Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng: Nội Dung, Soạn Bài, Phân Tích

Đón đọc tác phẩm Anh hùng tiếng đã gọi rằng được trích trong Truyện Kiều, ca ngợi vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải giàu nghĩa khí.

Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Đoạn Trích Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng

Đoạn thơ “Anh hùng tiếng đã gọi rằng”, dài 32 câu, trích trong Truyện Kiều từ câu 2419 đến câu 2450, đoạn thơ này tiếp sau cảnh Kiều báo ân báo oán.

Cập nhật đầy đủ 👉 3254 Câu Thơ Truyện Kiều

Nội Dung Bài Thơ Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng

Tham khảo nội dung bài thơ Anh hùng đã gọi rằng của tác giả Nguyễn Du.

Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.
Tạ ân lạy trước Từ công:
“Chút thân bồ liễu nào mong có này!
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi,
Chạm xương chép dạ xiết chỉ,
Dễ đem gan óc đền nghỉ trời mây!”
Từ rằng: “Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa dường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Huống chỉ việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ với là tri ân?
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.
Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.”
Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ mái tan,
Binh uy từ đẩy sấm ran trong ngoài,
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.
Đòi cơn gió quét mưa sa,
Huyện thành đạp đổ năm toà cõi Nam.
Phong trần mải một lưỡi gươm,
Những loài giả áo túi cơm sá gì!
Nghênh ngang một cõi biên thuỷ,
Thiếu gì cô quả, thiểu gì bá vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.

Đọc thêm tác phẩm 👉 Chí Khí Anh Hùng

Tóm Tắt Đoạn Trích Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng

Đón đọc mẫu tóm tắt đoạn trích Anh hùng tiếng đã gọi rằng để có thể nắm bắt được nội dung chính của tác phẩm.

Anh hùng tiếng đã gọi rằng là một tác phẩm văn học lớn của đại thi hào Nguyễn Du, nói về sự đối xử bất công đối với phụ nữ trong xã hội phong kiến. Trong đó, đoạn trích nổi bật nhất chính là câu chuyện về anh hùng Từ Hải, người đã làm mọi cách để giúp Thúy Kiều, người phụ nữ bị đẩy vào hoàn cảnh khó khăn và bất công.

Thúy Kiều coi Từ Hải là một vị cứu tinh khi ông giúp nàng thoát khỏi án oan và đưa nàng ra khỏi ngục tù. Tuy nhiên, Từ Hải xem đó là một hành động bình thường của một người có trách nhiệm, và ông cũng coi Thúy Kiều là một người bạn rất quý. Từ Hải là một người đầy uy quyền, có tâm hồn nhân từ và sẵn sàng làm mọi việc để giúp đỡ người khác.

Nguyễn Du miêu tả Từ Hải với những từ ngữ oai hùng như “bá vương”, “sơn hà”, như một vị thần linh huyền thoại. Với Từ Hải, việc giúp đỡ Thúy Kiều là một việc làm nhỏ, tuy nhiên, đó lại là một hành động có ý nghĩa vô cùng lớn đối với cuộc đời của Thúy Kiều. Qua câu chuyện về Từ Hải và Thúy Kiều, tác giả Nguyễn Du đã gửi gắm thông điệp về lòng nhân ái, lòng trắc ẩn và sự quý trọng đạo đức con người.

Về Tác Giả Tác Phẩm Đoạn Trích Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng

Chia sẻ đôi nét về tác giả tác phẩm đoạn trích Anh hùng tiếng đã gọi rằng để các em học sinh có thể nắm bắt được thông tin chính.

Tác Giả

  • Nguyễn Du (1765 -1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh tại kinh thành Thăng Long (Hà Nội). Cha là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm quê ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, làm quan đến chức Tham tụng (Tể tướng) dưới triều Lê; mẹ là bà Trần Thị Tần quê ở Kinh Bắc –Bắc Ninh. Nguyễn Du ra đời trong một gia đình đại quý tộc, có thế lực vào bậc nhất đương thời.
  • Thời đại: Cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX. Đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động với hai đặc điểm nổi bật là chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng và phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Yếu tố thời đại đã ảnh hưởng sâu sắc tới ngòi bút của Nguyễn Du khi viết về hiện thực đời sống.
  • Cuộc đời: cuộc đời từng trải, phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, đi nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho Nguyễn Du vốn sống phong phú và niềm thông cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân. Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
  • Sự nghiệp văn học: sáng tác của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị cả chữ Hán và chữ Nôm:
    • Sáng tác bằng chữ Hán: gồm ba tập thơ là Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc Hành tạp lục.
    • Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (thường gọi là Truyện Kiều), Văn chiêu hồn.
  • Đặc điểm sáng tác: các tác phẩm đều thể hiện tư tưởng nhân đạo: đề cao giá trị nhân văn con người. Các tác phẩm đó đều thể hiện sự cảm thông sấu sắc của Nguyễn Du đối với cuộc sống của con người, nhất là những người nhỏ bé, bất hạnh, … đó là kết quả của quá trình quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về con người của tác giả. Đồng thời lên án, tố cáo những thế lực đen tối chà đạp con người.

Tác Phẩm

1. Cuộc trò chuyện giữa Từ Hải và Thúy Kiều

– Cách xưng hô của Thúy Kiều:

+ Khi nói về Từ Hải, nàng lại mang một sắc thái khác: Tự nhận mình hèn mọn, nhỏ bé, Kiều tôn vinh Từ Hải như một bậc cứu nhân độ thế, rửa sạch oan khiên.

– Từ Hải trong tâm trí Kiều đã hiện lên trong tám vóc vũ trụ, phi phàm: “Trộm nhờ sấm sét ra tay”, “Dế đem gan óc đền nghì trời mây”. 

=> Từ Hải hiện lên như một người anh hùng lí tưởng tuyệt đẹp, xem hành động ra oai “sấm sét” của mình giúp Kiều báo ân báo oán là “việc nhà”, là chuyện gia đình…cùng là để Kiều sớm gặp lại gia đình, gặp lại song thân ànhân cách anh hùng của Từ Hải là một sự hài hoà tuyệt vời giữa khiêm nhường và xuất chúng, giữa cốt cách hào hoa quốc sĩ và phẩm cách anh hùng, giữa lòng trung hậu nhân từ và sự ngang tàng đấy uy vũ…

2. Vẻ đẹp anh hùng đích thực của Từ Hải trong cuộc chiến công

+ Lí tưởng: Từ Hải giúp Kiều báo ân, báo oán là một việc làm đầy nghĩa khí như các anh hùng hảo hán xưa nay vẫn coi trọng. Với Từ hải, không thể dung tha mọi “bất bằng” tội ác ở đời “anh hùng tiếng đã gọi rằng/ giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”. Câu nói vang lên đĩnh đạc, hào hùng thể hiện một lí tưởng anh hùng tuyệt đẹp, như một lời tuyên chiến với mọi cái ác, cái bất công ở đời.

+ Lời nói: đanh thép, ngang tàng, ngang nhiên thách thưc, tự coi minh là “quốc sĩ”, nghĩa là kẻ sĩ tầm cỡ quốc gia, lại gọi mình là “anh hùng”.

+ Hành động, kì tích: tiến quân như vũ bão “trúc chẻ mái tan”, binh uy chấn động “sấm ran trong ngoài”. Từ Hải dựng lên một triều đình đối địch làm chủ “một góc trời”, có tổ chức quy củ “gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”, xuất quân đánh đâu thắng đấy”gió quét mưa sa”, “đạp đổ năm tòa cõi Nam”. Dưới con mắt của Từ Hải, bọn vua quan triều đình chỉ là “loài giá áo túi cơm”, ngang nhiên thách thức ‘trước cờ ai dám tranh cương/ năm năm hùng cứ một phương hải tần”. Qua đó, ta thấy Từ Hải oai phong lẫm liệt như một anh hùng thần thoại, một dũng sĩ trong sử thi, hiện lên trong hào quang chiến trận, lừng lẫy trong chiến công.

