,
    殼凸紅脂塊塊香。
    多肉更憐卿八足,
    助情誰勸我千觴?
    對茲佳品酬佳節,
    桂拂清風菊帶霜。

    Dịch nghĩa

    Thiết giáp trường qua tử vị vong,
    Đôi bàn sắc tướng hỉ tiên thường.
    Ngao phong nộn ngọc song song mãn,
    Xác đột hồng chi khối khối hương.
    Đa nhục cánh liên khanh bát túc,
    Trợ tình thuỳ khuyến ngã thiên trường?
    Đối từ giai phẩm thù giai tiết,
    Quế phất thanh phong cúc đới sương.

    見 我 師 – Kiếp ngã Sư
    Tác giả: Chưa rõ

    回 鄉 見 我 師
    他 今 已 白 頭
    相 見 不 能 說
    相 感 別 亦 難

    Dịch nghĩa

    Về quê, gặp lại thầy tôi
    Nay mái tóc thầy đã bạc trắng
    Thầy trò nhìn nhau mà không nói nên lời
    Cùng dâng trào cảm xúc và thật khó khi phải nói lời chia tay.

    Xem thêm chùm 🌹 Thơ Về Thầy Cô 🌹 hay nhất

    Thơ Đường Trung Quốc Lớp 7 Cực Hay

    Chia sẻ đến bạn đọc tập Thơ Đường Trung Quốc Lớp 7 Cực Hay và được nhiều bạn đọc quan tâm đến sau đây:

    鸟鸣- Khe chim kêu
    Tác giả: Vương Duy

    有肉桂花和花生的人,
    是的,春天的油漆没有。
    月出山鸟,
    时间在中世纪。

    Dịch nghĩa

    Người nhàn, hoa quế rụng,
    Đêm yên tĩnh, non xuân vắng không.
    Trăng lên làm chim núi giật mình,
    Thỉnh thoảng cất tiếng kêu trong khe suối.

    茅屋為秋風所破歌 – Mao ốc vị thu phong sở phá ca
    Tác giả: Đỗ Phủ

    八月秋高風怒號,
    卷我屋上三重茅。
    茅飛渡江灑江郊,
    高者掛罥長林梢,
    下者飄轉沉塘坳。
    南村群童欺我老無力,
    忍能對面為盜賊。
    公然抱茅入竹去,
    唇焦口燥呼不得,
    歸來倚杖自歎息。
    俄頃風定雲墨色,
    秋天漠漠向昏黑。
    布衾多年冷似鐵,
    驕兒惡臥踏裡裂。
    床頭屋漏無干處,
    雨腳如麻未斷絕。
    自經喪亂少睡眠,
    長夜沾濕何由徹!
    安得廣廈千萬間,
    大庇天下寒士俱歡顏,
    風雨不動安如山!
    嗚呼!何時眼前突兀見此屋,
    吾廬獨破受凍死亦足!

    Dịch nghĩa

    Tháng tám, trời thu cao, gió giận dữ gào thét,
    Cuốn đi ba lớp cỏ tranh trên mái nhà ta.
    Cỏ tranh bay qua sông, rải xuống miền đất bên sông.
    Cao thì vắt vẻo treo trên ngọn cây rừng;
    Thấp thì tả tơi rơi chìm xuống ao nước.
    Lũ trẻ xóm nam khinh ta già yếu,
    Nhẫn tâm làm giặc cướp ngay trước mặt ta.
    Chúng công khai ôm cỏ tranh đi vào trong xóm trúc;
    Ta khô môi rát miệng, kêu thét mà không được.
    Trở về, chống gậy, thở than.
    Một lát sau, gió yên mây đen như mực.
    Trời thu bát ngát đen tối lúc chiều tà.
    Chiếc chăn vải dùng nhiều năm, lạnh như sắt,
    Bị đứa con thơ khó ngủ đạp rách toang.
    Ở đầu giường mái nhà dột, không chổ nào khô;
    Vết mưa nhiều như gai vẫn còn chưa hết.
    Từ khi gặp cơn loạn lạc, mình ít ngủ,
    Suốt đêm dài ướt đẫm, biết làm sao hết được!
    Mong sao có được ngàn vạn gian nhà lớn,
    Để giúp cho các hàn sĩ trong thiên hạ đều được vui vẻ,
    Không bị kinh động vì mưa gió, yên ổn như núi non!
    Hỡi ôi, biết bao giờ được trông thấy nhà này đứng cao sững trước mắt,
    Dù cho riêng nhà ta bị phá vỡ, mình có chịu rét đến chết, cũng thoả lòng!

