Thơ Hoàng Tố Nguyên: Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ

Thơ Hoàng Tố Nguyên ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ ✅ Chia Sẻ Chi Tiết Về Cuộc Đời, Phong Cách Sáng Tác Của Hoàng Tố Nguyên.

Tiểu Sử Cuộc Đời Tác Giả Hoàng Tố Nguyên

Hoàng Tố Nguyên – một trong những nhà thơ nổi bật trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Hãy cùng Thohay.vn tìm hiểu chi tiết về tiểu sử cuộc đời tác giả Hoàng Tố Nguyễn ngay trong bài viết hôm nay nhé!

  • Hoàng Tố Nguyên, tên thật là Lê Hoằng Mưu, sinh năm 1929
  • Quê quán: Gò Me, làng Bình Ân, tổng Hòa Lạc Hạ, tỉnh Gò Công (nay là xã Bình Ân, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang).
  • Sau khi hoàn tất bậc tiểu học ở Gò Công và bậc trung học ở Trường Collège de Mitho (nay là Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu, TP Mỹ Tho), ông lên Sài Gòn học Trường Mỹ thuật Gia Định.
  • Ngày 23/9/1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Nam bộ bùng nổ. Theo tiếng gọi của non sông, ông gia nhập lực lượng vũ trang chiến đấu ở nội thành Sài gòn, rồi hoạt động văn nghệ và tuyên truyền.
  • Năm 1947 ông hoạt động bí mật ở nội thành Sài Gòn.
  • Từ năm 1947 – 1949, ông là Chủ tịch Hội học sinh Mỹ thuật kháng chiến Gia Định.
  • Năm 1949–1950, ông là cán bộ Ty thông tin Thủ Dầu Một. Là cán bộ tuyên truyền, ông vẽ tranh cổ động, làm thơ, viết báo.
  • Năm 1950–1952, ông làm Trưởng Ban Tuyên truyền Tỉnh đoàn Thanh niên Cứu quốc Thủ Dầu Một, Ủy viên Ban chấp hành phân hội văn nghệ liên tỉnh Thủ Biên (Thủ Dầu Một – Biên Hòa).
  • Năm 1952–1954, là cán bộ Sở thông tin Nam Bộ, biên tập viên báo Vì Chúa, vì Tổ quốc của Công giáo kháng chiến Nam Bộ.
  • Ông tập kết ra Bắc năm 1954, làm biên tập viên báo Văn nghệ, Ủy viên Thường trực Ban đại diện văn nghệ Nam Bộ.
  • Năm 1959, ông chuyển công tác về làm biên tập viên báo Độc lập.
  • Năm 1969, ông về xây dựng phong trào văn nghệ ở tỉnh Hà Tây;
  • Năm 1974 về công tác ở Hội Văn nghệ tỉnh Thái Bình.
  • Tháng 6/1975, ông mất tại Thái Bình sau một cơn bạo bệnh, hưởng dương 46 tuổi. 

Chia sẻ thêm về🌷Thơ Đỗ Trọng Khơi 🌷 Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ

Sự Nghiệp Sáng Tác Nhà Thơ Hoàng Tố Nguyên

Chia sẻ các nét chính trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Hoàng Tố Nguyên, bạn đọc có thể tham khảo.

  • Bắt đầu từ năm 1947 – 1949, ông ra vùng kháng chiến, làm Chủ tịch Hội Học sinh Mỹ thuật kháng chiến Gia Định. Mặc dù còn rất trẻ, nhưng trong thời gian này, ông đã có thơ đăng trên các báo. 
  • Thơ Hoàng Tố Nguyên đi vào thực tiễn cách mạng, kỹ thuật cao, truyền cảm cho người đọc. Thơ của ông nổi tiếng vì thơ có hình tượng sống mới, tiết tấu âm thanh mới, không dùng sáo ngữ, hoặc điển cố, như bài thơ Sa cơ của Thẩm Thệ Hà hoặc Hoàng Tấn với Giang san khói lửa mù bay
  • Năm 1969, theo sự phân công của Ủy ban Trung ương các Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, ông nhận nhiệm vụ xây dựng phong trào văn nghệ ở tỉnh Hà Tây; và sau đó là tỉnh Thái Bình vào năm 1974.
  • Thời gian này, sống trong cảnh “ngày Bắc đêm Nam”, ngoài việc tích cực gầy dựng hoạt động văn hóa văn nghệ ở địa phương, ông đã lao vào sáng tác một cách miệt mài và bền bỉ. Các truyện thơ và tập thơ của ông liên tiếp được ra đời, như Đổi đời (truyện thơ, 1955), Cô gái bần nông sông Hồng (truyện thơ, 1956), Đất nước (tập thơ, 1956), Gò Me (tập thơ, 1957), Từ nhớ đến thương (tập thơ, 1960), Quê chung (tập thơ, 1962), Gởi chiến trường chống Mỹ (1966).
  • Trong đó tập thơ “Gò Me” của Hoàng Tố Nguyên gồm 13 bài, xuất bản năm 1957 đã gây được tiếng vang lớn, tạo nên tên tuổi Hoàng Tố Nguyên. Nội dung tập thơ chủ yếu thể hiện tấm lòng thương nhớ quê hương của tác giả.