Cập nhật cho bạn đọc bài 🌿 Thúy Kiều Báo Ân Báo Oán 🌿

Ý Nghĩa Bài Thơ Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng

Bài thơ Anh hùng đã gọi rằng ca ngợi Từ Hải là một anh hùng đích thực giàu nghĩa khí qua đó nêu bật và khẳng định cảm hứng nhân văn, nói lên khát vọng tự do của con người thời đại.

Bố Cục Tác Phẩm Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng

Sau đây là bố cục của tác phẩm Anh hùng tiếng đã gọi rằng:

  • Phần 1 (từ đầu đến …là tam cam lòng): Cuộc trò chuyện giữa Từ Hải và Thúy Kiều.
  • Phần 2 (phần còn lại): Khẳng định vẻ đẹp anh hùng đích thực của Từ Hải trong cuộc chiến công.

Đọc Hiểu Bài Thơ Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng

Tham khảo thêm phần đọc hiểu bài thơ Anh hùng tiếng đã gọi rằng được Thohay.vn gợi ý sau đây:

👉 Câu 1: Cách Thúy Kiều gọi Từ Hải khi trò chuyện là gì?

Đáp án: Thúy Kiều đặt cho Từ Hải cái tên ‘Từ công’ – Thể hiện lòng khiêm tốn, chân thành và tình bạn.

👉 Câu 2: Từ Hải qua lời nói với Thúy Kiều thể hiện tính cách ra sao?

Đáp án:

  • Dựa vào lời Từ Hải nói với Thúy Kiều, có thể nhận thấy Từ Hải:
  • Là người nghĩa hiệp, tràn đầy chí lớn.
  • Là người biết lòng, đồng cảm với nỗi đau của Kiều.

👉 Câu 3: Phân tích hành động và kì tích của Từ Hải.

Đáp án:

  • Hành động: ‘Bất kỳ sự kiện nào cũng trở nên tưng bừng khiến tiệc quân trung trở nên phồn thịnh’; ‘Thừa aprove trúc chẻ mái tan/ Binh uy từ đấy sấm ran trong ngoài’.
  • Kì tích: ‘phá vỡ đôi sơn hà’, ‘gió thổi mưa bay’, ‘đạp tan năm tòa cõi Nam’, ‘Nghênh ngang một cõi biên thùy’, ‘Năm năm hùng cứ một phương hải tần’.

Tìm hiểu thêm trích đoạn 🔰 Mã Giám Sinh Mua Kiều 🔰

Giá Trị Đoạn Trích Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng

Chia sẻ đến các em học sinh giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật đoạn trích Anh hùng tiếng đã gọi rằng sau đây.

  • Giá trị nội dung: Đoạn trích làm nổi bật lên khát vọng tự do của Từ Hải. Với màu sắc sử thi và hình tượng kì vĩ, Nguyễn Du đã thành công đưa nhân vật Từ Hải từ một hảo hán trở thành bậc anh hùng đích thực. Đối với Nguyễn Du, Từ Hải như một con đại bàng mà mỗi khi cất cánh, nó che trở và cứu đỗi những con người thấp cổ bé họng, cứu đỗi nạn nhân của xã hội tăm tối mù mịt như cuộc đời Thúy Kiều.
  • Giá trị nghệ thuật: Nghệ thuật miêu tả nhân vật, sử dụng các từ Hán Việt đã góp phần miêu tả cốt cách phi thường của nhân vật Từ Hải đã khắc họa thành công một hình tượng con người mang tầm vóc vũ trụ kì vĩ.

Sơ Đồ Tư Duy Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng

Xem thêm mẫu sơ đồ tư duy tác phẩm Anh hùng tiếng đã gọi rằng chi tiết, dễ hiểu nhất sau đây để ôn tập hiệu quả.

Sơ Đồ Tư Duy Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng
Sơ Đồ Tư Duy Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng

Dàn Ý Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng Lớp 11

Hi vong với mẫu dàn ý phân tích đoạn trích Anh hùng tiếng đã gọi rằng đơn giản sau đây sẽ hỗ trợ các em trong việc triển khai bài viết dễ dàng hơn.

I. Mở bài: Giới thiệu đôi nét về tác giả và hoàn cảnh ra đời tác phẩm

II. Thân bài

  • Hình tượng anh hùng Từ Hải qua lời nói của Thúy Kiều
  • Khí phách ngang tàn, oai phong của bậc anh hùng càng nổi bật qua lời tự bộc bạch của Từ Hải
  • Từ Hải – vị anh hùng đích thực khi dành cả giang sơn, mở rộng bờ cõi chỉ để cho Kiều gặp lại gia đình, song thân.

III. Kết bài

  • Khẳng định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm
  • Cảm nhận của em về lý tưởng cao đẹp, khát khao công lý mà Nguyễn Du gửi gắm.

Chia sẻ thêm các mẫu phân tích 🌷 Kiều Ở Lầu Ngưng Bích 🌷 

Soạn Bài Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng Lớp 11

Các em học sinh lớp 11 hãy tham khảo phần soạn bài Anh hùng tiếng đã gọi rằng trang 54 SGK chi tiết dưới đây.

👉 Câu 1 (trang 52 sgk Ngữ Văn lớp 11 Tập 1): Đoạn trích Anh hùng tiếng đã gọi rằng có thể chia làm mấy phần? Nêu nội dung chính của mỗi phần.

Trả lời: Đoạn trích Anh hùng tiếng đã gọi rằng có thể chia làm 2 phần:

  • Phần 1 (từ đầu đến …là tam cam lòng): Cuộc trò chuyện giữa Từ Hải và Thúy Kiều.
  • Phần 2 (phần còn lại): khẳng định vẻ đẹp anh hùng đích thực của Từ Hải trong cuộc chiến công.

👉Câu 2 (trang 52 sgk Ngữ Văn lớp 11 Tập 1): Có gì đáng lưu ý trong cách xưng hô của Thúy Kiều khi nói về mình và khi nói về Từ Hải? Cách xưng hô đó giúp em hiểu gì về Thúy Kiều?

Trả lời: Khi Thúy Kiều khi nói về Từ Hải, nàng lại mang một sắc thái khác. Tự nhận mình hèn mọn, nhỏ bé, Kiều tôn vinh Từ Hải như một bậc cứu nhân độ thế, rửa sạch oan khiên. Thể hiện sự chân thành, nhỏ nhẹ, khiêm nhường đầy tình nghĩa của Kiều.

👉 Câu 3 (trang 52 sgk Ngữ Văn lớp 11 Tập 1): Phân tích hình tượng nhân vật Từ Hải qua đoạn trích (về lí tưởng, lời nói, hành động, kì tích). Từ đó nhận xét về tính cách của nhân vật này.

Trả lời: Hình tượng nhân vật Từ Hải qua đoạn trích:

  • Lí tưởng: lý tưởng anh hùng, cứu Kiều, giúp Kiều đoàn tụ với gia đình.
  • Lời nói: đanh thép, ngang tàng, ngang nhiên thách thức, tự coi minh là “quốc sĩ”, nghĩa là kẻ sĩ tầm cỡ quốc gia, lại gọi mình là “anh hùng”.
  • Hành động: Tiến quân như vũ bão “trúc chẻ ngói tan”. Binh uy chấn động “sấm ran trong ngoài”. Từ Hải dựng lên một triều đình đối địch làm chủ “một góc trời”, có tổ chức quy củ: “Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Từ Hải xuất quân đánh đâu thắng đấy: “Đòi phen gió quét mưa sa, Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam”
  • Kì tích: Từ đã có một giang sơn riêng, một cõi biên thuỳ riêng ngang nhiên thách thức: “Trước cờ ai dám tranh cường Năm năm hùng cứ một phương hải tần”.

