15+ Mẫu Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ

Thohay.vn hướng dẫn cho các em học sinh cách viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ hay và ấn tượng nhất.

NỘI DUNG CHÍNH

Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ Là Gì?

Nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ là dùng lí lẽ và bằng chứng để làm rõ giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ ấy. Cụ thể phân tích đánh giá một số nét đặc sắc như:

  • Về nội dung cần xác định được chủ đề, ý nghĩa, giá trị của chủ đề bài thơ.
  • Về hình thức nghệ thuật như dạng thức xuất hiện của chủ thể trữ tình, kết cấu, từ ngữ, hình ảnh, vần, nhịp, biện pháp tu từ,…

Dành tặng bạn những mẫu văn 👉 Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ 👉 hay nhất

Các Chủ Đề Thơ Để Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Lớp 10

Có rất nhiều chủ đề thơ có thể được sử dụng để nghị luận phân tích và đánh giá. Dưới đây là một số chủ đề thơ phổ biến mà bạn có thể tham khảo:

  • Thơ về chủ đề đất nước
  • Thơ về phong cảnh thiên nhiên
  • Thơ nói về văn hóa và bản sắc dân tộc
  • Thơ về tình yêu đôi lứa

Cách Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ

Nếu các em học sinh vẫn còn băn khoăn chưa biết cách viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ như thế nào? Vậy thì hãy tham khảo các bước cụ thể sau đây:

  • Bước 1: Đầu tiên cần giới thiệu ngắn gọn về bài thơ cần phân tích (tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, khuynh hướng, trào lưu văn học gắn với bài thơ, lý do lựa chọn bài thơ để phân tích, đánh giá).
  • Bước 2: Đưa ra và phân tích những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ (từ ngữ, hình ảnh, cách tổ chức nhịp điệu, nhạc điệu, cách liên kết mạch cảm xúc và hình ảnh, …)
  • Bước 3: Đánh giá và nêu cảm nhận của bản thân về bài thơ.

Xem thêm 🌹 Viết Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Văn Học 🌹 siêu hay

Dàn Ý Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ

Tiếp theo là dàn ý văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ để các em có thể tham khảo và triển khai bài văn của mình đầy đủ ý nhất.

I. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về bài thơ (tác giả, thời điểm ra đời, nơi xuất bản, đánh giá chung của dư luận,…) và nêu vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích trong bài viết.

II. Thân bài

  • Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình (nhân vật trữ tình muốn biểu đạt điều gì, thông qua hình tượng nào, với cái nhìn và thái độ ra sao,…).
  • Phân tích, đánh giá sự phát triển của hình tượng chính (qua các khổ, đoạn trong bài) và tính độc đáo của những phương tiện ngôn từ đã được sử dụng (từ ngữ, cách gieo vần, ngắt nhịp, các biện pháp tu từ,…).
  • Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ So với những sáng tác khác cùng đề tài, chủ đề, thể loại (của chính nhà thơ hoặc của những tác giả khác).

III. Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ đối với người viết bài nghị luận.

Tham khảo mẫu 👉 Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ

15+ Mẫu Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ Ngắn Hay

Thohay.vn tuyển chọn những mẫu viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ hay với các tác phẩm nổi tiếng nhất để các em có thể tham khảo đa dạng hơn.

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ Dài Hay – Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo

Trần Đăng Khoa được người đời ngợi ca và mệnh danh là “Thần đồng thơ ca”. Với ngôn từ mộc mạc, hình ảnh thân quen, những sáng tác của ông dễ dàng đi sâu vào tâm trí và trái tim người đọc. Trong đó, chúng ta không thể bỏ qua tác phẩm “Lính đảo hát tình ca trên đảo”. Bài thơ đã mang tới những hình ảnh chân thực về cuộc sống sinh hoạt của người lính nơi đầu sóng ngọn gió.

Mở đầu bài thơ, Trần Đăng Khoa trực tiếp đưa độc giả đến với khung cảnh:

“Đá san hô kê lên thành sân khấu
Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà”

Ngoài đảo, mọi thứ đều khan hiếm, thiếu thốn đủ đường. Vậy nên, sân khấu chỉ được lắp ghép, chắp vá tạm bợ bởi “đá san hô” mà thôi. Phía cánh gà cũng được tạo nên từ vài tấm tôn. Có thể thấy, chỉ với hai câu thơ ngắn gọn, nhà thơ đã gợi lên cuộc sống khó khăn của những người lính đảo. Cuộc sống ấy còn bị ảnh hưởng nặng nề từ thiên nhiên khắc nghiệt:

“Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ
Chẳng phông màn nào chịu nổi Trường Sa”

Cách xưng hô thân mật “em”, “bọn chúng anh” cho thấy sự gắn kết giữa con người. Người lính nói bằng giọng điệu hết sức nhẹ nhàng, như thể đây chỉ là một câu chuyện nhỏ nhẹ, không đáng quan tâm. Câu thơ giống như lời tâm sự thủ thỉ, lời lí giải nhẹ nhàng cho hoàn cảnh. Đồng thời, khéo léo nhấn mạnh vào ý chí, bản lĩnh của những người dám đương đầu với sóng to, gió lớn nơi biển đảo.

Dẫu thiếu thốn vật chất, điều kiện tự nhiên hà khắc, người lính vẫn nở nụ cười lạc quan:

“Gió rát mặt, Đảo luôn thay hình dáng
Sỏi cát bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó. Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn”

Sống giữa biển trời mênh mông, người lính hàng ngày hàng giờ phải đối mặt với biết bao gian khổ. Nào là những lần gió thổi rát mặt. Nào là những trận bão cát sỏi bay điên cuồng. Thế nhưng, họ chẳng lấy làm để tâm. Câu nói “Cứ mặc nó” cho thấy phong thái bình thản, ung dung của người lính đảo. Dường như, những khó khăn ấy không còn là nỗi bận tâm, lo lắng nữa rồi. Giờ đây, họ dành hết tâm trí cho chiếc sân khấu “có một không hai” – “mây nước mở màn” với đội ngũ biểu diễn và khán giả đặc biệt:

“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm không lẽ dành gội tóc
Lính già lính trẻ đều trọc tếu như nhau”

Khổ thơ bốn dòng nhưng có đến ba từ “trọc” đã nhấn mạnh vào vẻ bề ngoài đặc trưng những chàng lính đảo. Ngoài đảo, nước ngọt khan hiếm vô cùng. Vì thế, họ không nỡ dùng nguồn nước quý giá đó để gội đầu. Từ lính mới đến lính cũ, lính già đến lính trẻ, ai ai cũng đồng lòng.

Họ bảo nhau cắt đi mái tóc, biến mình thành “chàng đầu trọc” nhằm tiết kiệm những giọt nước tinh khiết. Bằng giọng điệu hóm hỉnh, Trần Đăng Khoa đã khắc họa nên một bức tranh chân thực về đời sống của lính đảo, tuy khó khăn nhưng không bi lụy. Từ chính cái khổ cực ấy, họ biến chúng thành niềm vui: “Có lúc vui cứ gọi đùa sư cụ/ Là bà con xa với bụt ốc đây mà”, “Hóa ra là sư cụ hát tình ca”.

Giữa không gian bao la, mây trời sóng nước lồng bóng, người lính đảo được ví như “sư cụ” cất lên khúc hát đặc biệt:

“Những giai điệu ngang tàng như gió biển
Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi”

Nếu như giai điệu mạnh mẽ, ngang tàn như gió biển thổi thì lời ca lại nhẹ nhàng, tha thiết nỗi nhớ thương. Một bản tình ca độc đáo, mới lạ, chỉ có riêng ở người lính đảo. Hòa theo nhịp điệu, những chàng lính cất lên câu hát tâm tình, chan chứa yêu thương “Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo”, “Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?”.

Mượn lời ca, họ khéo léo bày tỏ tình cảm chân thành “Rằng chúng ta là những con người/ Yêu em thủy chung hơn muối mặn/ Dù thư tình chưa biết gửi cho ai”. Có thể thấy, người lính đảo hiện lên thật chân thực với nét tính cách lạc quan, nhí nhảnh, tâm hồn trong sáng. Giống như bao người, các chàng trai ấy cũng có trái tim khao khát hạnh phúc và tình yêu đôi lứa.

Bản tình ca đằm thắm ấy còn là khúc hát say sưa về Tổ quốc thân yêu:

“Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững giữa muôn trùng sóng gió|
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu từ nơi này…”

Trên tất cả, trong trái tim thổn thức từng nhịp đập, tình yêu đất nước vẫn nóng bỏng hơn bao giờ hết. Nó chính là ngọn lửa tiếp thêm nhiệt huyết, là điểm tựa tiếp thêm sức mạnh cho những người lính. Giữa muôn trùng sóng gió của biển cả, người lính đảo luôn vững vàng chắp tay súng, bảo vệ từng tấc đất của nước nhà. Để rồi, thông qua đó, khẳng định đất nước bắt nguồn từ chính những vùng đất xa xôi mà thiêng liêng này.

Bài thơ kết thúc với hình ảnh ấn tượng:

“Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển người đâu lên đông thế
Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu…”

Khổ thơ cuối vẫn là giọng điệu hóm hỉnh, vui tươi và tếu táo giống các phần trước. Khi thủy triều rút, những tảng đá bóng nhẵn như cái đầu trọc lộ lên khỏi mặt nước. Có thể thấy, điều kiện sống thật cực khổ làm sao!

Bằng ngôn ngữ trong sáng, giản dị, dễ hiểu; hình ảnh thơ gần gũi, quen thuộc, nhà thơ đã đem đến cho người đọc những hình dung cụ thể, chi tiết về đời sống nơi hải đảo xa xôi, hiểm trở. Việc sử dụng thành công các biện pháp tu từ như so sánh “Những giai điệu ngang tàn như gió biển”, điệp ngữ “Nào hát lên cho”,… cũng góp phần khắc họa thành công hình ảnh người lính đảo. Họ là những con người lạc quan, yêu đời, đầy mơ mộng với cuộc sống. Chính họ đã và đang từng ngày, từng giờ bảo vệ chủ quyền nước nhà.

Không màu mè, hoa mĩ, “Lính đảo hát tình ca trên đảo” là những vần thơ hết sức nhí nhảnh, vui tươi. Trần Đăng Khoa thật khéo léo khi khai thác đề tài người lính từ điều bình dị và thân thuộc. Qua tác phẩm này, ta càng thêm trân trọng, biết ơn công lao to lớn của thế hệ đi trước.

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ Đầy Đủ Ý – Thơ Duyên

Xuân Diệu là “ông hoàng thơ tình’ với những vần thơ say đắm, ngọt ngào và mãnh liệt về tình yêu đôi lứa. Mỗi bài thơ đều để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm và ấn tượng riêng. “Thơ duyên” là bài thơ tràn đầy cảm hứng mê say, tin tưởng và đầy phấn khởi cho những giây phút rung động trong tình yêu.

Ngay ở nhan đề tác phẩm, người đọc đã cảm nhận được nét “duyên” của con chữ và nét duyên ngầm trong lòng người. Cảm xúc bao trùm bài thơ chính là niềm hăng say, vui tươi, phơi phới khi có những giây phút rung động đầu đời của một chàng trai mới biết yêu. Người đọc chắc chắn sẽ mê mẩn với những dòng cảm xúc vừa nhẹ nhàng vừa sôi nổi:

Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền

Xuân Diệu đã mở đầu bài thơ bằng một không gian thật nên thơ và lãng mạn. Hình như không phải một buổi chiều như một ngày mà là “chiều mộng”. Một buổi chiều lãng mạn, tràn đầy chất thơ, chất nhạc, khiến lòng người say đắm. Một buổi chiều mùa thu nhẹ nhàng, tinh tế có cặp chim đang chuyền nhau trên cành cây mẹ. Một sự hòa quyện, giao thoa thật tuyệt vời giữa thiên nhiên và đất trời. Giọng thơ tuy nhẹ nhàng nhưng tràn đầy hứng khởi.

“Nhánh duyên” trong câu thơ đầu tiên khiến người đọc liên tưởng đến một mối nhân duyên ngầm nào đó nhưng vẫn còn e thẹn, ngượng ngùng.

Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền

Hai câu thơ như tan ra cùng đất trời, mùa thu hiện hữu rõ từng đường nét và lắng nhẹ vào lòng người. Màu xanh của bầu trời như đang “đổ” xuống vạn vật, tạo nên một màu “ngọc” thật trong lành và dịu mát. Từ “đổ” khiến cho câu thơ bừng sáng lên. Đó như báo hiệu một mùa thu ngọt ngào, tinh tế đã đến. Dường như trời đất của mùa thu luôn có sức hút mạnh mẽ như vậy. Một buổi chiều thật nên thơ, đầy tình tứ sẽ thêm thi vị hơn khi có câu chuyện tình đôi lứa:

Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu

Hoa ra sự vui tươi của đất trời đều xuất phát từ nỗi rung động “lần đầu” ấy. Hình ảnh con đường “nho nhỏ’ trong câu thơ có điểm xuyết những cành lá đâm ngang như phác họa nên một bức tranh thu nhẹ nhàng, tinh tế đến lạ kỳ. Một không gian khiến cho người đọc ngỡ như mình đang lạc vào cảnh tiên thi vị. Dường như cảnh vật đang tạo cảm giác lâng lâng, nhẹ nhõm của người đang tràn ngập tình yêu. Câu thơ chợt bừng lên niềm reo vui thật khẽ nhưng thật sâu. Thơ Xuân Diệu cứ nhẹ nhàng nhưng đằm thắm như duyên con gái vậy. Ở những vần thơ tiếp theo, nhân vật chính của tình yêu lần đầu ấy xuất hiện thật nhẹ:

Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững thững chẳng theo gần
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cặp vần

Anh chàng thi sĩ đi giữa một con đường mà như có cảm giác đang lạc vào một niềm say mê, đắm đuối với tâm thế “lững thững” rất bình tâm, rất nhẹ nhàng và có chút gì đó lưỡng lự. Chàng trai ấy giữ một khoảng cách vừa đủ để cảm nhận được tình yêu đang tan chảy ra cùng mùa thu dịu ngọt, êm ái. Cả “anh” và “em” đều “vô tâm” nhưng dường như ai cũng muốn xích lại gần hơn, gần thêm chút nữa. Bởi ẩn sâu trong suy nghĩ thì câu chuyện tình nhẹ nhàng đó đã như một cặp vần. Những câu thơ nhẹ nhàng, nhịp điệu chậm rãi, khoan thai gieo vào lòng người niềm hân hoan, vui tươi. Cảnh vật trong bài thơ duyên rất duyên, huyền diệu và tràn đầy vui tươi, làm nền cho tình cảm trở nên lâng lâng:

Ai hay tuy lặng bước thu êm
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngác vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em

Mùa thu “êm” như khẽ khàng đi vào trái tim của những kẻ đang yêu, chẳng ai bày tỏ nỗi niềm nhưng lại khiến cho mọi thứ lâng lâng. Buổi chiều mưa thu “ngơ ngác” nhưng nhà thơ đã khẳng định chắc nịch “lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Một Xuân Diệu thật duyên, là duyên ngầm, nhưng cũng thật mãnh liệt. Không phải anh cưới em mà là “lòng anh cưới lòng em”.

“Thơ duyên” của Xuân Diệu là bài thơ tràn đầy niềm tin yêu và tràn nhựa sống. Một bài thơ tình nhẹ nhàng, nhưng cũng không kém phần mãnh liệt.

Gợi ý 👉 Viết Đoạn Văn Ghi Lại Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Lục Bát

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ Ngắn Hay – Nắng Đã Hanh Rồi

Trong nền văn học Việt Nam, các nhà văn, nhà thơ viết về đề tài thiên nhiên vô cùng phong phú, một nhà thơ có hồn thơ trong sáng, giàu chất thơ có thể kể đến Vũ Quần Phương với bài thơ “Nắng đã hanh rồi” lấy trong tập “Hoa trong cây, Những điều cùng đến, Vết thời gian” đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên trong mùa đông lạnh giá.

Ngày từ đầu bài thơ, “Nắng đã hanh rồi” đó là sự chuyển biến của mùa trong năm, mọi khung cảnh đang chuyển mình, vào thời kì nắng hanh, điều đặc trưng chỉ có ở miền Bắc được tác giả phác họa lên cảnh sắc tươi đẹp:

“Nắng đã vàng hanh như phấn bay
Đã nghe tiếng sếu vọng sông gày
Trước sân mây trắng về đông lắm”

Ở khổ thơ này, tác giả đã cho thấy sự chuyển tiếp rõ ràng sang đông, đã không còn những ánh nắng của ngày hè chói chang, những phấn bay của đàn ong, cảnh sắc đặc biệt để mùa đông đến thật đẹp và bình yên. Tiếng kêu văng vẳng tiếng vọng của đàn sếu như báo hiệu tín hiệu đầu tiên của mùa đông sắp tới. Đâu đó con sông đang vơi dần đi những giọt nước, ốm yếu dần.

Trước mắt tác giả đã hiện ra những mảng mới trước sân, “mây trắng về đông lắm”. Đông sang, bầu trời âm u hơn những đám mây trắng. Tất cả cảnh vật như được lấp đầy một màu đông sang, những cái nắng chói chang của mùa hè đã qua đi để lại những cảnh sắc thiên nhiên đó mà chuyển sang một mùa đông mới.

Mùa đông trong không gian bầu trời âm u với làn mây trắng như vậy, khung cảnh như hiện lên màu sắc mới, riêng biệt mà chỉ mùa đông mới có, tác giả nhắc đến chủ thể trữ tình “em” độc đáo trong bài thơ:

“Em có hình dung những mái tranh
Nắng lên khói ủ mộng yên lành
Vườn sau tre mía xôn xao lá”

Nhân vật trữ tình “em” được tác giả khắc họa vô cùng độc đáo, thân quen của quê nhà, những mái nhà đơn sơ trong cái nắng hanh khi đông vừa về, tất cả đã hòa mình vào mùa đông. Tác giả sử dụng ngọn khói rất đỗi thân thương và tràn đầy bình yên của quê hương, những làn gió vấn vương, trải quanh căn nhà thân thương và tràn đầy ấm áp. Đâu đó, khu vườn với khung cảnh xôn xao của lá tre tạo nên âm thanh tràn đầy màu sắc thu hút chủ thể trữ tình.

Tình cảm của anh dành cho nhân vật trữ tình “em” được tác giả nói lên trong khổ thơ này:

“Em có cùng anh lên núi không
Có nghe thầm thì tiếng rừng thông
Nắng chiều ngả bóng thông in đất
Anh ngã vào đâu nỗi nhớ mong”

Khổ thơ này, tác giả đã dùng hình ảnh anh – em song song để biểu thị ý nghĩa về mặt trời mọc mà còn để bộc lộ những cảm xúc khát khao, mong muốn được ở cạnh người em khi xa nhà. Trong rừng, tiếng thì thầm của cây thông nhỏ nhẹ ùa về, liệu em có nghe thấy những tiếng thì thầm đó và nhớ đến anh trong buổi chiều âm u và đầy tâm tư nơi anh.

Đó là nỗi nhớ của anh dành cho em, với không gian rộng lớn như vậy, nhân vật trữ tình lại cảm thấy trống vắng, lẻ loi. Ánh nắng chiều tà ngả bóng hàng thông, bao nhớ nhung lùa về mà chỉ anh còn đứng một mình nơi đây đợi em, đợi người em yêu thương của anh. Nhà thơ đã gửi gắm biết bao tâm tư, tình tế khi mượn trạng thái của những sự vật xung quanh đầy thân thuộc và gần gũi với con người.

Thế rồi mùa đông sắp qua đi, xuân lại đến với bao hy vọng, niềm vui mới:

“Xuân sắp sang rồi, xuân sắp qua
Một năm năm tới, lại năm qua
Mà sao nắng cứ như tơ ấy
Rung tự trời cao xuống ngõ xa”

Đông qua, xuân đến, tác giả lại miêu tả thời khắc chuyển giao của mùa xuân, điệp từ “xuân sắp” có thể đây là thời điểm thích hợp để sum vầy, để anh em ta được ở bên nhau sau những ngày tháng xa cách. Có lẽ thời gian đã trôi quá chậm để đến thời điểm giao khắc đó. Ánh nắng ngoài kia vẫn đong đầy, nhẹ nhàng buông xuống từ trời cao đầy suy tư của nhân vật trữ tình.

Những lời thơ chan chứa cảm xúc ấm áp đã lay động trái tim bao độc giả yêu thơ, nhà thơ Vũ Quần Phương đã khắc họa những khung bậc và rung cảm trong tình yêu đầy chan chứa. Ngoài ra, tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật độc đáo, những lời thơ đầy tính truyền cảm kết hợp với hình ảnh thơ quen thuộc, gần gũi, “mây trắng”, “nắng hanh” tạo nên một tổng thể thẩm mĩ đầy tinh tế và sáng tạo. Từ đó, ta cảm nhận được ở tác giả Vũ Quần Phương tình yêu quê hương, tình cảm chân thành trong tình yêu và gắn bó với cuộc sống hòa hợp vào thiên nhiên.

Bật mí cách 👉 Viết Đoạn Văn Ghi Lại Cảm Nghĩ Sau Khi Đọc Một Bài Thơ Sáu Chữ Bảy Chữ

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ Đặc Sắc – Câu Cá Mùa Thu

Được mệnh danh là “Tam Nguyên Yên Đổ”, Nguyễn Khuyến không chỉ là một người tài có công với đất nước, ông còn là một thi nhân với nhiều tác phẩm sống mãi với thời gian. Bài thơ “Thu điếu” được trích từ một trong ba bài về chùm thơ thu của ông. Bài thơ là bức tranh miêu tả khung cảnh mùa thu của làng quê Việt Nam khi thời tiết đã cuối thu đầu đông. Không chỉ vậy, đó còn là những hoạt động, tâm tư của con người về cuộc sống.

Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học nước nhà, thơ của ông luôn nhẹ nhàng, sâu lắng nhưng lại mang nhiều giá trị nhân sinh cũng như những triết lý sâu sắc. Không chỉ vậy, ông còn là một người hiền tài, yêu nước thương dân, sẵn sàng đặt lợi ích của đất nước lên trên lợi ích của bản thân mình.

Cũng có lẽ bởi vậy, mà trong thơ của mình, ông thường viết về thiên nhiên, về con người, về cuộc sống ở nơi làng quê Việt Nam. Lên làm quan vào thời điểm nước mất nhà tan, tình hình chính trị loạn lạc, ông lựa chọn cáo quan về quê ở ẩn, sống một cuộc đời an nhàn, bình dị nơi quê nhà, nhưng trong thâm tâm, ông vẫn chưa từng nguôi nỗi lòng, suy nghĩ về việc dân, việc nước.

Tập thơ thu của ông gồm ba bài thơ “Thu Vịnh”, “Thu Điếu” và “Thu Ẩm”. Trong đó, “Thu Điếu” cũng là bài thơ nổi bật nhất trong tập ba bài thơ trên. Bài thơ “Thu Điếu” đã miêu tả cho chúng ta bức tranh thu tĩnh lặng, cũng là nỗi niềm, tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với quê hương của mình. Đặt trong hoàn cảnh đó, đó còn là sự trầm lắng của một thi nhân “tài hoa bất đắc chí”.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã miêu tả cho chúng ta về khung cảnh nơi mà nhân vật trữ tình ngồi câu cá, một không gian rộng lớn, cảm tưởng như lại càng rộng lớn hơn khi chỉ có một sự vật ở giữa không gian ấy. Mặt nước “trong veo” như một tấm gương rộng lớn, phản chiếu cảnh vật xung quanh. Khi cúi xuống, tưởng chừng như có thể nhìn thấy những sinh vật ở dưới phía đáy. Thế nhưng, khung cảnh to lớn ấy càng làm chúng ta thấu cảm được cái lạnh lẽo của không gian.

Nhưng, ở giữa không gian lạnh lẽo ấy, vẫn không làm sự sống bị mờ nhạt đi. Hai câu thơ tả thực tiếp theo đã cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của sự sống vẫn đang hiện hữu. Màu sắc như hòa quyện với nhau, tạo nên sự hài hòa của sự vật, hiện tượng đời sống. Màu xanh tuy làm chủ đạo cho bài thơ với những gam màu xanh khác nhau như “xanh biếc”, “xanh ngắt” làm không gian trầm lặng hơn, mang sắc lạnh nhiều hơn, nhưng điểm xuyết vào đó vẫn có màu vàng của lá cây.