Phong Cách Sáng Tác Của Hoàng Tố Nguyên

Tìm hiểu thêm về phong cách sáng tác của Hoàng Tố Nguyên ngay sau đây bạn nhé!

Thơ của Hoàng Tố Nguyên có thể gom vào ba chủ đề lớn: đầu tiên là thơ về Bác Hồ – vị cha già dân tộc; thứ hai, thơ viết về miền Bắc xã hội chủ nghĩa, về những con người đã sản xuất và chiến đấu vì đồng bào miền Nam ruột thịt; thứ ba, thơ viết về miền Nam, trong đó có quê hương Gò Me thân thương của ông, đang quật khởi vùng lên, chống ách bạo tàn của bọn giặc ngoại xâm vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Trong những năm miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, thơ của ông tràn đầy niềm lạc quan trong chiến đấu và gian khổ, trong đó tiêu biểu có bài Tạm biệt Hương Canh.

=>Nhìn chung, phong cách sáng tác của Hoàng Tố Nguyên chính là giọng thơ đằm thấm, ân tình, có phần bằng phẳng, nhưng chân thật, đậm chất Nam Bộ, thể hiện tâm hồn tinh tế, tha thiết yêu đất nước, quê nước.

Xem ngay các thông tin về 🌿Thơ Trần Nhân Tông 🌿 Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ

Tuyển Tập Các Tác Phẩm Của Nhà Thơ Hoàng Tố Nguyên

Tuyển tập các tác phẩm của nhà thơ Hoàng Tố Nguyên mà chúng tôi vừa tổng hợp được.

  • Gò Me
  • Tạm biệt Hương Canh
  • Quê chung
  • Xuân về say ý nhạc
  • Đổi đời (truyện thơ)
  • Từ nhớ đến thương (1950)
  • Từ nhớ đến thương (1977)
  • Trăng rằm
  • Đất nước
  • Gửi chiến trường chống Mỹ
  • Tên quê hương (1976)
  • Cô gái bần nông sông Hồng (Truyện thơ )
  • Hậu phương không ngủ (chưa in)
  • Bên gối cưới (chưa in)

Giới thiệu chi tiết về 🌿Thơ Trần Hữu Thung 🌿 Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ

4 Bài Thơ Hay Nhất Của Hoàng Tố Nguyên

Thơ của Hoàng Tố Nguyên bị thất lạc nên hiện tại chỉ còn lại 4 bài được ghi chép lại. Dưới đây là 4 bài thơ hay nhất của Hoàng Tố Nguyên, mời bạn đọc cùng thưởng thức.

Tạm Biệt Hương Canh

Tiễn anh đến ga, em tất tả quay về
Nón nguỵ trang lá rám nắng hè
Phía Hà Tây ran từng tràng cao xạ
Đồng chống Mĩ đang mong từng dảnh mạ
Kẻng đội mình sắp sửa vang ngân
Em phải về cho kịp buổi ra quân!
Tàu chuyển bánh… Anh không ngoái lại
Mặc cánh bàng trước sân ga vẫy mãi
Anh nhìn về xanh thẳm rặng tre xa
Nơi con tàu hăm hở sắp đi qua…

Nơi ấy – làng ta trở thành chiến luỹ
Lớp mẫu giáo tập bài ca đánh Mĩ
Ngõ ba thôn nối lại một đường hào
Trên hố phòng không nhún nhảy nôi chao
Cháu ta ngủ dưới lùm ổi chín
Bên ngọn súng trường đợi giờ lên tiếng!