=> Tính cách: Chúng ta đã có thể thấy nhân cách anh hùng của Từ Hải là một sự hài hoà tuyệt vời giữa khiêm nhường và xuất chúng, giữa cốt cách hào hoa quốc sĩ và phẩm cách anh hùng, giữa lòng trung hậu nhân từ và sự ngang tàng đấy uy vũ…

👉 Câu 4 (trang 52 sgk Ngữ Văn lớp 11 Tập 1): Đoạn trích Anh hùng tiếng đã gọi rằng thể hiện chủ đề gì trong tác phẩm Truyện Kiều?

Trả lời: Chủ đề: ca ngợi lý tưởng anh hùng.

👉 Câu 5 (trang 52 sgk Ngữ Văn lớp 11 Tập 1): So sánh nghệ thuật xây dựng nhân vật ở các đoạn trích Anh hùng tiếng đã gọi rằng và Trao duyên.

Trả lời:

  • Nghệ thuật miêu tả nhân vật ở đoạn trích Anh hùng tiếng đã gọi rằng: sử dụng các từ Hán Việt để góp phần miêu tả cốt cách phi thường của nhân vật Từ Hải đã khắc họa thành công một hình tượng con người mang tầm vóc vũ trụ kỳ vĩ.
  • Nghệ thuật miêu tả nhân vật ở đoạn trích Trao duyên: sử dụng những từ ngữ chọn lọc, tinh tế, ngôn ngữ kể, độc thoại nội tâm nhân vật có sức thuyết phục cao đã xây dựng thành công diễn biến tâm lí phức tạp, giằng xé, đau khổ của Kiều.

Gợi ý phân tích 👉 Cảnh Ngày Xuân 

Giáo Án Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng Lớp 11

Giới thiệu cho các thầy cô giáo mẫu giáo án tác phẩm Anh hùng tiếng đã gọi rằng biên soạn chuẩn nhất dưới đây.

I. MỤC TIÊU

1. Về mức độ/ yêu cầu cần đạt:

– HS nhận biết, vận dụng những hiểu biết về bối cảnh lịch sử, tác giả, truyện thơ Nôm, thể loại thơ Đường luật để đọc hiểu những đoạn trích tiêu biểu trong Truyện Kiều, thơ chữ Hán của Nguyễn Du.

– Hiểu được vẻ đẹp tâm hồn, tài năng cùng những đóng góp to lớn của đại thi hào đối với sự phát triển của văn học dân tộc.

– Hiểu được những nét đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, độc thoại nội tâm và các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ.

2. Về năng lực

a. Năng lực chung

– Giao tiếp và hợp tác trong làm việc nhóm và trình bày sản phẩm nhóm.

– Phát triển khả năng tự chủ, tự học qua việc đọc và hoàn thiện phiếu học tập ở nhà.

– Giải quyết vấn đề và tư duy sáng tạo trong việc chủ động tạo lập văn bản.

b. Năng lực đặc thù

– Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản Anh hùng tiếng đã gọi rằng.

– Năng lực nhận diện các yếu tố hình thức và nội dung của văn bản.

3. Về phẩm chất

– Giúp HS trân trọng tình cảm Nguyễn Du, cảm thương, xót xa cho số phận của nàng Kiều và biết yêu mến, nâng niu, trân trọng, bảo vệ cái đẹp trong cuộc đời.

II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU

1. Chuẩn bị của giáo viên

– Giáo án, tài liệu tham khảo, kế hoạch bài dạy

– Phiếu học tập, trả lời câu hỏi

– Bảng giao nhiệm vụ cho HS hoạt động trên lớp

– Bảng giao nhiệm vụ học tập cho HS ở nhà

2. Chuẩn bị của học sinh

– SGK, SBT Ngữ văn 11, soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài, vở ghi.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

A. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG

a. Mục tiêu: Tạo tâm thế, tạo hứng thú cho HS, thu hút HS sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập của mình. HS khắc sâu kiến thức nội dung bài học.

b. Nội dung: GV đặt cho HS trả lời những câu hỏi mang tính gợi mở vấn đề.

c. Sản phẩm: Nhận thức và thái độ học tập của HS.

d. Tổ chức thực hiện:

– GV yêu cầu HS quan sát tranh và trả lời câu hỏi: Quan sát hình ảnh minh họa, em có nhận xét gì ngoại hình, khí chất của nhân vật Từ Hải?

– HS trả lời câu hỏi, GV mời 2 -3 HS chia sẻ.

– GV nhận xét, đánh giá, dẫn dắt vào bài học: Hôm nay, chúng ta sẽ tiếp tục cùng tìm hiểu một đoạn trích nằm trong truyện Kiều nhé!

B. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC

Hoạt động 1: Đọc và tìm hiểu chung

a. Mục tiêu: Giúp HS chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đọc hiểu văn bản, hướng dẫn đọc và rèn luyện các chiến thuật đọc.

b. Nội dung: HS sử dụng SGK, chắt lọc kiến thức để tiến hành trả lời câu hỏi liên quan đến thể loại thơ bảy chữ và văn bản Anh hùng tiếng đã gọi rằng.

c. Sản phẩm: HS tiếp thu kiến thức và câu trả lời của HS

d. Tổ chức thực hiện:

HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HSDỰ KIẾN SẢN PHẨM
NV1:
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ
– GV yêu cầu HS đọc nội dung SGK và trả lời câu hỏi:+ Nêu thể loại và bối cảnh đoạn trích.
+ Chỉ ra bố cục của đoạn trích
.– HS tiếp nhận nhiệm vụ.
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
– HS trả lời câu hỏi.
Bước 3: Trao đổi thảo luận, báo cáo sản phẩm
– HS trình bày sản phẩm thảo luận.
– GV gọi HS khác nhận xét, bổ sung câu trả lời của bạn
.Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện
– GV nhận xét, chốt lại kiến thức.
I. Tìm hiểu chung
– Thể loại: thơ lục bát.
– Từ câu 2419 đến câu 2450.
– Bối cảnh đoạn trích: Thúy Kiều gặp Từ Hải khi ở lầu xanh lần thứ hai và nàng được anh hùng có chí, tài năng hơn người thoát khỏi cuộc sống lầu xanh.
– Bố cục:  2 phần
+ Phần 1 (từ đầu đến …là tam cam lòng): Cuộc trò chuyện giữa Từ Hải và Thúy Kiều.
+ Phần 2 (phần còn lại): khẳng định vẻ đẹp anh hùng đích thực của Từ Hải trong cuộc chiến công. 