Chỉ là một chấm nhỏ ấy thôi, nhưng như làm bừng sáng cả một không gian, cũng như khiến con người ta cảm giác như đang được sưởi ấm. Phép đối tài tình làm nổi bật nét thu, tô đậm lên hai giác quan mà con người cảm nhận được không gian xung quanh. Chữ “vèo” tưởng chừng như bình thường, nhưng lại là phát hiện tuyệt vời, mà sau này nhân sĩ Tản Đà vừa khâm phục, cũng lại vừa tâm đắc. Không gian như lại được mở rộng ra ở hai câu thơ tiếp theo.

Bầu trời cao, trong xanh vời vợi là một trong những đặc điểm nổi bật nhất khi nhắc đến mùa thu. Mây trắng lười biếng, lơ lửng trôi nổi trên nền trời trong vắt. Con người dường như cũng không xuất hiện, khi “khách vắng teo”. Cảm tưởng như thật tĩnh lặng, heo hút. Tất cả như đã gói gọn lại, như đã cô đọng lại để tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Đây cũng là khung cảnh thường nhìn thấy mỗi khi mùa thu ghé tới thăm chúng ta.

Sáu câu thơ đầu tiên đã đưa ta đến gần hơn với khung cảnh thiên nhiên làng quê Việt Nam vào mùa thu. Chỉ tới hai câu thơ cuối cùng, thì mới có sự xuất hiện của con người. Nhưng con người cũng thật yên lặng, như hòa mình vào cùng với không gian vậy. Hình ảnh của con người thật nhàn nhã, cảm tưởng như đang tận hưởng vẻ đẹp của đất trời mùa thu.

Người câu cá như đang thả mình theo làn sương hơi, trôi bồng bềnh vào mộng đẹp của mùa thu mang lại. Chỉ tới khi nghe thấy tiếng cá quẫy nước, người câu cá dường như mới chợt bừng tỉnh khỏi mộng cảnh. Một tâm hồn thanh cao, không vướng bụi đời. Trông thì thật cô đơn, nhưng có lẽ lại không cô đơn như chúng ta vẫn hằng tưởng. Trông thì thật tĩnh lặng, thế nhưng trong thâm tâm nhân vật trữ tình – ở đây cũng có thể hiểu là tác giả Nguyễn Khuyến có lẽ đang trào dâng những suy nghĩ, những trăn trở vì việc dân, việc nước.

Có thể nói, bài thơ “Thu Điếu” (hay “Câu cá mùa thu”) là một tác phẩm ấn tượng, nổi bật mỗi khi chúng ta nhắc tới thơ ca Trung Đại. Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến hay “Thu Điếu” sẽ mãi là ánh sao sáng trên nền trời văn học Việt Nam.

Đọc thêm bài 👉 Trình Bày Suy Nghĩ Về Tình Cảm Của Con Người Với Quê Hương

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ Chi Tiết – Chiếc Lá Đầu Tiên

“Thơ là tiếng lòng” (Diệp Tiếp) và nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm đã thể hiện tiếng lòng mình một cách đầy tinh tế qua bài “Chiếc lá đầu tiên”. Đọc bài thơ, độc giả được trở về với miền kí ức xa xôi của một thời cắp sách tới trường. Tác phẩm là niềm nhớ thương da diết của tác giả về kỉ niệm dưới mái trường mến yêu.

Tác phẩm được sáng tác vào năm 1971 nhưng phải đến mười năm sau mới hoàn thiện. Nhà thơ đã từng chia sẻ rằng: “Có bài thơ tôi viết rất nhanh. Ví dụ bài “Sông Thương tóc dài” tôi viết trong vòng 5 phút trên vỏ bao thuốc lá, riêng bài “Chiếc lá buổi đầu tiên” tôi viết trong 10 năm. Bài thơ ban đầu có tên là “Trường ơi, chào nhé”. Khổ đầu tiên được viết vào năm đầu tiên tôi vào đại học, khi vừa mới bước qua “tuổi khăn quàng, phấn trắng, nắng vô tâm”.

Mặc dù bài thơ được viết trong những thời điểm khác nhau nhưng vẫn thể hiện được đầy đủ, trọn vẹn cảm xúc nhớ thương của tác giả. Xuất phát từ tứ thơ chiếc lá đầu tiên, tác giả muốn bày tỏ tình yêu đối với thầy cô, mái trường. Nỗi nhớ da diết về tuổi học trò đã qua là cảm hứng xuyên suốt, chủ đạo của tác phẩm. Nhan đề “Chiếc lá đầu tiên” là hình ảnh mang tính biểu tượng. Đó có thể là hình ảnh tượng trưng cho sự bắt đầu của một tình yêu chớm nở, cho những kỉ niệm đầu tiên. Bởi hình ảnh lúc ban đầu sẽ để lại cho con người những kỉ niệm, dấu ấn khó phai.

Ở hai khổ đầu tiên, nhân vật trữ tình bộc niềm tiếc nuối về khoảng thời gian tươi đẹp. Đồng thời, trực tiếp bày tỏ tình cảm với nhân vật “em”. Dòng thơ “Em thấy không, tất cả đã xa rồi” đã cho thấy sự nuối tiếc về quãng thời gian đã xa. Thời gian mang dáng dấp của con người thông qua biện pháp tu từ nhân hóa “Trong tiếng thở của thời gian rất khẽ”.

Từ “rất khẽ” gợi liên tưởng về sự chuyển động vô cùng nhẹ của thời gian, dường như thời gian trôi qua rất nhanh, nhanh đến mức nhân vật trữ tình cảm thấy ngỡ ngàng. Thời gian không quay về, là dòng thác bất tận đổ xuống đời, bởi vậy, chủ thể trữ tình mới thấy “tuổi thơ kia ra đi cao ngạo thế”. Tuổi thơ chất chứa bao mộng mơ, dại khờ của ngày trẻ, một khi đã đi rồi thì nghiễm nhiên không bao giờ trở lại được nữa. Câu thơ bộc lộ sự hoài niệm, tiếc nuối của nhân vật trữ tình.

Ở những khổ thơ tiếp theo, hình ảnh gắn liền với tuổi học trò “hoa súng tím”, “chùm phượng hồng”, “tiếng ve”, “con ve” xuất hiện dày đặc. Trong đôi mắt của nhân vật trữ tình, bông hoa súng mang đến cảm giác say đắm, thích thú “Hoa súng tím vào trong mắt lắm mê say”.

Có lẽ, tình yêu ở lứa tuổi học trò đều bắt nguồn từ tình bạn. Nhân vật trữ tình bồi hồi nhớ về một thời “yêu dấu” đã qua, nhớ về cảm giác chùm phượng hồng phút ban đầu. Chùm phượng nở rộ cũng là lúc một năm học chuẩn bị kết thúc. Phút giây ấy còn được báo hiệu bởi tiếng “ve tiên tri”. Tiếng ve là âm thanh đặc trưng của mùa hạ, cũng là mùa chia tay mái trường, thầy cô. Biện pháp nhân hóa “con ve tiên tri vô tâm báo trước” đã cho thấy sự bàng hoàng, tiếc nuối đến ngỡ ngàng. Dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình đang trở lại mùa hè năm ấy, về lần đầu mình biết yêu.

Nỗi nhớ về mái trường ngày càng được nhân lên, khắc sâu trong ba khổ bốn, năm, sáu. Biện pháp điệp cấu trúc “Muốn nói bao nhiêu, muốn khóc bao nhiêu” được sử dụng nhằm nhấn mạnh vào cảm xúc mãnh liệt, dâng trào của nhân vật trữ tình khi nhớ về trường cũ. Lớp học mang nặng tâm tư, tình cảm của con người qua biện pháp nhân hóa “bâng khuâng màu xanh rủ”. Từ “bâng khuâng” đã diễn tả tâm trạng luyến tiếc, nhớ thương. Không gian tĩnh lặng của sân trường buổi đêm bị xao động bởi trái bàng rụng xuống. Khổ thơ đã thể hiện cảm xúc dâng trào của nhân vật trữ tình khi nhớ về trường cũ.

Nỗi nhớ ấy càng được bộc lộ rõ hơn trong khổ bốn. Biện pháp điệp cấu trúc “nỗi nhớ” diễn tả ấn tượng sâu đậm về kỉ niệm tuổi học trò. Đây được coi là đỉnh điểm của sự xúc động và nỗi nhớ. Ta nhận thấy, ở khổ thơ này cũng có sự thay đổi về cách xưng hô. Khi thì chủ thể là “anh” vì muốn gửi gắm tâm tư, tình cảm với “em”. Khi thì chủ thể là “tôi” muốn chia sẻ cảm xúc với “bạn”, với tất cả mọi người, trong đó có “em”.

Đại từ nhân xưng “ta”, “tôi”, “anh” thực chất vẫn là một, đó là chủ thể trữ tình trong các mối quan hệ khác nhau. Câu hỏi tu từ “Bạn có nhớ trường nhớ lớp, nhớ tên tôi” có thể hiểu nhân vật trữ tình hỏi “bạn”, hỏi mọi người liệu có còn nhớ đến mái trường, nhớ đến mình hay không. Câu thơ đã diễn tả sâu sắc nỗi nhớ về thầy cô, bạn bè.

Ở khổ thơ thứ năm, tác giả dẫn nguyên văn lời thoại nhằm thể hiện cảm xúc theo lối gián tiếp. Ba dòng thơ đầu cho thấy sự tươi vui, đùa nghịch của tuổi học trò. Đến câu thơ cuối, nhân vật như không kìm nén được cảm xúc mà phải thốt lên : “Ôi những trận cười trong sáng đó lao xao”. Tác giả đan xen các mẩu đối thoại mang yếu tố tự sự vào mạch trữ tình, kết hợp giữa biểu cảm gián tiếp và trực tiếp khiến cho lời thơ trở nên linh hoạt và kỉ niệm cũng được khắc họa rõ nét, đáng nhớ hơn.

Đến với khổ sáu, điệp cấu trúc “Những chuyện năm nao, những chuyện năm nào” và điệp từ “cứ” nhấn mạnh vào cảm xúc da diết, trào dâng của nhân vật trữ tình, đồng thời tạo nhạc điệu xao xuyến cho bài thơ. Câu thơ “Mùa hoa mơ rồi đến mùa phượng cháy” diễn tả sự vận động của thời gian từ cuối đông đầu xuân sang đến hè. Khi chứng kiến người thầy của mình đã già đi theo năm tháng, chủ thể trữ tình mong tóc thầy chớ “bạc thêm”.

Cảm xúc tiếc nuối của nhân vật trữ tình về một thời đã qua được khắc họa rõ nét trong hai khổ thơ cuối cùng. Cụm từ “Thôi đã hết” ám chỉ sự kết thúc, không còn tháng ngày học tập dưới mái trường mến yêu với những trò đùa tinh nghịch “tóc trắng ngủ quên”, “cầm dao khắc lăng nhăng trên bàn ghế cũ”. Hai câu thơ “Em đã yêu anh, anh đã xa rồi/ Cây bàng hẹn hò chìa tay vẫy mãi” diễn tả sự chia lìa, xa cách. Kết thúc bài thơ, nhân vật trữ tình bày tỏ niềm thương nhớ, nuối tiếc về những kỉ niệm lần đầu, về thuở ban đầu mới yêu “Không thấy trên sân trường – chiếc lá buổi đầu tiên”.

Bằng từ ngữ giàu sức gợi hình, gợi cảm, hình ảnh gần gũi, thân thuộc cùng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, điệp ngữ độc đáo, tác giả đã bày tỏ nỗi nhớ thương da diết và niềm khắc khoải khi nhớ về trường xưa, thầy cô, bạn cũ. Đồng thời, khơi gợi cho người đọc những kỉ niệm tươi đẹp, trong sáng, hồn nhiên thuở học trò.

Có thể nói, “Chiếc lá đầu tiên” được coi là tác phẩm đặc sắc về nội dung và độc đáo về nghệ thuật. Thông qua tác phẩm, người đọc thấy được tâm hồn tinh tế, sâu sắc của nhà thơ.

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ Hay Nhất – Nam Quốc Sơn Hà

Bài thơ “Sông núi nước Nam” có tên chữ Hán là “Nam quốc sơn hà” được tương truyền là do Lý Thường Kiệt sáng tác. Bài thơ góp phần làm nên chiến thắng của quân Tống trên dòng sông Như Nguyệt. Đây được coi là bản “Tuyên ngôn độc lập” đầu tiên trong ba bản tuyên ngôn của nước ta.