Nơi ấy – quê ta đỏ lửa đêm ngày
Mũi giáo búp đa chất cạnh lưỡi cày
Vại loáng màu men, gang hồng khuôn đúc
Bên hũ muối, bì ngô phòng lụt
Chum gạo miền Nam thao thức hương chiêm
Lễ cưới bắt đầu trong cảnh nhá nhem
Sau buổi làm đồng, trước giờ đến lớp
Bà móm mém nhai miếng trầu chưa giập
Chúc cô dâu chóng vững tay cày…
Em ơi
Đây riêng chúng mình đưa tiễn chiều nay!
Xin chào nhé, sông Cà Lồ đục mùa cá bột
Cái nắng trung châu thoảng mùi mít mật
Chào Hương Canh chất phác lòng người
Thắm như lạc già tách vỏ giữa sân phơi!
Tàu đi xa… Anh còn ngoái lại
Hỡi chiếc nón trên đồng xa vẫy mãi,
Em chẳng đến tháng ngày xạm khói chiến tranh
Anh ra đi giữa tít tắp màu xanh
Có phải tình em theo chân thầm nhắc:
– Phản lực Mĩ vẫn hoen trời Vĩnh Phúc
Mái đình Hương vẫn vững dáng rồng xưa
Với thế nhân dân đối mặt kẻ thù!

Gò Me

Quê tôi đó! Mặt trông ra bể,
Đóm hải đăng tắt loé đêm đêm.
Con đê cát đỏ cỏ viền,
Leng keng nhạc ngựa ngược lên chợ Gò.
Ruộng vây quanh, bốn mùa gió mát,
Lúa Nàng – keo chói rực mặt trời.
Ao làng trăng tắm, mây bơi,
Nước trong như nước mắt người tôi yêu.
Quê tôi sớm sớm, chiều chiều,
Lao xao vườn mía.
Mái lá khoan thai thở làn khói nhẹ,
Những chị, những em má núng đồng tiền.
Nọc cấy, tay tròn, nghiêng nón làm duyên,
Véo von điệu hát cổ truyền.
Tre thôi khúc khích, mây chìm lắng nghe:
“Hò ơ… Trai Biên Hòa lụy gái Gò Me,
Không vì sắc lịch, mà chỉ vì mê giọng hò”.
Ôi, thuở ấu thơ,
Cắt cỏ, chăn bò.
Gối đầu lên áo,
Nằm dưới làn me, nghe tre thổi sáo.
Lòng nghe theo bướm, theo chim,
Mạ non cong vắt lưỡi liềm,
Lá xanh như dải lụa mềm lửng lơ.
Ôi, vui sao những lễ hội đình chùa,
Rước sắc cuối năm, giựt giàn tháng bảy.
Thân áo vá quàng, lại thay vạt mới,
Hẹn hò, đổi guốc trao khăn.
Trống giục thâu đêm, gối bỏ không nằm,
Tóc bạc nghe kinh, tuổi xanh tình tự.
Tôi, sáu tuổi trong lòng bà, hớn hở,
Xem tuồng “Đoạt Võ Trạng Nguyên”.
Để ra về mơ mãi chuyện thần tiên,
Moi đất sét nặn quả chùy Nguyên Bá.
Ôi! Những tháng mưa dầm lạnh giá,
Đường làng thụt móng chân trâu.
Tre, cau phờ phạc,
Cánh cò mặt nước đồng sâu.
Hai bên hàng xóm têm trầu,
Áo tơi, nón lá, gọi nhau đổ lờ.
Những trưa nắng thơm mùa gặt hái,
Mái đình cong, cu gáy xa xa.
Con đê nắng đổ chói lòa,
Me xanh tỏa bóng, gió hòa trong cây.
Già  phanh áo, gối tay, ríu mắt,
Gái dụm đầu bói Lục Vân Tiên.
Trai làng kính cẩn ngồi yên,
Giọng ông tôi lại cất lên, kể rằng:
“Cửa Cần Giờ vào năm khởi nghĩa,
Sóng Cần Giờ đỏ khé máu tươi!
Gò Công oanh liệt một thời!
Ông Trương “Đám-lá-tối-trời” đánh Tây”.
Ruộng Gò Công cò bay thẳng cánh,
Ao Gò Me nước gánh không vơi.
Đất lành màu mỡ sinh sôi,
Nếp than, nấm rạ làng tôi vẫn nghèo.
Trước khi nhắm mắt thân yêu,
Bà tôi dám ước mơ nhiều hơn đâu.
Một vuông khăn đỏ bịt đầu,
Nợ nần truyền kiếp trông vào con thơ.
Ôi!  Gò Me,
Các bác, các cô.
Các dì, các cậu,
Mồ hôi muối trắng hai vai áo.
Đêm không đèn húp cháo thay cơm,
Nhặt từng hạt lép trong rơm.
Nhìn bầu sữa cạn, thương con héo gầy.
(Lúa đâu dám phụ người cày
Nhà ai ngói đỏ, lẫm đầy lúa khô!)
Qua đường lưới cá, mò cua,
Ngó con sông bạc mà lo phận nghèo!