Hoạt động 2: Khám phá văn bản

a. Mục tiêu: Nắm được nội dung và nghệ thuật văn bản.

b. Nội dung: HS sử dụng SGK, chắt lọc kiến thức để tiến hành trả lời câu hỏi.

c. Sản phẩm: HS tiếp thu kiến thức và câu trả lời của HS.

d. Tổ chức thực hiện:

HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HSDỰ KIẾN SẢN PHẨM
NV1:Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ
– GV yêu cầu HS trả lời câu hỏi:
Có gì đáng chú ý trong cách xưng hô của Thúy Kiều khi nói về mình và khi nói về Từ Hải? Cách xưng hô đó giúp em hiểu gì về Thúy Kiều?
+ Qua cuộc đối thoại giữa hai nhân vật, em thấy Từ Hải là một người như thế nào?
– HS tiếp nhận nhiệm vụ.
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
– HS trả lời câu hỏi.
Bước 3: Trao đổi thảo luận, báo cáo sản phẩm
– HS trình bày sản phẩm thảo luận.
– GV gọi HS khác nhận xét, bổ sung câu trả lời của bạn.
Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện
– GV nhận xét, chốt lại kiến thức.
II. Tìm hiểu chi tiết
1. Cuộc trò chuyện giữa Từ Hải và Thúy Kiều
– Cách xưng hô của Thúy Kiều:
+ Khi nói về Từ Hải, nàng lại mang một sắc thái khác: Tự nhận mình hèn mọn, nhỏ bé, Kiều tôn vinh Từ Hải như một bậc cứu nhân độ thế, rửa sạch oan khiên.
– Từ Hải trong tâm trí Kiều đã hiện lên trong tám vóc vũ trụ, phi phàm: “Trộm nhờ sấm sét ra tay”, “Dế đem gan óc đền nghì trời mây”. 
=> Từ Hải hiện lên như một người anh hùng lí tưởng tuyệt đẹp, xem hành động ra oai “sấm sét” của mình giúp Kiều báo ân báo oán là “việc nhà”, là chuyện gia đình…cùng là để Kiều sớm gặp lại gia đình, gặp lại song thân ànhân cách anh hùng của Từ Hải là một sự hài hoà tuyệt vời giữa khiêm nhường và xuất chúng, giữa cốt cách hào hoa quốc sĩ và phẩm cách anh hùng, giữa lòng trung hậu nhân từ và sự ngang tàng đấy uy vũ…

Đọc thêm bài thơ 👉 Mộng Đắc Thái Liên

5+ Mẫu Phân Tích Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng Hay Nhất

Cập nhật cho các em học sinh một số mẫu phân tích tác phẩm Anh hùng tiếng đã gọi rằng hay, đặc sắc nhất để có thể học hỏi và trau dồi thêm kĩ năng viết hay hơn.

Phân Tích Bài Thơ Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng Siêu Hay

Nguyễn Du đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam nhiều tác phẩm văn chương bất hủ. Trong đó có tác phẩm “Truyện Kiều” nói về người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại bị chà đạp dưới thế lực phong kiến xưa. Không chỉ vậy, Nguyễn Du còn gửi gắm trong tác phẩm này một giấc mơ anh hùng, giấc mơ về tự do công bằng xã hội. Điều đó thể hiện qua nhân vật Từ Hải trong đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” với bút pháp lãng mạn, hào sáng nhất.

Mở đầu đoạn trích là lời nói của Thúy Kiều:

Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh long
Tạ ân lạy trước Từ công
“Chút thân bồ liễu nào mong có rày!”
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi

Đối mặt với Tù Hải, Kiều không thể hiện giống một người bạn nữa mà như một nạn nhân được ân nhân Từ Hải cứu vớt và che chở đã ra tay tế độ. Nếu Từ Hải là giấc mơ của Nguyễn Du thì ngay đến mơ Kiều cũng không nghĩ cuộc đời mình sẽ gặp được Từ Hải. Tự thấy mình không xứng với Từ Hải, Kiều ca ngợi Từ Hải như một bậc từ bi giáng thế cứu rỗi tâm hồn đầy oan trái, rửa sạch oan khiên cho mình. Bằng những từ ngữ mang tính ước lệ, Từ Hải hiện lên trong cái nhìn của Kiều thật phi thường, mang tầm vóc vũ trụ: “Trộm nhờ sấm sét ra tay”. Ơn nghĩa này với Kiều vô cùng rộng lớn, để rồi phải khắc vào xương, ghim sâu vào dạ, đời đời kiếp kiếp không thể nào quên:

Chạm xương Chéo dạ xiết chi
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây

Phẩm cách anh hùng bình dị, siêu phàm của Từ Hải không chỉ được bộc lộ qua lời nói của Kiều mà còn được khắc họa rõ nét qua chính lời nói của nhân vật. Với Kiều, việc Từ Hải đã cứu rỗi mình từ kiếp ô nhục hồi sinh trở về bậc mệnh phụ phu nhân là một ơn nặng nghĩa đầy cả đời không trả hết. Nhưng với Từ Hải, đều đó là việc quá đỗi thường tình:

Từ rằng: “Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ với là tri ân?

Từ Hải tự nhận mình là “quốc sĩ”, coi Kiều là “tri kỉ” nên việc giúp đỡ Kiều là việc nghĩa khí đương nhiên mà bậc hảo hán xưa nay vẫn xem trọng. Trong cuộc đời Từ Hải không có hai chữ “dung tha” cho bất cứ “bất bằng” nào ở xã hội. Chỉ với một câu nói đĩnh đạc là bậc anh hùng đã thể hiện lý tưởng cao đẹp như một lời thách đấu với tội ác, với bất công của cuộc đời. Trong khi Kiều thì coi trọng ân nghĩa, từ Hải thì xem đó là “việc nhà” đó chính là sự tương phản càng làm cho Từ Hải hiện lên lớn lao, vĩ đại hơn. Đó phải chăng cũng là nét oai hùng của kẻ sĩ? Phải chăng cũng là sự khâm phục, đề cao của Nguyễn Du về người anh hùng ngang tàn, lừng lẫy.

Từ Hải không chỉ biết mình mà còn rất biết người. Bậc anh hùng này là người có tình có nghĩa, thấu hiểu được nỗi đau và ước muốn thầm kín của Kiều:

Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tấn cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng”

Ước mong riêng của Kiều đã được Từ Hải cảm nhận với tư cách là tri ân, tri kỉ. Tuy nàng không nói nhưng chàng tự cho mình cái bổn phận để thấu hiểu. Biết rằng Kiều có mong ước trở về cố hương, đoàn tụ với người thân, người anh hùng đó đã chủ động đáp ứng nguyện vọng đó nhưng với cách khác thường chỉ mong thấy Kiều được hạnh phúc thì “ta mới cam lòng”:

Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn hình nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ mái tan
Bình uy từ đấy sấm ran trong ngoài.

Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.

Với đội quân hùng hậu đi đến đâu hùng hổ như vũ bão “trúc chẻ mái tan”, binh uy thì “sấm ran trong ngoài”. Từ Hải đã gây dựng nên triều đình làm chủ “một góc trời”, bày binh bố trận rõ ràng “Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Từ Hải đánh đến đâu thắng đến đấy như “gió quét mưa sa”, càn quét cả “năm thành cõi nam”. Đối với Từ Hải, bọn gian thần triều đình chỉ là “loài giá áo túi cơm” mà thôi.

Từ Hải hiện lên dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du oai phong lẫm liệt như vị thần linh huyền thoại, như bậc anh hùng sử thi. Từ Hải không hẳn chỉ giúp Kiều đổ đời mà còn hi sinh vì Kiều, đem đến hạnh phúc cho Kiều cũng như bao sinh linh khác. Với những ngôn từ đầy quyền uy: binh uy, bá vương, sơn hà,… hay những động từ chỉ sự mạnh mẽ, ngang tàn: trúc chè, gió quét mưa sa, đòi phen, ai dám,… Không gian vũ trụ trở thành khoảng không gian rộng lớn tung hoành y như khí chất hơn người của Từ Hải.

Đoạn trích trên thể hiện khát vọng tự do của Từ Hải thể hiện qua những câu từ cô đọng, ước lệ với tầm vóc hoành tráng của bậc nghĩa sĩ oai hùng. Với màu sắc sử thi và hình tượng kì vĩ, Nguyễn Du đã thành công đưa nhân vật Từ Hải từ một hảo hán trở thành bậc anh hùng đích thực. Đối với Nguyễn Du, Từ Hải như một con đại bàng mà mỗi khi cất cánh, nó che trở và cứu rỗi những con người thấp cổ bé họng, cứu rỗi nạn nhân của xã hội tăm tối mù mịt như cuộc đời Thúy Kiều.