    Thưởng thức thêm chùm 🌺 Thơ 5 Chữ Lớp 7 🌺 hay nhất

    Thơ Đường Trung Quốc Lớp 10 Ngắn

    Mời bạn theo dõi thêm chùm Thơ Đường Trung Quốc Lớp 10 Ngắn và đặc sắc nhất được chọn lựa sau đây:

    黃鶴樓送孟浩然之廣陵 – Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
    Tác giả: Lý Bạch

    故人西辭黃鶴樓,
    煙花三月下揚州。
    孤帆遠影碧空盡,
    惟見長江天際流。

    Dịch nghĩa

    Bạn cũ từ biệt tại lầu Hoàng Hạc đi về phía tây,
    Tháng ba hoa khói, xuống Dương Châu.
    Bóng chiếc buồm lẻ phía xa dần khuất vào trong nền trời xanh,
    Chỉ còn thấy dòng Trường Giang vẫn chảy bên trời.

    Cảm xúc mùa thu (Thu hứng)
    Tác giả: Đỗ Phủ

    玉道爱林,
    武山,武铠胡椒人参。
    江,三浪漫兼恶,
    再次出现惊天动地的格局。
    桐菊双测定,
    她是中心最细心的系统。
    来自国内的韩药停止了锁链,
    白帝城是一座高级墓碑。

    Dịch nghĩa

    Móc ngọc tơi bời ở rừng phong,
    Khí ở núi Vu và kẽm Vu ảm đạm mịt mờ.
    Trên sông, nước và trời cùng trôi chảy,
    Ngoài ải, gió và mây liên tiếp mù đất.
    Cúc từng chòm nở hai lần dòng lệ xưa,
    Thuyền lẻ loi buộc chặt mối tình quê cũ.
    Nơi nơi giục giã dao thước may áo rét,
    Tiếng chày chiều dồn dập thành cao Bạch Đế.

    Hứng trở về
    Tác giả: Nguyễn Trung Ngạn

    老丧尸变态到底,
    藻花香气主解。
    在家看苍鹭,
    虽然江南没有那么有说服力。

    Dịch nghĩa

    Dâu già lá rụng tằm vừa chín,
    Lúa sớm nở hoa thơm, cua đang lúc béo.
    Nghe nói ở nhà dẫu nghèo vẫn tốt,
    Đất Giang Nam tuy vui, cũng chẳng bằng về nhà.

    室友的怨恨- Nỗi oán của người phòng khuê
    Tác giả: Vương Xương Linh

    Khue Trung,不悔改的年轻女子,
    春天和日本很久没有可爱了。
    用锋利的柳条挑蚂蚁,
    互孝风水。

    Dịch nghĩa

    Người đàn bà trẻ nơi phòng khuê không biết buồn,
    Ngày xuân trang điểm lộng lẫy bước lên lầu đẹp.
    Chợt thấy màu (xuân) của cây dương liễu đầu đường,
    Hối hận đã để chồng đi tòng quân kiếm tước hầu.

    黃鶴樓 – Hoàng Lạc Lâu
    Tác giả: Thôi Hiệu

    昔人已乘黃鶴去,
    此地空餘黃鶴樓。
    黃鶴一去不復返,
    白雲千載空悠悠。
    晴川歷歷漢陽樹,
    芳草萋萋鸚鵡洲。
    日暮鄉關何處是,
    煙波江上使人愁。

    Dịch nghĩa

    Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
    Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc.
    Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại,
    Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không.
    Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một,
    Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi.
    Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
    Trên sông khói toả, sóng gợn, khiến người sinh buồn!

    Đón đọc thêm 💚 3 Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du 💚 nổi tiếng

    Viết một bình luận