Nội Dung Bài Văn Tế Sống Vợ Của Trần Tế Xương, Ý Nghĩa. Tìm Hiểu Về Mục Đích Tại Sao Nhà Thơ Viết Bài Văn Này Khi Bà Tú Còn Sống.
NỘI DUNG CHÍNH
Tế sống là gì ?
“Tế sống” là một nghi lễ đặc biệt trong văn hóa Việt Nam, thường được thực hiện để cầu nguyện cho người còn sống, mong họ có sức khỏe, bình an và may mắn. Khác với “văn tế” thường được dùng để cúng người đã khuất, “tế sống” có thể được thực hiện trong các dịp đặc biệt như lễ mừng thọ, lễ cầu an, hoặc khi ai đó gặp khó khăn cần sự giúp đỡ từ thần linh.
Văn tế sống vợ là một bài thơ dân gian, được viết bằng thể lục bát, có 16 câu, thuộc thể loại văn tế. Bài thơ được nhà thơ Trần Tế Xương sáng tác vào khoảng sau khoa Canh Tý (1890), khi ông nhiều lần thi trượt, chán ngán, chơi bời phóng túng, tốn tiền, khiến bà Tú – vợ ông – nhiều lần can ngăn không được, giận doạ tự tử. Nhà thơ nhân đó làm bài văn tế này để nịnh nọt và làm lành khéo với vợ.
Trần Tế Xương viết văn tế sống vợ với mục đích gì ?
Trần Tế Xương viết bài “Văn tế sống vợ” với mục đích làm lành và nịnh vợ sau khi bà Tú, vợ ông, giận dỗi và dọa tự tử vì ông chơi bời phóng túng và tốn tiền. Bài văn tế này không chỉ thể hiện sự hối lỗi và cảm thông của Trần Tế Xương mà còn là một cách khéo léo để làm lành với vợ, thể hiện tình cảm và sự trân trọng của ông dành cho bà
Nội dung bài thơ là những tâm sự thầm kín của nhà thơ với vợ, bày tỏ sự cảm thông, yêu thương và tôn trọng vợ. Nhà thơ cũng tự trách mình vì đã bỏ bê vợ, chơi bời, không lo nghĩ cho gia đình. Nhà thơ mong muốn vợ tha thứ cho mình, và hứa sẽ cải tà quy chính, sống trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ.
Bạn xem chi tiết -> Thơ Trần Tế Xương (Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay)
Nội Dung Bài Văn Tế Sống Vợ Của Tú Xương
Bài Văn tế sống vợ Tác giả: Trần Tế Xương
Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn? Người ung dung, tính hạnh khoan hoà, chỉ một nỗi hay gàn hay dở! Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mười Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ Gần xa nô nức, lắm gái nhiều trai Sớm tối khuyên răn, kẻ thầy người tớ Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu Anh lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợ
Thế mà: Mình bỏ mình đi, mình không chịu ở Chẳng nói chẳng rằng, không than không thở. Hay mình thấy tớ: nay Hàng Thao, mai phố Giấy mà bụng mình ghen? Hay mình thấy tớ: sáng Tràng Lạc, tối Viễn Lai, mà lòng mình sợ? Thôi thôi Chết quách yên mồ Sống càng nặng nợ Chữ nhất phẩm ơn vua vinh tứ, ngày khác sẽ hay Duyên trăm năm ông Nguyệt xe tơ, kiếp này đã lỡ Mình đi tu cho thành tiên thành phật, để rong chơi Lãng Uyển, Bồng Hồ Tớ nuôi con cho có rể có dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ.
Bài văn tế được viết để nịnh nọt và làm lành với vợ của ông là bà Tú, sau khi ông chơi bời phóng túng và tốn tiền, khiến bà Tú giận doạ tự tử. Bài văn tế thể hiện sự cảm thông và hài hước của Trần Tế Xương đối với vợ, một người con gái nhà dòng nhưng lấy chồng kẻ chợ, có ngoại hình và tính cách khác biệt với ông.
Câu 3. Nêu hiệu quả của phép đối được sử dụng trong hai câu văn sau:
Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bản mười Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ
Hiệu quả của phép đối được sử dụng trong hai câu văn sau:
Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bản mười Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ
Phép đối khá chuẩn chỉnh ở ý và lời giữa “đầu sông bãi bến” với “trong họ ngoài làng”; giữa “đua tài buôn chín bản mười” với “vụng lẽ chào dơi nói thợ” để cho thấy sự đối lập trong tính cách nhưng vẫn thống nhất ở bà Tú. Đó là người phụ nữ tảo tần, hoạt bát, đầu sông bãi bến nhanh nhạy buôn bán để kiếm tiền nuôi đủ 5 con với 1 chồng. Bà chẳng quản ngại việc gì, miễn là kiếm ra đồng tiền để nuôi chồng nuôi con. Mặt khác trong gia đình, họ hàng bà Tú lại là người thẳng thắn, không biết nói lời a dua, nịnh nọt, tính cách ngay thẳng nên được rất nhiều người yêu quý. Phép đối khiến cho câu thơ hài hoà, cân xứng, nhấn mạnh phẩm chất và con người của bà Tú một người phụ nữ tiêu biểu cho phẩm hạnh của phụ nữ trong xã hội xưa thờ chồng, thương con hết mực, nhẫn nại, quên mình.
Câu 4. Qua đoạn văn, anh chị nêu đánh giá của mình về thái độ, tình cảm của nhà thơ dành cho người vợ.
Qua đoạn văn chúng ta có thể thấy được thái độ, tình cảm của nhà thơ dành cho người vợ. Đó là người chồng yêu thương, quan tâm vợ hết mực. Ông tế sống vợ, viết bài văn tế vợ khi vợ chưa chết, quả là độc đáo có một không hai trong thơ ca. Nhưng đó không phải là ông trù dập cho vợ chết mà là vì ông yêu thương và có thể nói là tôn thờ vợ hết mình. Ông biết vợ là người phụ nữ tảo tần, đã hy sinh tất cả vì chồng con, thế nên qua những câu văn chúng ta thấy sự cảm thông, san sẻ và thấu hiểu với nỗi vất vả, khó nhọc của vợ.