Hướng dẫn 👉 Viết Bài Văn Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Văn Học 

Phân Tích Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng Hay Nhất

Nguyễn Du, với tác phẩm “Truyện Kiều”, đã góp phần làm cho văn học Việt Nam thêm phần phong phú và đa dạng. Đoạn trích trên là một phần nhỏ trong câu chuyện đầy cảm xúc và tình cảm của Kiều. Nó là một tấm gương sáng cho cuộc sống, mang đến cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về tình yêu, số phận và khát vọng của con người.

Truyện Kiều xoay quanh cuộc sống của Thúy Kiều – một người con gái thông minh, tài năng và xinh đẹp. Nhưng số phận đã đưa cô vào những trường đau khổ và thử thách khắc nghiệt. Qua những biến cố và gian nan, Kiều trở thành biểu tượng của sự kiên cường và lòng dũng cảm.

Trong đoạn trích, chúng ta được chứng kiến cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa giữa Kiều và Từ Hải. Với cái nhìn sâu sắc và tình cảm mãnh liệt, Kiều nhìn thấy Từ Hải như một người anh hùng, người đã cứu rỗi cô khỏi cảnh đau khổ và che chở cô khỏi những gian nan. Từ Hải, với tấm lòng nhân hậu và lòng dũng cảm, đã trở thành người bảo vệ của Kiều, như một con đại bàng mà mỗi khi cất cánh, nó che trở và cứu rỗi những con người thấp cổ bé họng, cứu rỗi nạn nhân của xã hội tăm tối mù mịt như cuộc đời Thúy Kiều.

Từ Hải không chỉ là một người anh hùng trong mắt Kiều, mà còn là biểu tượng của sự công bằng và tự do trong xã hội. Với tấm lòng cao thượng và tình yêu thương vô điều kiện, Từ Hải đã truyền cảm hứng và khích lệ cho những người xung quanh. Bằng cách giúp đỡ Kiều, anh đã khẳng định rằng một người anh hùng không chỉ là người có sức mạnh vật chất mà còn là người có tấm lòng nhân ái và sẵn sàng hy sinh cho người khác.

Qua những lời nói và hành động của Từ Hải, chúng ta cảm nhận được sự bình dị và siêu phàm của một người anh hùng. Anh ta không chỉ đơn thuần là một người hùng vĩ đại, mà còn là người sống đạo đức và có trách nhiệm xã hội. Từ Hải không chấp nhận sự bất công và luôn đấu tranh cho sự công bằng trong xã hội. Ông đã thể hiện sự cao đẹp của mình trong những lời nói đầy ý nghĩa: “Quốc sĩ xưa nay, chọn người tri kỉ một ngày được chăng? Anh hùng tiếng đã gọi rằng: giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha! Huống chi việc cũng việc nhà, lọ là thâm tạ với là tri ân?”.

Với sự tương phản giữa Kiều và Từ Hải, Nguyễn Du đã tạo nên một câu chuyện đầy cảm xúc và ý nghĩa. Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm văn học nổi tiếng mà còn là một tấm gương sáng cho con người, cho cuộc sống. Nó khơi dậy trong chúng ta những suy ngẫm về tình yêu, sự hy sinh và ý nghĩa của cuộc sống.

Từ Hải không chỉ là một anh hùng vĩ đại mà còn là một người có trái tim nhân ái và sự hiểu biết sâu sắc về con người. Anh không chỉ biết về bản thân mình mà còn có khả năng ấm áp và chia sẻ tình yêu đối với những người xung quanh, như trường hợp của Kiều:

Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tấn cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng”

Ước mong riêng của Kiều đã được Từ Hải cảm nhận và đáp ứng với lòng biết ơn và tình cảm. Dù Kiều không thể nói ra, nhưng Từ Hải đã tự mình nhận thức và hiểu rõ mong muốn đó. Anh biết rằng Kiều khao khát được trở về quê hương, được ôm trong lòng gia đình và người thân. Vì thế, anh đã tự nguyện đáp lại mong muốn ấy, mặc dù theo một cách khác thường. Anh chỉ muốn thấy Kiều hạnh phúc, và bởi vậy “ta mới cam lòng”:

Vội truyền sửa tiệc quân trung

Năm năm hùng cứ một phương hải tần.

Với quân đội mạnh mẽ của mình, Từ Hải đã tỏ ra mạnh mẽ và oai phong như một cơn bão. Anh đã xây dựng một triều đình vững mạnh và trở thành chủ nhân của “một góc trời”. Anh đã sắp đặt quân đội và tạo ra những chiến thuật rõ ràng: “Gồm hai mặt văn và võ, chia đôi trời đất”. Từ Hải đã chiến thắng ở mọi nơi anh đi qua, giống như “gió quét mưa sa”, quét sạch “năm thành cõi nam”.

Đối với Từ Hải, các quan lại và triều đình chỉ là “những người mặc áo và ăn cơm” thôi. Từ Hải được miêu tả bởi Nguyễn Du với những từ ngữ uy nghiêm như binh uy, bá vương, sơn hà,… hay những động từ mạnh mẽ như trúc chẻ, gió quét mưa sa, đòi phen, ai dám,… Không gian vũ trụ trở thành một không gian rộng lớn, nơi Từ Hải tỏ ra mạnh mẽ và oai phong hơn người.

Đoạn trích trên thể hiện khát vọng tự do của Từ Hải thông qua những câu từ tường thuật sắc sảo, ước lệ và vĩ đại của một anh hùng đích thực. Với sự mô tả sử thi và hình tượng kỳ vĩ, Nguyễn Du đã thành công khi đưa nhân vật Từ Hải từ một anh hùng hảo hán trở thành một anh hùng sử thi. Đối với Nguyễn Du, Từ Hải giống như một con đại bàng, mỗi khi bay lên, nó che chở và cứu rỗi những con người yếu đuối, giải cứu những nạn nhân của xã hội tăm tối như cuộc đời của Thúy Kiều.

Tham khảo mẫu 👉 Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ

Phân Tích Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng Ngắn Gọn

Nguyễn Du để lại cho văn học Việt Nam nhiều tác phẩm bất hủ, trong đó có Truyện Kiều. Tác phẩm này thể hiện giấc mơ anh hùng và khát vọng tự do của xã hội.

Mở đầu đoạn trích là câu nói của Thúy Kiều:

Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi bên trong lòng
Tạ ơn trước Từ công
“Chút thân bồ liễu nào mong có được!”
Trộm nhờ sấm sét giải quyết,
Một phần như giải phóng gánh nặng đầy đủ

Đối diện với Từ Hải, Kiều không thể hiện như một người bạn nữa mà như một nạn nhân được ân nhân Từ Hải cứu vớt và bảo vệ. Nếu Từ Hải là giấc mơ của Nguyễn Du thì Kiều cũng không bao giờ nghĩ cuộc đời mình sẽ gặp được Từ Hải. Cảm thấy không xứng đáng với Từ Hải, Kiều khen ngợi Từ Hải như một bậc từ bi giáng thế cứu rỗi tâm hồn đầy oan khiên, làm sạch oan khiên cho bản thân. Bằng những từ ngữ đầy ước ao, Từ Hải hiện ra trước mắt Kiều như một vị thần, có sức mạnh vô song: “Trộm nhờ sấm sét giải quyết”. Ơn nghĩa này với Kiều rất lớn, để lại dấu sâu trong tâm trí, không bao giờ quên:

Chạm xương, cắt dạ, thách thức làm sao
Dám hi sinh tất cả để hoàn thành ước mơ

Tính cách anh hùng bình dị, siêu phàm của Từ Hải không chỉ được thể hiện qua lời của Kiều mà còn qua lời của chính nhân vật. Đối với Kiều, việc Từ Hải cứu sống mình khỏi cuộc sống đau khổ để trở lại vai trò một phụ nữ là một ơn nặng nề cả đời không thể báo đáp hết. Nhưng với Từ Hải, điều đó là thứ bình thường:

Từ rằng: “Quốc sĩ từ xưa,
Chọn tri kỉ có lẽ chẳng khó
Anh hùng nói rằng:
Dẫu gặp bất công giữa đường cũng tha thứ!
Thậm chí việc nhỏ như việc nhà,
Mà lòng hiếu kính vẫn trào dâng?