Bài thơ được làm theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Hình thức và nội dung là sự kết hợp hài hòa trong một kết cấu hoàn chỉnh của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Bài thơ chính là lời khẳng định quyền độc lập của dân tộc, chủ quyền của đất nước và thể hiện quyết tâm của toàn dân tộc trong việc bảo vệ nền độc lập dân tộc.

Hai câu đầu khẳng định điều mà sách trời đã ghi rõ:

“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở”

Câu thơ tưởng chừng như đơn giản nhưng chứa đựng một lời tuyên bố hùng hồn. Đơn giản vì sông núi nước Nam vua Nam ở, không có gì phải bàn cãi. Vậy mà lâu nay các thế lực phong kiến phương Bắc không nhìn thấy chân lý ấy. Từ trước Công nguyên, các thế lực phong kiến Trung Hoa đã đem quân xâm chiếm nước ta, coi nước ta như một vùng đất vô chủ.

Lý Thường Kiệt đã đem “Nam đế” đặt ngang hàng với “Bắc đế” trong hai câu thơ trên. Đó chính là giá trị của câu thơ. Sự tồn tại của đất nước Đại Việt thuộc quyền sở hữu của vua Việt là điều hiển nhiên và đã được sách trời ghi rõ. Câu thơ dùng hai chữ “Nam” đã làm nổi bật danh hiệu Đại Việt và tư thế độc lập của dân tộc. Với cách diễn đạt thật cô đọng, hùng hồn, tác giả đã tuyên bố một chân lý không thể thay đổi: “Sông núi nước Nam vua Nam ở”.

Câu thơ thứ hai trong bài thơ giúp khẳng định thêm chân lý đã xuất hiện trong câu thứ nhất. Tác giả đã khéo sử dụng từ trời trong câu thơ. Tư tưởng phương Đông nói chung đề cao mệnh của ý trời còn cao hơn cả lệnh vua, vua cũng phải tuân theo mệnh trời. Chủ quyền của Đại Việt được sách trời ghi thì không ai có thể thay đổi được. Điều này đã khẳng định chắc chắn chủ quyền của Đại Việt trước các thế lực xâm lược.

Từ sự khẳng định chủ quyền của đất nước, tác giả đã tố cáo hành động xâm lược của kẻ thù, đồng thời khẳng định ý chí vì độc lập dân tộc, vì chủ quyền đất nước của nhân dân Đại Việt.

“Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ”

Câu thơ được diễn đạt theo lối nghi vấn nhưng thực chất là để khẳng định tính chất phi nghĩa trong việc xâm lược của quân Tống. Tiếp đến, tác giả khẳng định thất bại tất yếu của những kẻ đi xâm lược: “Chúng mày nhất định phải tan vỡ”.

Câu thơ cuối cùng thể hiện một niềm tin tất thắng vào tính chính nghĩa của nhân dân ta, điều này dựa trên cơ sở của lòng yêu nước nồng nàn, của tinh thần vì độc lập dân tộc và truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

Giới thiệu đến bạn bài 👉 Nam Quốc Sơn Hà

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ Ấn Tượng – Tây Tiến

Tình đồng chí, tình đồng đội keo sơn gắn bó luôn là một đề tài muôn thuở cho các nhà thơ tìm về miền đất nhiều kí ức. Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, những sự hi sinh, gian lao vất vả mà người chiến sĩ đã trải qua để mang lại cuộc sống yên bình cho bao người, họ còn bộc lộ những nét đáng yêu, tinh nghịch đậm chất lính. Quang Dũng cũng đã hòa mình vào với “chất lính cụ Hồ” để xây dựng nên bức tượng đài người lính vừa đẹp, vừa hùng tráng mà đầy khí phách:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
…….
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Bài thơ “Tây Tiến” như một kí ức đẹp mỗi khi ta nhớ tới Quang Dũng. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Chiến sĩ trong đoàn quân này phần đông là thanh niên Hà Nội. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa binh đoàn Tây Tiến chưa được lâu, tại Phù Lưu Chanh, với nỗi lòng nhớ Tây tiến da diết, ông viết bài “Nhớ Tây Tiến”, sau ông đổi tên thành “Tây Tiến”. Bài thơ được tin trong tập “Mây đầu ô”.

Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã thốt lên:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Hòa mình vào nỗi nhớ dai dẳng không hồi kết, địa danh Tây Tiến gắn liền với con sông Mã hào hùng nó không chỉ là một người bạn thân thiết với mỗi người lính mà nó còn là một chứng nhân lịch sử. Điệp từ “nhớ” được nhắc lại ở câu thơ thứ hai nhấn mạnh nỗi nhớ da diết. Đặc biệt, khi kết hợp với từ láy “chơi vơi” càng tạo điểm nhấn kéo dài nỗi nhớ ấy, nó như thấm nhuần vào từng ngõ ngách tâm trí của nhà thơ.

Nỗi nhớ ấy tiếp tục bao trùm lên những câu thơ tiếp theo của Quang Dũng:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Trong những khổ thơ này, chúng ta đặc biệt nhấn mạnh đến các địa danh đã đi cùng năm tháng với người lính: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông… Những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua, dừng chân nghỉ ngơi. Nhà thơ đã sử dụng một loạt từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” để miêu tả địa hình khó khăn mà người lính phải hành quân qua.

Bên cạnh đó, hình ảnh “súng ngửi trời” như là một chi tiết đắt giá sáng rõ nhất cho cả khổ thơ trên. Súng biểu tượng cho chiến tranh, lại đang “ngửi trời”, khát vọng hòa bình, tự do của loài người. Đây cũng là một nét tinh nghịch của người lính trong thơ Quang Dũng. Đứng trên đỉnh dốc cao, hun hút, họ nhìn xuống “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” thấy thiên nhiên thật hùng vĩ, tráng lệ nhưng cũng đậm chất trữ tình “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Chỉ với 8 câu thơ đầu, Quang Dũng đã lột tả được nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Tiến, về người lính Tây Tiến vừa đẹp đẽ lại chân thực. Nhà thơ tiếp tục lia ngòi bút sắc bén của mình để phác họa hình ảnh người lính có những lúc mệt mỏi:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Hình ảnh người lính Tây Tiến trên đường hành quân có những lúc tưởng chừng như phải khuất phục trước thiên nhiên hay hi sinh “gục lên mũi súng bỏ quên đời”. Có người cho rằng ý của nhà thơ ở chỗ này thể hiện các anh chiến sĩ do mỏi mệt quá nên gục xuống nghỉ ngơi nhưng cũng có người cho rằng họ hi sinh, họ chìm vào một giấc ngủ ngàn thu tươi đẹp.

Nhưng dù nhìn vào khía cạnh nào ta cũng thấy sự khốc liệt của thiên nhiên, của chiến tranh đã đưa đẩy những người chiến sĩ vào vòng xoáy của sự đấu tranh sống còn vì tương lai của đất nước. Từ láy “chiều chiều”, “đêm đêm” càng lột tả được sự hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc, nơi luôn đầy rẫy những khó khăn, thử thách đang rình rập người lính. Để rồi đoàn quân Tây Tiến vẫn vượt qua:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu Mùa em thơm nếp xôi”

Hai câu thơ rất đỗi giản dị miêu tả cuộc sống thi vị hàng ngày với hình ảnh “cơm lên khói”,” nếp xôi”.

Quang Dũng tiếp tục hồi tưởng về đoàn quân hào hùng ấy với nét lãng mạn, hào hoa pha chút tinh nghịch:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Câu thơ có cả hình ảnh, âm nhạc “khèn”, ánh sáng của ngọn “đuốc”, đối lập hoàn toàn với những cảnh khó khăn nguy hiểm mà người lính đã trải qua ở phần trên.

Nhà thơ không chỉ chú trọng tới hình ảnh người lính đã mang màu sắc lãng mạn mà còn khắc họa chân dung bức tượng đài người lính sừng sững oai phong với ngôn ngữ gai góc, sắc nhọn mà chân thực:

“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
..
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Chỉ với 8 câu thơ Quang Dũng đã lột tả được sự gian khổ, khắc nghiệt của thời tiết núi rừng Tây Bắc với căn bệnh sốt rét hoành hành khiến cho đoàn binh “không mọc được tóc”. Rồi họ vẫn mơ mộng, nhớ về người thân nơi quê nhà, nhớ tới người thân của họ nơi tiền tuyến. Họ không chỉ phải đối mặt với thời tiết kinh hoàng mà họ còn phải đánh đổi cả mạng sống của mình để bảo vệ quê hương.

Hình ảnh ẩn dụ “áo bào” thay chiếu như mang một nỗi niềm xót xa. Những người chiến sĩ đã anh dũng hi sinh thân mình, họ đã anh dũng nằm lại với đất mẹ. Đất mẹ ôm ấp vỗ về họ như những đứa con cần được bao bọc, chở che. Đây là đoạn thơ mang âm hưởng hào hùng bi tráng nhất bài thơ. Đến cả “Sông Mã” cũng phải gầm lên bày tỏ lòng tiếc thương vô hạn.

“Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Kết thúc bài thơ là một nỗi buồn còn đọng lại trong lòng người đọc – một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng thấm thía. Tây Tiến vẫn như đang mời gọi, gieo vào lòng nhà thơ một cảm giác khó nói thành lời.

Phân tích Tây Tiến của Quang Dũng, chúng ta có thể hình dung ra hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ mà tráng lệ đồng thời cũng xây dựng một bức tượng đài người lính hùng dũng đáng ngợi ca, khâm phục. Bằng ngòi bút sắc sảo, giọng thơ sâu lắng nhiều tình cảm, “Tây Tiến” như một ngọn gió mới thổi vào thơ ca Việt Nam một luồng gió mới – một miền kí ức hào hùng sâu sắc.

Đọc thêm ✨ Bài Thơ Tây Tiến ✨của Quang Dũng

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ Ngắn Gọn – Nắng Mới

Trong nguồn mạch rộn ràng của phong trào “Thơ mới”, không thoát lên tiên như Thế Lữ, không điên cuồng như Hàn Mặc Tử, không say đắm như Xuân Diệu,… Lưu Trọng Lư lặng lẽ tìm về quá khứ, cảm nhận những điều sâu lắng trong tâm hồn. Bài thơ “Nắng mới” mang dư vị man mắc, thấm đượm nghĩa tình về hình ảnh người mẹ.

Bài thơ trải dài theo mạch cảm xúc đan xen giữa quá khứ và hiện tại về người mẹ thân yêu của nhà thơ. Trong tiếng gà trưa xao xác, nắng mang bao kỉ niệm xưa chợt ùa về bên song cửa , mang một nỗi buồn man mác, thiết tha:

“Mỗi lần nắng mới hắt lên song
Xao xác gà trưa gáy não nùng
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không”.

“Nắng mới” về mà nặng trĩu một nỗi buồn qua hai từ láy gợi nhiều hơn tả: “xao xác”, “não nùng”. Lời thơ giản dị, tự nhiên không chút cầu kỳ nhưng có sức lay động vào trong tiềm thức nhà thơ. Kỉ niệm xưa ùa về, khơi dậy trong tâm hồn nhà thơ cả một thời dĩ vãng tưởng đã nhạt nhòa. Cái “mới” đã mờ dần nhường chỗ cho cái “cũ”, “những ngày không” liệu rằng có phải những ngày trẻ thơ hồn nhiên vô tư của tác giả, liệu rằng có phải quá khứ ấy đã cháy lên trong lòng nhà thơ nỗi nhớ mẹ khôi nguôi.

Mạch thơ đi rất xa về quá khứ, về tận “thuở thiếu thời” với mẹ:

“Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời
Lúc người còn sống, tôi lên mười
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội
Áo đỏ Người đưa trước giậu phơi”.

Người mẹ ấy hiện lên với hỉnh ảnh mẹ đón nắng để phơi áo trước giậu, người mẹ chưa hiện lên trực tiếp mà chỉ thấp thoáng sau màu áo đỏ. Đó có lẽ cùng là hình ảnh đẹp đẽ nhất, trìu mến thương yêu nhất mà nhà thơ còn lưu giữ, khắc sâu trong tâm trí. Niềm thương nhớ chỉ chực dâng trào, mẹ không còn nữa, chỉ còn chút kỷ niệm nhạt nhòa đọng lại trong tâm hồn non nớt, ngây thơ của đứa trẻ lên mười.

“Hình dáng mẹ tôi chửa xóa mờ
Hãy còn mường tượng lúc vào ra
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè trước giậu thưa”.

Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh “nét cười đen nhánh”, như một nốt nhạc ngân vang cuối bản đàn mãi không dứt. Không phải là “nụ cười” mà là “nét cười” vì cái cười ấy rất nhanh, rất nhẹ, rất kín đáo, dường như chỉ lượt qua trên khuôn mặt chứ chưa kịp đọng lại thành một nụ cười. Nhưng cũng vì thế mà nó trở lên duyên dáng như:

“Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng”.

Hình ảnh người mẹ quá cố của nhà thơ từ đầu đến cuối chỉ được phác họa qua ba chi tiết: “nắng mới”, “áo đỏ” và “nét cười”. Nghe thì có vẻ đơn giản nhưng mang lại ý nghĩa sâu sắc, đó là hình ảnh của những người mẹ Việt Nam giàu lòng yêu thương, chịu thương chịu khó.
Về nghệ thuật, bài thơ mang giọng điệu nhẹ nhàng, da diết, cách gieo vần liền và vần chân tạo tính nhạc cho những câu thơ. Ngôn ngữ thơ giản dị, mang nét đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ tạo nên sự gần gũi, thân thuộc.

“Nắng mới” cũng thể hiện những cung bậc cảm xúc trong tâm hồn của nhà thơ, đó là lòng yêu thương, biết ơn sâu sắc với đấng sinh thành, khơi gợi bao cảm xúc trong lòng độc giả yêu thơ: “Thơ Lưu Trọng Lư không phải là một bài thơ, nghĩa là không phải là một công trình nghệ thuật mà là tiếng lòng thổn thức hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta”.

Cập nhật nội dung giá trị + nội dung ➡️ Bài Thơ Nắng Mới

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ Sang Thu Của Hữu Thỉnh

Giữa bộn bề mưu sinh của cuộc sống, chẳng mấy ai còn bận tâm hay dành thời gian để cảm nhận thời khắc giao mùa. Nếu mùa xuân là của của sự sống đâm chồi nảy lộc, mùa hạ là mùa của hoa thơm trái ngọt, mùa đông là mưa dầm gió bấc thì mùa thu là mùa của lá rơi và kỷ niệm. Bài thơ “Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh thực sự đã mang giây phút giao mùa sang thu chạm đến sự rung động của người đọc. Khoảnh khắc nhận ra thu về vừa ấn tượng lại dịu dàng và rất tinh tế.

Đối với Hữu Thỉnh, dấu hiệu để nhận biết mùa thu sang không phải là lá vàng rơi rụng mà là hương ổi chín thơm ngọt ngào. Một mùi hương tuy bình dị, dân dã nhưng lại rất đặc trưng và quen thuộc.

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”

Từ “bỗng” mở đầu bài thơ cho thấy tác giả khi ấy rất ngỡ ngàng, bất chợt nhận ra một mùi hương thân thuộc từ trong ngọn gió se se lạnh. Động từ “phả” được đảo lên đầu câu không chỉ diễn tả sự giao thoa, hòa quyện giữa hương ổi và gió se mà còn gợi sự vận động, lan tỏa nhẹ nhàng của một hương thơm thanh mát, dịu nhẹ của hương ổi trong không gian. Tác giả Hữu Thỉnh đã cảm nhận được dấu hiệu mơ hồ của mùa thu bằng các giác quan: khứu giác, thị giác và bằng cả tâm hồn nhạy cảm của một con người tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống.

“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”

Cách cảm nhận của tác giả thật khéo léo, những màn sương sớm được nhà thơ ví là đang “chùng chình” đi qua ngõ, mang vẻ ngập ngừng, thong dong, không chắc rằng thu đã về hay chưa, và để rồi cảm thấy bâng khuâng nhận ra “thu đã về”. “Hình như” đã diễn tả sự mơ hồ, không xác định trong cảm giác của nhà thơ khi bắt gặp những dấu hiệu chưa thực sự rõ nét của mùa thu.

Nếu trong khổ thơ đầu Hữu Thỉnh mơ hồ cảm nhận được những dấu hiệu của mùa thu thì sang khổ thơ thứ hai, sự thay đổi của đất trời khi thu sang được cảm nhận vô cùng rõ ràng. Quá trình chuyển biến của thiên nhiên khi sang thu hiện hữu ở mọi cảnh vật, khiến cho con người ta nhận ra mùa thu đang ngày càng hiện hình rõ nét chứ không còn mơ hồ nữa.

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”

Có thể thấy, sự biến chuyển của không gian, thiên nhiên trong quá trình sang thu đã được nhà thơ cảm nhận tinh tế qua nhiều yếu tố và bằng nhiều giác quan, đặc biệt đó là sự cảm nhận từ chính sự rung động của tác giả trước mùa thu. Dòng sông bước vào mùa thu không còn nước dâng cao chảy xiết mà “dềnh dàng” một cách nhẹ nhàng, yên ả, gợi lên vẻ đẹp dịu dàng của bức tranh thiên nhiên mùa thu. Những cánh chim cũng bắt đầu “vội vã” bay về phương Nam tránh rét.

Hình ảnh thú vị đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” khiến người đọc liên tưởng đám mây kia không phải vật vô tri vô giác mà bỗng trở nên có hồn, có cảm xúc. Trong khoảnh khắc giao mùa, đám mây mùa hạ cuối cùng di chuyển một cách nhẹ nhàng, uyển chuyển “vắt nửa mình sang thu”, dường như đám mây ấy vừa mong chờ thu sang nhưng cũng như lưu luyến, nuối tiếc phải chia tay mùa hạ.

Nếu như cuộc đời con người cũng như bốn mùa trong năm thì mùa thu là mùa mà ở đó con người ta đã trưởng thành, đã đủ chín chắn để chiêm nghiệm ra nhiều điều.

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”

Tiết trời mùa thu vẫn còn vương vấn cái oi nồng của mùa hạ “còn bao nhiêu nắng”, tuy vẫn sáng nhưng không chói chang gay gắt mà nhạt dần, dịu dần. Vẫn có mưa, nhưng không còn là những cơn mưa rào đến bất ngờ và đi trong thoáng chốc “vơi dần cơn mưa”. Trời vào thu cũng đã bớt đi những tiếng sấm đột ngột và bất ngờ trên những hàng cây đứng tuổi. Hai câu thơ cuối bài được coi là câu thơ hay nhất cũng là kết tinh giá trị tư tưởng cho toàn bộ bài thơ:

“Nắng cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”

Nắng, mưa hay sấm đều là những tác động bất ngờ và bất thường tự nhiên. Từ hiện tượng bất thường của thời tiết, tác giả Hữu Thỉnh đã gợi cho người đọc những chiêm nghiệm sâu sắc về tác động của nghịch cảnh trong cuộc đời mỗi người. “Hàng cây đứng tuổi” là những hàng cây cổ thụ, đó cũng là biểu tượng cho những con người đã trưởng thành. Khi con người đã trưởng thành, đã từng đi qua những bão táp, giông tố sẽ vững vàng, kiên cường hơn hơn trước những biến cố bất ngờ của cuộc sống.

Đất trời cuối hạ sang thu chuyển mình một cách rất nhẹ nhàng nhưng rõ rệt, nhờ có nhà thơ Hữu Thỉnh với bài “Sang thu” mà người đọc đã có cơ hội lắng mình trong giây phút để cảm nhận thu về. Không chỉ là sự cảm nhận về thay đổi thời tiết, thiên nhiên mà còn để nhìn nhận về chính bản thân mình sau những đổi thay.

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ Trữ Tình Nổi Tiếng – Thu Hứng

Đỗ Phủ là nhà thơ tiêu biểu của nền Thi Đường Trung hoa và được người đời sau tôn vinh làm Thi thánh (Thánh thơ). Cuộc đời Đỗ Phủ sống trong thời kì loạn An – Sử với những biến cố dữ dội của thời đại. Ông phải chịu cảnh li tán, ốm đau, bệnh tật và khốn khó tại Quỳ Châu. Trong những tháng ngày phiêu bạt nơi đất khách quê người, ông đã sáng tác bài thơ “Thu hứng” (bài 1) nằm trong chùm tám bài thơ cùng nhan đề. Tác phẩm khắc họa bức tranh thiên nhiên, con người trong mùa thu từ đó bày tỏ nỗi nhớ quê hương của tác giả Đỗ Phủ.

Ngay từ nhan đề đã gợi cho người đọc tâm trạng của thi nhân trước cảnh mùa thu. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình vận động từ cảm xúc trước bức tranh thiên nhiên mùa thu đến cảm xúc trước cảnh vật và khung cảnh sinh hoạt của con người.

Trong bốn câu thơ đầu, nhà thơ đã miêu tả bức tranh thiên nhiên mùa thu hiu hắt, tiêu điều. Khung cảnh mùa thu ở trên cao được khắc họa qua hai câu thơ: “Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,/ Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

” Từ “trắng xóa” đã diễn tả được độ dày của màn sương, gợi cho ta cảm giác sương dày đặc, giăng kín lối khiến cho rừng phong trở nên tiêu điều, xác xơ, hoang vắng. Nhà thơ nhắc đến hai địa danh là núi Vu và kẽm Vu thuộc tỉnh Tứ Xuyên Trung Quốc. Đây là nơi có địa hình hiểm trở với những vách núi dựng đứng. Về mùa thu, nơi đây mù mịt u ám lại kết hợp với cụm từ “hơi thu hiu hắt” càng nhấn mạnh không khí lạnh lẽo đang bao trùm khắp không gian.

Ở hai câu tiếp theo, tầm mắt của nhà thơ đã hạ xuống thấp với hình ảnh “sóng tung vọt trùm bầu trời” và “gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u”. Động từ “tung vọt”, “trùm” đều là những động từ mạnh diễn tả chuyển động nhanh, dữ dội của con sóng giữa lòng sông. Đồng thời, hình ảnh “gió mây sà xuống” khiến mặt đất âm u càng làm cho không gian trở nên tối tăm, lạnh lẽo, vô tình tạo cho người đọc những hình dung về địa thế hiểm trở của những cách núi khiến ánh mặt trời khó lọt được xuống tới lòng sông.

Sự kết hợp giữa cảnh tiêu điều, u ám của rừng phong với vẻ hùng vĩ của núi rừng hiểm trở đã tạo nên bức tranh thiên nhiên mùa thu hiu hắt, rợn ngợp. Bên cạnh việc miêu tả sự vật, hiện tượng thông qua ngôn từ, nhà văn đặc biệt chú ý đến cách gieo vần. Bốn câu thơ nhưng có đến tận ba câu gieo chủ yếu vần bằng tạo nên cảm giác mênh mang trong tâm trạng của nhân vật trữ tình khiến âm điệu thơ có phần bi thương. Nhà thơ đã thể hiện nỗi buồn mênh mang của mình trước bức tranh thiên nhiên mùa thu.

Đến bốn câu cuối trong bài thơ, ta nhận thấy nhân vật trữ tình có sự vận động, biến chuyển cảm xúc trước cảnh vật và khung cảnh sinh hoạt của con người. Nỗi lòng của chủ thể trữ tình được bộc lộ thông qua những hình ảnh: “khóm cúc nở hoa hai lần”, “con thuyền lẻ loi”, “rộn ràng dao thước may áo rét”, “tiếng chày nện vải càng dồn dập”.

Hình ảnh “khóm cúc nở hoa hai lần” dùng để chỉ thời gian tương ứng với hai năm xa nhà của tác giả. Nhà thơ không giấu nổi nỗi xúc động mà tuôn rơi nước mắt khi nhìn về khóm cúc. Danh từ “con thuyền” gợi ra sự trôi nổi, vô định kết hợp với từ láy “lẻ loi” càng làm tăng thêm nỗi cô đơn, không bến đỗ trong tâm tưởng của chủ thể trữ tình.

Hình ảnh con thuyền không chỉ giới hạn ở nghĩa tả thực mà nó còn mang ý nghĩa biểu tượng dùng để chỉ thân phận lênh đênh của con người. Hai câu thơ: “Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,/ Cô chu nhất hệ cố viên tâm” đã diễn tả nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết của nhân vật trữ tình trước khung cảnh thiên nhiên mùa thu.