***
Quê hương tôi bao nhiêu thay đổi,
Ngọn tầm vông, nón cói buổi đầu.
Trong lòng đất nước khổ đau,
Đứng lên không một sức nào chuyển lay.
Chín năm chúng ruồng, vây, giết, đốt,
Chín năm ta diệt bốt, gài chông.
Máu Trương Công Định anh hùng,
Qua tay Đảng, rót vào lòng nhân dân.
Trên đất Bắc xanh mầm hy vọng,
Đêm như ngày, tôi ngóng từng tin.
Gò Công đẫm máu biểu tình,
Gò Me, tuy vắng trống đình bao năm.
Tắt tiếng hát đêm trăng hò hẹn,
Chỉ còn vang tiếng biển thét gào.
Tôi nằm trên võng mẹ đưa,
Có chim cu gáy giữa trưa hanh nồng.
Tiếng ai vút đầu bông lúa chín,
Gió dìu vương xao xuyến bờ tre:
“Hò ơ… Trai Biên Hòa lụy gái Gò Me
Không vì sắc lịch, mà chỉ vì mê giọng hò!”
Chị tôi má đỏ thẹn thò,
Giã me bên trã canh chua ngọt ngào.
Thơ tôi như chiếc hôn đầu,
Gò Công yêu dấu, đâu nào má em?

Trăng Rằm

Tháp khoan in gọn giữa trăng rằm
Đồi núi vây quanh, điện sáng tầng
Nửa đêm xóm nhỏ nhìn lên đỉnh
Ngỡ bạn thăm dò trên mặt trăng

Xuân Về Say Ý Nhạc

Anh đi miền sông Hậu
Tôi về khám thị thành
Đêm đêm, nhìn Bắc đẩu
Nôn nao lòng nhớ anh.
Trời nơi anh sáng chứ?
Hoa đời nở ý xanh?
Máu sông sầu cuồn cuộn,
Có vương tình trăng thanh?
Gió muôn trùng… gió lộng.
Vẫn vang khúc viễn hành?
Bạn bè còn đủ cả
Hay cuối bãi đầu ghềnh?
Tương tàn bao thảm cảnh
Có hiện vào mắt anh?
Xuân về say ý nhạc
Có cạn chén tâm tình?
Ngựa Hồ thương gió Bắc
Có vẹn lời sắt đanh?
Hay men Tần dễ bén
Mà say khúc hậu đình?
Mà quên thề cổ biệt,
Mà nguôi hận bất bình?
Nơi đây sầu phong tỏa
Hương đời cạn ý xanh
Mây giăng mờ tám hướng
Nắng loãng bụi kinh thành
Có lắm phường cẩu nhãn
Còn mơ chuyện Đế Đình.
Gái trai cười phấn lụa
Cao hát khúc ân tình
(Còn mong gì tuyết trắng
Mà dâng hồn thơ xanh)
Sầu đông cay độc ẩm
Hồn đau nghẹn bất bình
Đêm đêm nằm đếm tóc
Nghĩ thẹn kiếp phù sinh.
Xuân về say ý nhạc
Đôi câu gọi chút tình
Trăng liềm chênh chếch đổ
Về phương nào đó anh?

Đón đọc tập 🍀Thơ Huy Cận 🍀 Tác Giả, Tác Phẩm, Cuộc Đời, Sự Nghiệp

Viết một bình luận