Từ Hải tự nhận mình là “quốc sĩ”, xem Kiều như “tri kỉ”, vì vậy việc giúp đỡ Kiều là điều tự nhiên mà người anh hùng như Từ Hải luôn coi trọng. Trong cuộc đời, Từ Hải không chấp nhận bất kỳ sự bất công nào trong xã hội. Chỉ với một câu nói mạnh mẽ, anh đã thể hiện lý tưởng cao cả như một lời thách thức với tội ác và bất công. Từ Hải coi việc giúp đỡ Kiều như một trách nhiệm gia đình, điều này làm cho hình ảnh của anh trở nên lớn lao, vĩ đại hơn. Điều này có phải là nét đẹp của một người anh hùng không? Đây cũng là điều khiến Nguyễn Du kính trọng và ca tụng về nhân cách anh hùng của Từ Hải.

Từ Hải không chỉ biết quan tâm đến bản thân mình mà còn biết cảm thông với người khác. Anh là một người anh hùng đích thực, luôn thấu hiểu được nỗi đau và ước nguyện của Kiều:

Xót nàng chỉ còn một mảnh,
Người Việt hải ngoại Tấn vẫn xa xôi
Làm sao để có thể ở bên,
Để người thấy mặt là ta hài lòng”

Ước mơ của Kiều đã được Từ Hải cảm nhận và đáp ứng như một sự tri ân, tri kỉ. Mặc dù Kiều không nói ra nhưng Từ Hải tự hiểu được điều đó. Anh đã chủ động thực hiện mong muốn của Kiều, chỉ mong rằng nàng sẽ được hạnh phúc thì anh sẽ cam lòng:

Vội truyền đi lệnh sửa tiệc quân định
Hội tụ ngàn tướng chiến để giải quyết oan khuất
Đang tận dụng cơ hội, xây dựng lực lượng vững mạnh đổ bể nền nền
Sức mạnh của binh uy lan tỏa khắp nơi

Chào đón một miền biên giới rộng lớn
Nơi đó không thiếu gì, không thiếu vị vua!
Trước lá cờ, ai dám cạnh tranh?
Năm năm với danh vọng hùng mạnh tại biển cả

Với đội quân hùng mạnh, Từ Hải đã khẳng định sức mạnh của mình như một trận gió “xé mái nhà”. Anh đã thiết lập quyền lực của mình như một vị vua, triệu tập binh lính theo ý mình “Hai mảng võ hạt, chia rẽ cả hai nửa thiên hạ”. Từ Hải chiến thắng ở mọi nơi anh đến như một cơn gió “quét sạch mưa nắng”, thống nhất cả “năm thành phố miền Nam”.

Đối với Từ Hải, các thủ lĩnh tầm phàm chỉ là những “kẻ mặc áo tay, đói ăn”. Với bản tính oai phong, Từ Hải hiện lên như một vị thần trong truyền thuyết, như một anh hùng trong sử thi. Từ Hải không chỉ giúp Kiều thoát khỏi cảnh khốn khó mà còn hi sinh vì cô, mang lại hạnh phúc cho Kiều và nhiều người khác. Với ngôn từ uy nghi: binh uy, vị vua, miền đất,… hoặc những hành động mạnh mẽ: xé mái nhà, quét sạch, đòi tranh chấp,… không gian vũ trụ trở thành một thế giới mở rộng, nơi Từ Hải tự do tung hoành như một vị thần.

Đoạn trích trên thể hiện lòng tự do cao cả của Từ Hải thông qua những câu từ súc tích, ước lệ với tầm vóc hoành tráng của một người anh hùng oai hùng. Với sự sử thi và hình ảnh kỳ vĩ, Nguyễn Du đã thành công biến Từ Hải từ một anh hùng hảo hán thành một anh hùng thực sự. Đối với Nguyễn Du, Từ Hải như một con đại bàng, mỗi khi cất cánh, nó che trở và cứu rỗi những con người lạc lối, cứu rỗi nạn nhân của xã hội tăm tối như Kiều.

Dành tặng bạn những mẫu văn 👉 Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ 👉 hay nhất

Phân Tích Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng Đầy Đủ Ý

“Một nước không thể không có quốc hoa, “Truyện Kiều” là quốc hoa của ta; một nước không thể không có quốc túy, “Truyện Kiều” là quốc túy của ta; một nước không thể không có quốc hồn, “Truyện Kiều” là quốc hồn của ta” – đó là lời nhận xét của nhà văn hóa Phạm Quỳnh về giá trị của “Truyện Kiều”.

Để trở thành “quốc hoa”, “quốc túy” và “quốc hồn” thì 3254 câu lục bát của Nguyễn Du phải thực sự trở thành tiếng nói đồng điệu với tâm hồn phong phú của người dân đất Việt. Đọc đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng”, ta có thể thấy khát khao hòa bình, hạnh phúc, công bằng của nhân dân được Nguyễn Du gửi gắm qua hình ảnh Từ Hải.

Đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” kéo dài từ câu 2419 đến câu 2450 thuộc phần “Gia biến và lưu lạc” của “Truyện Kiều”, ngay sau đoạn Từ Hải giúp Kiều báo ân báo oán. Bằng tài năng văn học cùng tấm lòng nhân đạo cao cả của mình, Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng Từ Hải oai nghiêm, phi thường nhưng cũng hết sức bình dị, gần gũi để thể hiện ước mơ của nhân dân về hạnh phúc và công lí trong xã hội phong kiến.

Mở đầu đoạn trích là cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải. Khi gặp Từ Hải, Thúy Kiều đã trải qua khoảng thời gian lưu lạc đầy đau thương. Tiếng khóc “đoạn trường” do bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần của nàng tưởng như không bao giờ chấm dứt. Sự xuất hiện của Từ Hải là nguồn sáng cứu vớt Kiều thoát khỏi tăm tối, cho Kiều có cơ hội ngồi trên công đường báo ân báo oán. Chính vì thế, những lời Kiều bày tỏ với Từ Hải đều rất chân tình, thể hiện sự kính trọng và hàm ơn:

“Nàng từ ân oán rạch ròi
..
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!”

Thúy Kiều cúi đầu lạy tạ Từ Hải – ân công của nàng khiến không khí cuộc đối thoại trở nên trang trọng. Đối với Kiều, Từ Hải không chỉ là người bạn tri âm mà còn là vị ân nhân cứu thế. Nàng tự nhận mình là “thân bồ liễu” nhỏ nhoi, hèn mọn, nào dám mơ tới sẽ có ngày này. Từ Hải không những cưu mang, che chở cho nàng mà còn thấu hiểu nguyện vọng thầm kín của nàng.

Việc đưa một người phụ nữ lên vị trí công đường là điều xưa nay chưa từng có tiền lệ nhưng bằng quyền uy, sức mạnh của mình mà Từ Hải đã giúp Kiều hiện thực hóa niềm mong ước, giãi bày nỗi thống khổ suốt bao nhiêu năm. Thúy Kiều ý thức được điều ấy nên nàng hết sức kính cẩn trước Từ Hải. Từ Hải được ví với “sấm sét” uy vũ vô cùng.

“Chạm xương chép dạ xiết chỉ,
Dễ đem gan óc đền nghỉ trời mây!”