Đến hai câu cuối, bài thơ bắt đầu xuất hiện âm thanh náo nhiệt “rộn ràng dao thước” và “tiếng chày nện vải” của con người. Tuy nhiên, những từ láy “rộn ràng”, “dồn dập” không khiến cho bài thơ trở nên tươi vui hay làm cho tâm trạng nhân vật trữ tình tốt hơn. Đứng trước khung cảnh sinh hoạt của con người, nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả càng trở nên mãnh liệt hơn. Như vậy, bốn câu thơ cuối của bài thơ đã diễn tả tâm trạng đau buồn, nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương sâu sắc từ đó bày tỏ tình yêu quê hương của thi nhân. Bài thơ không chỉ là tâm trạng của riêng Đỗ Phủ mà nó còn đại diện cho biết bao người sống trong thời đại với nhiều biến cố.

Cũng nằm trong chùm tám bài thơ cùng nhan đề, “Thu hứng” (bài 2) miêu tả khung cảnh Phủ Quỳ, từ đó thể hiện niềm yêu nước một cách thầm kín. Mặc dù cùng viết về cảm xúc của con người trong thu nhưng điều khiến cho “Cảm xúc mùa thu” (bài 1) trở nên độc đáo và khác biệt so với bài 2 nằm ở hình ảnh thơ giàu sức gợi, chan chứa một nỗi u hoài, trầm lắng của nhà thơ khi phải rời xa quê hương, lưu lạc nơi đất khách quê người.

Bài thơ được triển khai với tứ thơ theo các mối quan hệ tương đồng, tả ít gợi nhiều. Ngôn từ cô đọng, hàm súc. Tác giả tuân thủ chặt chẽ về niêm, luật, cách gieo vần. Nhan đề, nội dung cảm xúc và hình ảnh nghệ thuật đều góp phần bộc lộ chủ đề của tác phẩm: thể hiện nỗi nhớ, tình yêu quê hương của tác giả trước bức tranh thiên nhiên và khung cảnh sinh hoạt của con người trong mùa thu.

“Cảm xúc mùa thu” bài 1 mang dấu ấn của một hồn thơ tinh tế. Nỗi u hoài, thương nhớ quê hương của tác giả khi ông sống trong cảnh khốn khó, bệnh tật tại Quỳ Châu đã để lại nhiều xúc cảm, suy tư với người đọc. Tài năng và nhân cách cao đẹp của Đỗ Phủ đã giúp ông trở thành Thi Thánh trong lòng hậu thế.

Phân tích chi tiết bài 👉 Thu Hứng Của Đỗ Phủ

Văn 10 Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu – Tự Tình II

Kho tàng văn học Việt Nam đã ghi dấu ấn của bao nhà văn, nhà thơ với những quan điểm sáng tác và phong cách nghệ thuật khác nhau vô cùng độc đáo và đa dạng. Một trong số đó ta không thể không nhắc đến nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương với cá tính mạnh mẽ và trái tim khao khát yêu thương. Tài năng của bà được thể hiện rõ nét qua bài thơ Tự tình 2 được rút từ tập thơ cùng tên.

Mở đầu bài thơ là khung cảnh thời gian và không gian bộc lộ tâm trạng của nữ thi sĩ:

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non

Thời gian vào đêm khuya, khi mọi vật đã chìm trong bóng đêm, vạn vật trở nên tĩnh lặng, không gian trở nên hoang vắng, đủ để nghe thấy tiếng trống canh từ nơi xa vọng lại. Âm thanh “văng vẳng” được vọng lại từ một nơi rất xa xôi, dường như âm thanh tiếng trống canh chỉ nghe thấy thấp thoáng theo từng cơn gió thổi và người nghe phải lắng tai lắm mới nghe được. Từ “cái” đặt trước danh từ “hồng nhan” khiến cho hai chữ này không còn giá trị.

Hồng nhan nhưng lại là “cái hồng nhan” ẩn chứa đằng sau một cái gì đó như xem thường, thể hiện rõ ràng ở đây sự tự ý thức của người trong cuộc. Trước “cái hồng nhan” còn là tính từ “trơ” chỉ trạng thái đơn độc, lẻ loi, không nơi nương tựa. Giữa không gian vắng lặng của buổi đêm, khi mọi vật đang chìm trong sự nghỉ ngơi, yên tĩnh còn mình lại vẫn ngồi đây với rất nhiều nỗi lòng, rất nhiều tâm sự đối lập với không gian rộng lớn.

Nối tiếp không gian, thời gian là hình ảnh của người phụ nữ lẻ loi:

Chén rượu hương đưa say lại tĩnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

Thông thường, con người tìm đến rượu khi người ta cảm thấy đau khổ, bế tắc, thất vọng để nó trở thành một liều thuốc làm khuây khỏa tâm hồn nhưng cuối cùng, nữ thi sĩ vẫn không thể trốn tránh được hiện thực xót xa của mình. Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên cái vòng luẩn quẩn.

Để miêu tả về vầng trăng, Hồ Xuân Hương đã dùng một lúc đến tận ba cụm từ: bóng xế, khuyết, chưa tròn. Cả ba từ này đều có ý nghĩa diễn tả về một vầng trăng không trọn vẹn. Nó là ta nhớ đến số phận éo le của chính nữ sĩ, chính sự tương đồng này đã khiến cho nỗi niềm tâm sự của nhân vật trữ tình càng trở nên sâu sắc và giàu sức ám ảnh.

Hai câu thực là những hình ảnh độc đáo và vô cùng cá tính, khác biệt của thiên nhiên:

Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn

Đám rêu phải mọc xiên ngang mặt đất. Đá đã rắn chắc, lại càng phải trở nên rắn chắc hơn để có thể vượt lên “đâm toạc chân mây”. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu thơ luận đã làm nổi bật sự phẫn uất của thân phận đất đá cỏ cây, cũng là sự phẫn uất của tâm trạng. Những động từ mạnh “xiên”, “đâm” được kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” độc đáo thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh như một lời thách thức những khó khăn, cay đắng trong cuộc sống của nhân vật trữ tình.

Khép lại bài thơ là tâm tình, thái độ của nữ thi sĩ trước số phận bất hạnh:

Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!

Ngán là chán ngán, là ngán ngẩm cuộc đời éo le, bạc bẽo, thế cục xoay vần của tạo hóa mà mình thì vẫn cô độc. “Xuân” vừa là mùa xuân mà cũng chính là tuổi xuân. Mùa xuân quay vòng với tạo hóa nhưng tuổi xuân của con người đã đi qua thì không bao giờ trở lại. Hai từ “lại lại” nghe ngao ngán, nó khiến cho khoảng đối lập giữa con người và tự nhiên càng lớn và nghịch cảnh lại càng éo le hơn. Đã là một “mảnh tình” rất nhỏ bé tội nghiệp rồi mà giờ đây còn là “san sẻ” đến nỗi cuối cùng chỉ là “tí con con”. Điều ấy đối với một người bình thường đã là ít ỏi lắm rồi thì với một người bản lĩnh như Hồ Xuân Hương lại càng khó chấp nhận. Từ đây, ta cũng sẽ thấy được ý thức, cá tính mạnh của Hồ Xuân Hương càng khiến tình cảnh trở nên éo le, xót xa và tội nghiệp hơn.

Bài thơ như một lời đại diện bộc lộ tâm tư, tình cảm của người phụ nữ trong xã hội cũ đối với số phận bất công của mình. Qua bài thơ ta thêm hiểu và yêu hoàn cảnh của họ; đồng thời sẽ thêm trân trọng những giá trị tốt đẹp mà chúng ta đang có được ngày hôm nay. Bài thơ đã góp phần làm phong phú nền văn học Việt Nam và đưa tên tuổi của nhà thơ Hồ Xuân Hương đến gần hơn với độc giả.

Đọc thêm những bài văn mẫu về 👉 Phân Tích Một Tác Phẩm Truyện 

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Văn Học Lớp 10 Nâng Cao – Mùa Hoa Mận

Chu Thùy Liên là một nhà thơ nữ tiêu biểu trong số đông đảo các nhà thơ dân tộc thiểu số. Những vẫn thơ của bà thường mang đến dư vị tinh tế, khó quên. Đọc tập “Thuyền đuôi én”, chúng ta không thể bỏ qua sáng tác mang tên “Mùa hoa mận”. Bằng ngòi bút tài năng, tâm hồn trong sáng, Chu Thùy Liên đã khắc họa chân thực bức tranh thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt của con người Tây Bắc.

Bài thơ chỉ có ba khổ thơ ngắn gọn. Mỗi khổ đều được mở đầu bằng câu “Cành mận bung cánh muốt” đã khéo léo gợi ra cảnh sắc thiên nhiên vào mùa hoa nở. Trước hết, đó là khung cảnh:

“Cành mận bung cánh muốt
Lũ con trai háo hức chơi cù
Lũ con gái rộn ràng khăn áo
Bóng bay nâng ước mơ con trẻ”

Xuân đến cũng là lúc những nụ hoa mận hé nở. Sắc trắng tinh khôi, thuần khiết nơi đầu cành cứ vậy mà rung rinh trong gió. Tiết trời ấm áp, cảnh vật hài hòa khiến lòng người không khỏi cảm thấy bồn chồn, nao nức. Dưới tán cây, trẻ con hồn nhiên vui đùa.

Lũ con trai cùng nhau chơi cù – một trò chơi dân gian phổ biến ở hầu hết các dân tộc. Lũ con gái thì rộn rã khăn áo. Các từ láy “háo hức”, “rộn ràng” đã góp phần làm nổi bật bầu không khí vui tươi ở nơi đây. Hình ảnh trẻ tinh nghịch vui chơi, cầm trên tay quả bóng khiến nhà nhà thơ liên tưởng đến “Bóng bay nâng ước mơ con trẻ”. Dường như, những chùm bóng kia chính là thứ để lũ trẻ vùng cao gửi gắm mơ ước, mong muốn. Phải chăng, chúng đang hi vọng về một tương lai tươi sáng ở phía trước?

Bức tranh về cuộc sống sinh hoạt tiếp tục được điểm tô nhờ sự xuất hiện của người lớn:

“Cành mận bung cánh muốt
Giục mẹ xôn xang lá, gạo
Giục cha vui lòng căng cánh nỏ
Giục người già bản hối hả làm đu”

Hoa đã nở, xuân đã về và Tết cũng sắp ghé thăm bản làng. Ngắm nhìn cành hoa trắng muốt, người lớn lại tất bật, khẩn trương chuẩn bị cho năm mới. Mẹ vội vã tìm lá, gạo để gói bánh. Cha phấn khởi, vui mừng căng lên cánh nỏ. Còn người già trong bản lại bận rộn làm đu. Mỗi người một việc. Ai nấy đều trong trạng thái hối hả, như thể bị sự thúc giục của bông hoa mận kích thích.

Ngôi nhà đặc trưng của người vùng cao cũng được tái hiện khéo léo trong những câu thơ kết:

“Cành mận bung cánh muốt
Nhà trình tường ủ hương nếp
Giục lửa hồng nở hoa trong bếp
Cho người đi xa nhớ lối trở về…”

Thấp thoáng trong sắc trắng hoa mận là hình ảnh ngôi nhà thân thương với bốn bức tường làm từ đất nện. Ngôi nhà đơn sơ ấy đã cất chứa, lưu giữ biết bao hương vị quê hương. Đó là mùi thơm của hương nếp, của bếp lửa bập bùng. Không khí gia đình thật ấm cúng, hạnh phúc làm sao. Càng nghĩ tới, nhân vật trữ tình càng cảm thấy nhớ nhung da diết, khôn nguôi. Câu thơ cuối “Cho người đi xa nhớ lối trở về” là tâm tình, ước muốn được trở về quê nhà. Sau tất cả, những cảnh vật thân thương chính là thứ in sâu trong tâm trí con người. Đồng thời, đưa đường dẫn lối để họ quay trở lại bản làng.

Bằng hình ảnh thơ gần gũi, mang đậm màu sắc Tây Bắc; ngôn ngữ trong sáng, mộc mạc, dễ hiểu cùng biện pháp điệp cấu trúc “Cành mận bung trắng muốt”, nhà thơ Chu Thùy Liên đã mang đến cho độc giả những hình dung chân thực về bức tranh thiên nhiên và con người nơi vùng cao xa xôi như Tây Bắc đại ngàn. Đồng thời, khéo léo gửi gắm tình cảm yêu mến, nhớ thương quê hương.