Đứng trước Từ Hải, Thúy Kiều đã khẳng định sẽ ghi dòng tạc dạ ơn nghĩa này như khắc vào xương, như ghi vào lòng. Khi Kiều báo ân báo oán, nàng đã coi Thúc Sinh cũng là một người có ơn với mình nên đã tặng cho Thúc Sinh “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân”. Gấm, bạc đều là những vật vô cùng quý giá lại đi với những từ chỉ số lượng “trăm”, “nghìn” đã thể hiện tấm lòng trân trọng của Kiều dành cho Thúc Sinh. Tuy nhiên, tình nghĩa giữa Thúy Kiều với Thúc Sinh vẫn được đong đếm cụ thể bằng những vật chất hữu hình.

Ở đây, với Từ Hải, Thúy Kiều đã khẳng định ơn của Từ Hải lớn như trời mây, dẫu Kiều có “đem gan óc” cũng không thể trả đủ nên vốn dĩ không gì có thể đo lường được. Sự khiêm nhường của Thúy Kiều đã nâng cao vị thế của Từ Hải. Nguyễn Du khắc họa Từ Hải một cách gián tiếp bằng cách mượn lời Kiều, nhấn mạnh vào những công đức của Từ Hải khiến nhân vật càng trở nên ấn tượng.

Đáp lại lời của Kiều, Từ Hải đã tự lên tiếng bộc lộ tấm lòng của mình. Từ những suy nghĩ, lời nói ấy, cốt cách anh hùng đáng quý của Từ Hải càng được thể hiện rõ ràng:

“Từ rằng: ‘Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa dường dẫu thấy bất bằng mà tha!”

Từ Hải đã tự coi minh là bậc “Quốc sĩ’ trong thiên hạ, thể hiện sự ý thức rõ ràng về tài năng và phẩm giá của bản thân. Nếu Kiều coi bản thân là kẻ hàm ơn thì với Từ Hải, việc giúp đỡ Kiều xuất phát từ tấm lòng tri âm tri kỉ. Người anh hùng không hề cao ngạo mà hết mực khiêm tốn và quý trọng Kiều. Những bậc hảo hán xưa nay trong thiên hạ đều mong muốn tìm được người tâm giao nhưng đó đâu phải chuyện dễ dàng! Thế nên, ngay từ buổi gặp Kiều, Từ Hải đã thể hiện tấm lòng chân thành, ngay thẳng của mình:

“Từ rằng: tâm phúc tương cờ,
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?”

Không chỉ vậy, ta còn thấy được sự hòa quyện giữa vẻ đẹp thanh cao với sự phong trần ở nhân vật này qua hai tiếng “Anh hùng”. Nếu “Truyện Lục Vân Tiên” có chàng Vân Tiên “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi” thì “Truyện Kiều” cũng có một Từ Hải phi phàm “Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!”.

Đây chính là quan niệm sống và lối ứng xử cao đẹp, thể hiện rõ “Chí làm trai” của đấng nam nhi thời phong kiến. Từ Hải chính là người quân tử sẵn sàng giúp đỡ kẻ yếu thế, lấy hạnh phúc của người dân là động lực để tranh đấu. Từ Hải quả thực là người anh hùng mà nhân dân hằng ao ước!

Sau khi đề cập đến trách nhiệm và chí khí của người anh hùng, Từ Hải nhắc đến tình cảm riêng đối với Kiều:

“Huống chỉ việc cũng việc nhà,

Cho người thấy mặt là ta cam lòng.”

Cách nói “Huống chỉ” kết hợp với hai chữ “việc nhà” cho thấy đối với Từ Hải, việc giúp Kiều báo ân báo oán chỉ là một việc hết sức thường tình. Từ Hải coi đó là “việc nhà”, đồng nhất lý tưởng anh hùng với việc giúp đỡ Kiều. Thúy Kiều là hiện thân cho những con người hồng nhan mà bạc mệnh, đại diện cho những số phận yếu thế, bị đày đọa bởi xã hội đồng tiền nên tư tưởng hành hiệp trượng nghĩa để cứu đời trong lòng Từ Hải được thể hiện cụ thể với nàng.

Có thể thấy, từ mục đích đến cách hành động của Từ Hải đều xuất phát từ tấm lòng nhân nghĩa và giàu tình thương. Là một quan võ nhưng Từ Hải không mang vẻ thô kệch, sỗ sàng mà trái lại, rất mực nho nhã và tinh tế. Từ Hải đã thấu hiểu cho hoàn cảnh ngang trái của Kiều. “kẻ Việt người Tần” có ý nghĩa chỉ việc Kiều lưu lạc nhiều năm, phải xa gia đình, không hay biết chút tin tức gì về cha mẹ.

Chứng kiến tình cảnh ấy, Từ Hải đã nảy sinh sự xót thương, nguyện dốc sức “Sao cho muôn dặm một nhà”. Người anh hùng “Chọc trời khuấy nước mặc dầu” ấy không phải là một con người ngồi trên vị thế cao cao tại thượng xa cách với nhân dân. Từ Hải quan tâm đến từng số phận cá nhân, mong muốn cho “muôn dặm” được an vui thì mới yên lòng.

Như vậy, ở phần đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng Từ Hải qua lời nói của Kiều và để nhân vật tự khẳng định mình qua lời nói, suy nghĩ. Từ đó, nhà thơ làm nổi bật lên ở nhân vật vẻ đẹp vừa mộc mạc, gần gũi lại vừa phi thường. Khi miêu tả Từ Hải, Nguyễn Du đã dành cho nhân vật sự kính nể, ngợi ca. Từ Hải hội tụ đầy đủ phẩm chất của một người anh hùng chính nghĩa, đại diện cho nhân dân, đối lập với thế lực phong kiến bạo tàn.

Sang phần hai, không gian của đoạn trích được mở rộng hơn. Hình ảnh Từ Hải hiện lên oai hùng, đầy uy dũng trên phông nền chiến trường đậm chất sử thi hoành tráng:

“Vội truyền sửa tiệc quân trung

Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.”

Những cụm từ mang tính chất phóng đại như “Muôn binh nghìn tướng”, “trúc chẻ mái tan” đã khắc họa rõ sức mạnh vô song của Từ Hải. Dưới trướng của người anh hùng là đội quân oai vệ với hàng ngàn binh lính. Khí thế của họ khiến “trúc chẻ mái tan”, sấm rền vang trời đất. Cái oai phong, lẫm liệt, ngang tàng, khí phách của Từ Hải đối lập với sức mạnh chuyên quyền áp bức con người của triều đình phong kiến nên người anh hùng đã lập ra “Triều đình riêng một góc trời”. Cách nói “rạch đôi sơn hà” cho thấy khí phách ngạo nghễ, không chịu cúi đầu thuần phục bọn quan tham lại nhũng của con người văn võ song toàn.

“Đòi cơn gió quét mưa sa
..
Năm năm hùng cứ một phương hải tần”

Không gian để Từ Hải tỏa sáng phải là nơi đất trời rộng lớn: “Huyện thành”, “cõi Nam”, “một phương hải tần”. Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng một loạt những hình ảnh thiên nhiên kì vĩ với sức công phá mãnh liệt như “gió quét”, “mưa sa”, “sơn hà” cùng các động từ mạnh như “đạp đổ”, “rạch đôi”, “vội truyền”,… khiến chân dung Từ Hải hiện lên đẹp rực rỡ như bức tượng đài sừng sững sánh ngang trời đất.

Những cụm từ “Đòi cơn”, “sá gì”, “Thiếu gì”, “ai dám” cho thấy khẩu khí ngang tàng, gai góc ở người anh hùng trăm trận trăm thắng. Sống trong thời “Phong trần” loạn lạc nhưng lưỡi gươm công lí của Từ Hải luôn giương cao, không chịu luồn cúi trước triều đình ô trọc. Với Từ Hải, bọn quan lại trong triều chỉ là hạng “giả áo túi cơm” thấp kém, hèn hạ.