Qua “Mùa hoa mận”, ta như được hòa mình vào không gian tươi đẹp, trong trẻo của vùng đất phía Tây Bắc Tổ quốc. Chỉ với ba khổ thơ ngắn gọn, Chu Thùy Liên đã lột tả rõ nét khung cảnh nên thơ, rất đỗi giản dị. Để rồi, từ ấy, nhắc nhở mỗi người hãy luôn nhớ về quê hương – nơi chôn rau cắt rốn.

Đọc thêm 👉 Bài Thơ Mùa Hoa Mận

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ Lớp 10 Trang 61 – Mùa Xuân Chín Của Hàn Mạc Tử

Hàn Mạc Tử là nhà thơ đã có nhiều sáng tác hay viết vào mùa thu, một trong những tác phẩm nổi bật của ông đó là bài thơ Mùa Xuân Chín, tác phẩm này để lại cho tác giả nhiều cảm xúc.

Mùa xuân chín là một tác phẩm viết về mùa thu với những độ chín của mùa màng, hình ảnh đó thể hiện một tình cảm đặc biệt mà người đọc đã hướng tới, đầu tiên tác giả đã sử dụng những hình ảnh để báo hiệu rằng mùa thu đã tới, hình ảnh những cơn sướng mùa, những tiếng gió sột soạt trên mái nhà, và những giàn thiên lý đang báo hiệu mùa thu đã sang, những hình ảnh đó đã mang lại cho người đọc một cái nhìn sâu sắc và có nhiều ấn tượng nhất cho người đọc:

Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm thấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý- đón xuân sang

Những làn nắng đang dần nhẹ đi bởi thu đang tới hình ảnh của nắng không còn nắng gắt như mới mùa hè, trên những mái nhà đã đang lấm thấm vàng, ở đây hình ảnh vàng có thể được xem như là hình ảnh của những chiếc lá vàng rơi, và những làn gió sột soạt trên mái nhà, đó là những hình ảnh đầy tính sáng tạo nó gợi mở cho người đọc một cái nhìn sâu sắc, rằng mùa thu đang tới:

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Ba cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi

Những hình ảnh bầu trời xanh đang dần gợi lại những hình ảnh tươi đẹp, nó đang dần lan tỏa và bom trùm lên toàn bộ không gian ở nơi đây, nó thể hiện một tình cảm đặc biệt nhất, với những hình ảnh của cánh đồng đang hát vang và vang và đám xuân xanh, ở đây ẩn dụ để nói những người con gái đang đến tuổi xuân thì, sắp bỏ những người yêu thương để đi lấy chồng, hình ảnh của bầu trời xanh, với các cô gái đang hát trong cánh đồi, và hình tượng đó biểu hiện cho ngay nhan đề, mùa xuân chín, hình ảnh đó đã thể hiện những độ nở rộ, nó đang tràn trề bao nhiêu nhựa sống, tất cả mọi vật đang dần sinh sôi và nảy nở:

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với ai ngồi dưới gốc trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây.

Trên lưng chừng núi, những tiếng ca của những cô thôn nữ, đang ca hát, tiếng ca trong trẻo, và nó đang vắt vẻo trong khoảng không gian của núi rừng, hình ảnh của những tiếng ca, như đang hòa nhập vào cùng với không gian của thiên nhiên, đó là hình ảnh của núi mây, với rất nhiều những hình ảnh đẹp và mang nhiều màu sắc đặc biệt nhất cho con người, giá trị đó để lại cho mỗi chúng ta cái nhìn mới mẻ và sâu sắc nhất.

Hình ảnh của những người đang trên lưng chừng núi, với những làn điệu của những âm vang, thì thầm bên khóm trúc, nó gợi ra một cảm giác thi vị và hòa nhập với thiên nhiên, tình cảm đó đang thể hiện một cái nhìn mới mẻ, và đầy ý nghĩa cho người đọc, tình cảm đó da diết và thể hiện một nỗi nhớ căng tràn, nó mang lại cho người đọc một cảm xúc lưu luyến và đầy ý vị nhất.

Hình ảnh của những cô thôn nữ, hòa cùng với làn điệu trong những âm vang của cuộc sống, điều đó để lại cho người đọc một cái nhìn mới mẻ, về mùa thu, với sự tươi tắn và căng tràn trong khung cảnh thiên nhiên, tình cảm đó đặc biệt sâu sắc, với những ý thơ đầy tế nhẹ và uyển chuyển biết bao:

Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông nắng trắng chang chang.

Và hình ảnh của người khách đang lưu luyến trước cảnh sắc của mùa xuân, họ đang lưu luyến trước những cảnh sắc tươi đẹp hình ảnh đó làm cho tâm hồn của họ bâng khuâng một nỗi nhớ da diết, tình cảm đặc biệt và vô cùng sâu sắc đang dần thể hiện trong tác phẩm, những hình ảnh đó đã mang lại cho người khách một cảm giác quen thuộc, hình ảnh của chị ấy năm nay gánh thóc, và bên bờ sông nắng vẫn đang chang chang soi rọi vào tâm trí của con người, hình ảnh đó đã để lại cho con người biết bao nhiêu cảm xúc lưu luyến trước hình ảnh của cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và đẹp tuyệt mỹ.

Bài thơ đã để lại cho người đọc nhiều cảm xúc sâu sắc nhất, đó là hình ảnh của một mùa xuân đang độ nở rộ thể hiện một tình cảm sâu sắc, mà tác giả đang muốn hướng tới, hình ảnh đó đang dần khắc sâu vào tâm trí của người đọc, giá trị đó đã thể hiện được một cái nhìn mới mẻ, và đầy giá trị nhất. Hình ảnh mùa xuân hòa nhập vào dòng tâm trạng của người đọc và những người khách đang tới, nó tạo nên một cảm xúc mãnh liệt và đang đẩy họ đến những cảm giác lưu luyến trước cảnh sắc của thiên nhiên đất trời.

Gợi ý phân tích 🍂 Mùa Xuân Chín 🍂 của Hàn Mặc Tử

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Bài Thơ Lớp 10 Trang 73 – Đi Trong Hương Tràm

Hoài Vũ đã khéo léo gửi cái ánh mắt ấy vào trong lá tràm. Để rồi bất cứ thứ gì liên quan đến “em” cũng trở thành Tràm. Tưởng như Tràm là em từ bao giờ rồi. Và bài thơ ngập trong hương tràm, lá tràm, gió tràm. Tràm chính là em, em có ở trong tràm. Cái xứ Tháp Mười này cũng trở thành xứ tràm – xứ em!

Anh vẫn thấy bóng em giữa bóng tràm bát ngát Anh vẫn thấy mắt em trên lá tràm xanh mát Anh vẫn nghe tình em trong hương tràm xôn xao…”

Em là bóng tràm. Em là mắt lá tràm. Em là hương tràm. Và vì thế cho nên rất dễ hiểu vì sao trong bốn khổ thơ, khổ nào cũng gió tràm, cũng mây tràm, cũng hương tràm, lá tràm… Và vì thế cho nên “Đi trong hương tràm” chính là đi trong tình em! Bốn khổ thơ, cuối mỗi khổ đều quấn quyện hương tràm, tưởng như cả bài thơ ngập trong cái hương tràm xôn xao kia.

Khổ thứ nhất: “Mà khắp trời mây hương tỏa bay”, khổ thứ hai: “Một thoáng hương tràm cho ta bên nhau”, khổ thứ ba: “Hương tràm bên anh mà em đi đâu?”, khổ thơ thứ tư: “Anh vẫn nghe tình em trong hương tràm xôn xao”. Mỗi khổ thơ là một khổ hương tràm, một sắc thái hương tràm. Và mỗi khổ cũng là một sắc thái tâm trạng của nhân vật trữ tình “anh”. Tất cả đắm say trong hương tràm, trong “tình em”. Ngay từ khổ thứ nhất đã say đắm:

“Hoa tràm e ấp trong vòm lá
Mà khắp trời mây hương tỏa bay”

Không đắm say, không nhập tâm nhập thần cái hương tràm ấy thì làm sao mà từ bông hoa tràm trong vòm lá kia lại có thể thấy được một trời mây hương tràm tỏa bay như thế! Tuy nhiên, cái đắm say ấy cũng mới chỉ là bước khởi đầu của một chuỗi diễn biến tâm trạng của “anh”.

Nó mới chỉ là cái đắm say của cảnh, của lá tràm, bóng tràm thực tại. Khổ hai, tâm trạng bắt đầu vận động theo hương tràm. Sau một loạt những “Dù” phũ phàng và đau đớn là “Một thoáng hương tràm cho ta bên nhau”.

Từ bông hoa tràm mà thấy được một trời mây hương tràm tỏa bay đến không có “em” mà vẫn có thể “cho ta bên nhau” qua “một thoáng hương tràm” thì cái liên tưởng ở đây đã có chiều hướng đi sâu vào tâm tưởng. Và như một quy luật của logic tâm hồn, khi chạm đến những gì là của tâm tưởng, của tâm thức thì sau phút đắm say sẽ là nỗi đau.

Mà sự đắm say càng sâu thì nỗi đau càng giằng xé, càng quặn thắt. Cái thực tại phũ phàng “Hương tràm bên anh, mà em đi đâu” như muốn phá tan tất cả những hư ảo mơ màng của không – gian – tràm trước đó. Nhưng có lẽ vì anh chung tình quá nên cái không – gian – tràm ấy không dễ gì mà phá vỡ được. Và đến khổ cuối thì cái cảm xúc: “Anh vẫn nghe tình em trong hương tràm xôn xao” đã trở thành siêu liên tưởng!

“Gió Tháp Mười đã thổi thổi rất sâu
Có nỗi thương đau có niềm hi vọng

Không gian thơ ở đây được phân định thành hai chiều không gian rõ ràng: Một chiều không gian thực tại với những cây tràm, bông tràm, lá tràm và “xa cách”, và “đổi hướng thay màu”, và “không trao anh nữa”, và thương đau… Một chiều không gian của tâm thức, tiềm thức với bóng tràm, với hương tràm, với mắt tràm, với mây tràm, với gió tràm, với “hy vọng”, với “cho ta bên nhau”…

Chính vì cái không gian này nên cái ngọn gió của xứ Tháp Mười – xứ tràm – xứ em kia mới “thổi rất sâu” chứ không phải là thổi rất xa hay rất cao! Cái chiều thổi của gió là chiều của tâm hồn, chiều của nỗi nhớ, của tình yêu, của niềm hy vọng…

Và có lẽ cũng bởi cái chiều không gian thứ hai này và cái chung tình của “anh” mà khiến cho cái không gian chung của bài thơ không ít mơ màng, hư ảo này bừng sáng lên trong từng câu chữ.

Cầm trên tay bài thơ “ Đi trong hương tràm” của Hoài Vũ và đã được nhạc sĩ Thuận Yến phổ nhạc mà lòng tôi cứ bâng khuâng trong giai điệu da diết, mặn mà nhưng khắc khoải đến nao lòng:

Dù đi đâu dù xa cách bao lâu.
Dù gió mây kia đổi hương thay màu.
Dù trái tim em không trao anh nữa.
Một thoáng hương tràm cho ta bên nhau.

Không thể giữ lòng mình khi ngoài kia gió đông vẫn vi vút thổi mà nàng xuân đã nhón bước nhẹ nhàng, e ấp đậu trên hoa đào hoa mai đang đơm nụ, tôi miên man trải lòng mình với “ Đi trong hương tràm”, với hương tình yêu mãi xanh, thuỷ chung và thánh thiện…

Chưa một lần được tới Tháp Mười, chưa được thấy rặng tràm xanh mát, chưa được ngắm hoa tràm e ấp, chưa được biết hương tràm ra sao nhưng bài thơ của Hoài Vũ cứ xôn xao mãi trong lòng. Có phải vì hương, hoa, lá tràm gắn liền với tình yêu rất đỗi thuỷ chung và thánh thiện của người trai Nam Bộ!

“Gió Tháp Mười đã thổi thổi rất sâu
Có nỗi thương đau có niềm hi vọng
Bầu trời thì cao cánh đồng thì rộng
Hương tràm bên anh mà em đi đâu”

Hương tràm bên anh mà em đi đâu như một nét dao cứa vào lòng nhân vật trữ tình, nó cứ xoáy sâu, khoan vào nỗi nhớ da diết, tình yêu đằm sâu của người trai Nam Bộ. Người trai ấy đang đứng giữa Tháp Mười mênh mông. Bầu trời cao, cánh đồng rộng và hun hút gió thổi… trong lòng.

Cơn gió Tháp Mười thổi đi đâu? Nếu lên trời thì rất cao, nếu trên cánh đồng thì rất dài, rất rộng. Rất sâu, ấy là gió đã thổi vào tâm trạng, vào cõi lòng của con người. Hai chữ “Thổi” đặt cạnh nhau trong câu thơ gây một ấn tượng đặc biệt. Hình như gió cũng phải nghỉ lấy hơi, phải tiếp sức với nhau mới đi tới được “Tháp Mười” tâm trạng!

Thiên nhiên cao rộng, trống trải đến rợn ngợp. Còn con người thì đang có bão ở trong lòng. Anh có gì tựa vào để đứng vững và liệu anh có đứng vững được không? Anh chỉ có hương tràm mà thôi, hương tràm và kỷ niệm về một người con gái giờ cũng thoảng như hương: “Dù trái tim em không trao anh nữa Một thoáng hương tràm cho ta bên nhau”.

Nhưng sự “Bên nhau” ấy mong manh quá không che khuất được nỗi cô đơn: “Hương tràm bên anh mà em đi đâu” Tưởng như nỗi thương đau có thể làm cho con người sụp xuống. Nhưng không, hương tràm mong manh, nhưng hương tràm là một thứ bùa ngải nhiệm màu:

“Dù đi đâu dù xa cách bao lâu
Dù gió mây kia đổi hương thay màu”

Khoảng cách không gian không có ý nghĩa gì, khoảng cách thời gian cũng không là gì. Ngay cả thiên nhiên với quy luật “Vĩnh hằng” có đổi thay đi nữa thì cũng không hề ảnh hưởng. Chưa hết, ngay cả trái tim không thể trao nhau như thoáng hương tràm đủ bắc cầu qua không gian, thời gian, “Qua mặt” thiên nhiên, qua cả sự trao gửi tình thương để đến niềm yêu vĩnh cửu.

Điệp một lúc những bốn chữ “Dù” và sau đó là bao nhiêu điều kiện để khẳng định tình yêu vẫn là mãi mãi. Đó phải chăng là một sự thách thức, một sự bất chấp. Liệu có phải là thái độ “Khùng khùng” một tâm trạng “Cùng ca” hay không? Không, chỉ cần đọc tiếp khổ thơ sau, ta sẽ hiểu:

Bóng em ….. giữa bóng tràm
Mắt em …… trên lá tràm
Tình em ……. trong hương tràm

Vậy là em và kỷ niệm xưa gắn liền với rừng tràm đã hoá thân vào cây tràm, đã biến thành một loài cây mãi mãi xanh tươi, mãi mãi sinh sôi nảy nở. Tình yêu ấy là bất tử. Nhạc sỹ Thuận Yến, người phổ nhạc cho bài thơ cho biết: Hoài Vũ viết bài thơ tặng anh Tư có người yêu là cô giao liên đã hy sinh. Như thế, “Em đi đâu” tức là em đã hy sinh mình và hoá thân vào đất Mẹ.

“Trái tim em không trao anh nữa” là em sẽ không thể trao chứ không phải đổi dạ thay lòng. Biết thêm chi tiết này là ta càng thêm quý mến sự chung tình của người con trai Nam Bộ và xúc cảm biết bao trước những người con đã ngã xuống vì độc lập tự do của Tổ quốc.

Nhạc sĩ Thuận Yến đã phổ bài thơ Đi trong hương tràm với một cung thứ khác lạ, bằng những nốt luyến láy mang âm hưởng những điệu hò dân gian Nam bộ, giai điệu khiến người nghe như mường tượng ra một không gian bát ngát hương tràm.

Đi trong hương tràm qua giọng hát của NSND Thu Hiền rất được người nghe yêu thích Có lẽ Hoài Vũ đã không viết quá cụ thể, quá riêng biệt về đôi trai gái như vậy lại hay. Bài thơ vì thế mà có được sự đồng thanh đồng điệu. Còn biết bao nhiêu mối tình gắn bó với hương tràm, hương sen, hương lúa, hương chanh, hương bưởi… những hương hoa ở mọi miền quê đất Việt.

Không phải là cái chết, mà vì một lí do nào đó, họ không trao được trái tim cho nhau. Nhưng họ vẫn giữ ở trong lòng thoáng hương xưa ấy. Thoáng hương mong manh nhưng đủ để cho con người có thể sống Người hơn.

Chia sẻ thêm 👉 Viết Đoạn Văn Thể Hiện Cảm Xúc Về Một Bài Thơ Lục Bát

Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ Lớp 10 Tập 2 – Đất Nước Của Nguyễn Đình Thi

Quê hương đất nước là chủ đề, cảm hứng nổi bật trong văn học nghệ thuật. Các tác giả luôn đặt trọn tình cảm yêu mến da diết vào những tác phẩm của mình. Với quãng thời gian sáng tác 7 năm (từ 1948 đến 1955), nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết nên bài thơ nổi tiếng mang tên “Đất nước”. Thi phẩm này đem đến cho người đọc những cái nhìn chân thực về một Việt Nam anh hùng, kiên cường.

Có thể thấy rằng, chủ đề của “Đất nước” được thể hiện ngay trong chính nhan đề – Tổ quốc Việt Nam ta. Bằng ngòi bút tài tình, tâm hồn thi vị, tác giả đã vẽ nên bức tranh về đất nước một cách khái quát ở từng thời điểm. Và bao trùm lên toàn bộ bài thơ là tình yêu, niềm tự hào mãnh liệt của con người dành cho mảnh đất hình chữ S.

Trước hết, đất nước hiện lên qua khung cảnh mùa thu Hà Nội năm xưa:

“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới”.

Cụm từ “Sáng năm xưa” gợi ra hình ảnh về một buổi sáng trời thu với tiết trời trong lành, mát mẻ. Trong bầu không khí ấy, gió nhẹ nhàng thổi, hòa cùng hương cốm mới. Chỉ với hai câu thơ ngắn gọn, nhà thơ đã tái hiện lại cảnh sắc yên bình của mảnh đất ngàn năm văn hiến. Từ đó, khéo léo bày tỏ tình cảm nhớ thương “Tôi nhớ những ngày thu đã xa”. Câu thơ là sự chuyển mạch hết sức nhịp nhàng. Nguyễn Đình Thi đưa độc giả trở về những ngày đầu kháng chiến:

“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may”

Trong hoài niệm của nhân vật trữ tình, thu Hà Nội thật thơ mộng và đẹp đẽ. Sáng sớm, bầu không khí thường se se lạnh, xao xác hơi thở của gió heo may. Không gian thành phố được mở rộng nhờ hình ảnh “những phố dài”. Trên nền bức tranh thu, con người xuất hiện với tâm thế “Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đây”.

Mạch thơ có sự thay đổi, giọng thơ thiết tha mang âm hưởng bâng khuâng. Con người ra đi “đầu không ngoảnh lại” nhưng vẫn cảm thấy sau lưng lá vàng rơi đầy trên thềm. Từng bước chân bước đi một cách dứt khoát, vững vàng song trong lòng còn quyến luyến, bịn rịn. Như vậy, ở khổ thơ này, nhà thơ tả ít mà gợi nhiều. Qua đấy, dựng lên bức tranh thu cổ kính từ chính những không gian, hình ảnh, màu sắc, hương vị quen thuộc, đặc trưng của thành phố Hà Nội.

Từ mùa thu hoài niệm, Nguyễn Đình Thi quay trở lại với mùa thu thực tại:

“Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha”

Câu thơ ngắn gọn 5 chữ, nhịp thơ nhanh, giọng thơ khỏe khoắn, hồ hởi như một tiếng reo ca trước sự đổi thay của đất nước. Cụm từ “khác rồi” nhấn mạnh vào những biến chuyển ấy. Giờ đây, bức tranh thu được mở rộng, trải dài về không gian với hình ảnh “rừng tre”, “núi đồi”. Đứng giữa thiên nhiên bao la, “tôi” – nhân vật trữ tình cảm thấy hân hoan, vui sướng khi chứng kiến cảnh mùa thu “thay áo mới”. Cảnh tượng ấy càng thêm tươi đẹp nhờ tiếng cười nói rộn rã. Dường như, niềm hạnh phúc đang bao trùm lên tất cả mọi thứ, từ cảnh vật cho đến con người.

Bức tranh đất nước rộng lớn được tô điểm thông qua những hình ảnh:

“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”

Sự thay đổi trong cách xưng hô từ “tôi” thành “chúng ta” cùng biện pháp điệp ngữ “đây là”, liệt kê “trời xanh”, “núi rừng”, “những cánh đồng”, “những ngả đường”, “những dòng sông” đã thể hiện niềm hạnh phúc trào dâng khi con người được làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh. Hàng loạt tính từ “xanh”, “thơm ngát”, “bát ngát”, “đỏ” được sử dụng, góp phần tô đậm cảnh sắc thiên nhiên quê hương, Tổ quốc thân yêu.

Định nghĩa về “đất nước”, nhà thơ khéo léo giải thích qua mấy vần thơ:

“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”

Nước Nam ta được dựng xây, bảo vệ từ chính đôi tay bé nhỏ của cha ông. Ngàn năm trôi qua, bờ cõi, lãnh thổ nước nhà vẫn luôn toàn vẹn. Ấy là nhờ có những con người chưa bao giờ chịu cúi đầu, khuất phục. Họ chính là người làm nên một Việt Nam giàu truyền thống văn hóa. Khổ thơ toát lên niềm tự hào, kiêu hãnh về đất nước ngoan cường, về những giá trị tốt đẹp, quý báu vẫn sáng ngời trong suốt bốn nghìn năm lịch sử.

Bài thơ tiếp tục có sự chuyển mạch khi nhà thơ miêu tả đất nước trong những năm tháng đau thương:

“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều”

Khi viết về quân thù, giọng thơ vô cùng đanh thép, hùng hồn, chứa đầy phẫn uất. Chiến tranh đã biến những cánh đồng yên bình, trù phú thành biển máu; biến bầu trời trong xanh thành cảnh tượng hoang tàn “dây thép gai đâm nát trời chiều”. Chưa dừng lại ở đó, lũ giặc còn làm ra những tội ác ghê gớm “Bát cơm chan đầy nước mắt/ Bay còn giằng khỏi miệng ta”. Đứng trước cảnh quê hương đất nước bị giày xéo, người con không khỏi xót xa, căm tức.

Dẫu có đau khổ, khó khăn trăm ngàn nhưng đất nước vẫn mạnh mẽ đứng lên:

“Từ những năm đau thương chiến tranh
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn”

Trong các khổ thơ tiếp, tác giả dùng hàng loạt từ ngữ “ngời lên”, “bật lên”, “không khóa được”, “không bắn được”, “đứng lên” để nhấn mạnh vào sức mạnh, tinh thần anh dũng, bất khuất của dân tộc ta. Dù hoàn cảnh có khắc nghiệt “ngày nắng đốt theo đêm mưa giội”, có chông gai “mỗi bước đường mỗi bước hi sinh” thì nhân dân Việt Nam vẫn vững lòng, vững chí.

Cuối cùng, khép lại tác phẩm là hình ảnh:

“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

Bốn câu thơ được viết bằng thể thơ năm chữ, nhịp điệu dồn dập đã tạo nên âm hưởng hào hùng như khúc tráng ca. Từ đây, đất nước hiện lên sáng ngời trên cái nền máu lửa, bùn lầy, trong một không gian ầm ầm súng nổ. Hai câu thơ kết chính là hình ảnh khái quát, tượng trưng cho đất nước đứng lên từ gian khổ và tỏa sáng ngời ngời.

Bằng ngôn ngữ giàu sức gợi, hình ảnh thơ gần gũi, thân thuộc, sử dụng thành công biện pháp so sánh, điệp ngữ, Nguyễn Đình Thi đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh Việt Nam hiên ngang, bất khuất và kiên trung. Qua đó, bộc lộ niềm ngợi ca, tự hào thiết tha về đất nước tươi đẹp, giàu truyền thống.

Không thể phủ nhận, “Đất nước” là sự kết hợp hài hòa giữa nhiều yếu tố: chất trữ tình với chất chính luận, cảm xúc cá nhân với tình cảm, tư tưởng của cả dân tộc. Đọc bài thơ, ta càng thêm ngưỡng mộ Nguyễn Đình Thi – một ngòi bút tài hoa, một tâm hồn sâu sắc.

Đọc chi tiết hơn bài thơ 👉 Đất Nước của Nguyễn Đình Thi

Viết một bình luận