Chỉ một từ láy “Nghênh ngang”, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét cả thái độ và hành động cao ngạo, không sợ trời không sợ đất ở Từ Hải. Đoạn thơ cho thấy bản lĩnh, tài năng thao lược của Từ Hải. Sự xuất hiện của người hùng này tựa như sấm sét, làm đảo lộn giang sơn. Một xã hội công bằng, một cuộc sống ấm no luôn là ước mơ của nhân dân từ bao đời nay.

Bằng bút pháp đậm tính sử thi, ngôn ngữ giàu tính ước lệ tượng trưng, xây dựng hình tượng nhân vật kì vĩ, đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật Từ Hải với lối sống cao đẹp, tinh thần trượng nghĩa, có sức mạnh và quyền uy phi thường nhưng cũng hết sức gần gũi, mộc mạc.

Gợi ý ✨ Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ ✨ hay nhất

Phân Tích Anh Hùng Tiếng Đã Gọi Rằng Lớp 11 Nâng Cao

Có lẽ Từ Hải là một giấc mơ của Nguyễn Du – giấc mơ về anh hùng, tự do và công lý. Từ Hải phải là một con người phi thường, từ một giấc mơ đến một huyền thoại. Hiện diện trong ‘Truyện Kiều’ như một nhân cách sử thi, Từ Hải tạo nên những trang sáng nhất, sôi động nhất, trong thế giới u ám của ‘Đoạn trường tân thanh’. Để thể hiện tính cách đặc biệt của Từ Hải, Nguyễn Du đã sử dụng nhiều kỹ thuật từ mô tả tới hành động, từ đó tạo ra một nhân vật lý tưởng và hoàn hảo.

Phân đoạn thơ tự hình thành hai phần: cuộc trò chuyện giữa Thuý Kiều – Từ Hải và cuộc khởi binh kỳ diệu của Từ Hải ở phần một, nhân cách anh hùng của Từ Hải hiện ra qua lời nói, và ở phần hai – phẩm cách anh hùng trong hành động xuất sắc từ không gian nhỏ bé tới vùng đất rộng lớn, Từ Hải đã bước thẳng đến đẳng cấp của mình bằng những hành động phi thường.

Lời đầu tiên trong cuộc trò chuyện là lời của Thuý Kiều. Trước mặt Từ Hải, Kiều không xuất hiện như một người bạn cũ, mà như một nạn nhân được cứu vớt, che chở bởi một tay ân nhân đã ra tay cứu giúp. Kiều càng tự thấy nhỏ bé, thì Từ càng trở nên to lớn, kỳ vĩ. Đối với Nguyễn Du, Từ Hải là một giấc mơ, còn đối với Kiều, ngay cả trong giấc mơ cũng không dám nghĩ rằng mình có thể có Từ Hải.

Kiều tự nhận mình hèn mọn, tôn vinh Từ Hải như một vị cứu tinh, rửa sạch điều oan khiên. Bằng những lời ước lệ, thậm chí khen ngợi, Từ Hải trong lòng Kiều đã trở nên to lớn như vũ trụ, siêu phàm: ‘Trộm nhờ sấm sét ra tay’, ‘Dế đem gan óc đền nghì trời mây’. Đây có thể coi là cách gián tiếp để miêu tả Từ Hải, tức là sử dụng lời của nhân vật này để xây dựng nhân vật khác.

Tuy nhiên, có lẽ trong lời của Từ Hải, phẩm cách anh hùng của nhân vật này được thể hiện rõ ràng hơn: vừa bình dị vừa siêu phàm. Việc Từ đã làm cho Kiều đổi đời, hồi sinh vô cùng to lớn. Từ đã đưa Kiều từ bên bờ của sự nhục nhã (‘Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần’) lên tới đỉnh cao danh vọng! Từ người gái từ cõi trần lên thành phu nhân của một gia đình quyền quý, tạo điều kiện cho cô được đền đáp ân oán. Những việc phi thường ấy được Từ giải thích bằng những động cơ rất phổ biến, rất tự nhiên đối với con người:

Từ nói: ‘Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỳ một ngày được chăng
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Huống chi việc cũng việc nhà
Lo là thầm tạ mới là tri ân!

Kiều cảm nhận sự việc với tâm trạng của một nạn nhân, khao khát sự ân huệ của trời. Trong khi đó, Từ Hải lại xem đó như là một điều bình thường với bản thân. Cả hai cách nói cũng như cách nhìn nhận và đánh giá sự việc đều giúp Từ Hải trở nên to lớn hơn. Nhưng trong lời nói của Từ, không chỉ có sự khiêm tốn: người này thực sự hiểu biết sâu sắc về giá trị và uy quyền của mình.

Từ coi mình như là ‘quốc sĩ’, tức là một nhà lãnh đạo cỡ quốc gia, lại tự xưng là ‘anh hùng’. Đó là sự kết hợp hoàn hảo giữa văn võ! Điều này không chỉ là sự hòa quyện giữa vẻ đẹp dịu dàng của một nghệ sĩ với sự kiêu hùng của một trượng phu, mà còn được minh họa rõ ràng trong việc vẽ tượng ‘Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo’. Từ không chỉ biết đến người khác mà còn biết rất rõ về bản thân!

Lý tưởng anh hùng của Từ Hải trong cuộc đời được thể hiện qua hành động nghĩa hiệp đối với một cá nhân cụ thể, đó là Thuý Kiều. Cứu sống, trước hết là cứu Thuý Kiều. Thực hiện công lý cho cuộc sống, trước hết là cho nàng Kiều. Ước mơ, khát vọng chân chính của những nạn nhân trở thành mục tiêu lý tưởng của người anh hùng. Người anh hùng đứng lên là để sống cho họ, sống vì họ. Lòng ước ao thầm lặng của Kiều đã được Từ cảm nhận như một tri kỷ, tri âm. Cô không nói, nhưng anh tự xem mình có trách nhiệm đáp ứng. Kỳ tích anh hùng đã nảy sinh từ trái tim nhân từ.

Xót nàng vẫn còn chút duyên phận,
Bấy lâu kẻ Việt người Tần cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.

Kiều có một mong ước sâu sắc, da diết, đó là được trở về với quê hương, đoàn tụ với gia đình, gặp lại người thân. Để đáp ứng ước mơ đó, người anh hùng đã thực hiện theo cách độc đáo: không tìm đường hộ tống cô trở về quê hương, mà là khởi binh, xây dựng cơ ngơi, lập một triều đình, chiếm đóng nhiều thành phố, mở rộng lãnh thổ, để mở đường cho người bạn tri kỷ gặp lại người thân…

Từ Hải đã không chỉ thay đổi cuộc sống của Kiều mà còn vì Kiều, mang hạnh phúc đến cho nhiều người khác. Hạnh phúc của Từ Hải là khi thấy Kiều hạnh phúc. ‘Chỉ cần nhìn thấy mặt là ta cam lòng” Thông qua lời nói của Từ Hải, chúng ta thấy được nhân cách anh hùng của ông là sự hài hòa giữa khiêm tốn và xuất chúng, giữa tính cách hào hoa của một người quốc sĩ và phẩm chất anh hùng, giữa lòng nhân từ và sự kiêu hãnh…

Phần tiếp theo, Từ Hải hiện ra thông qua lời truyền miệng trực tiếp của Nguyễn Du về hành động của ông. Không chỉ là cuộc trò chuyện trên sân khấu mà còn là cuộc chiến trên chiến trường, giữa bầu trời và đất đai. Nhân cách anh hùng được mô tả trong không gian của sử thi.

Trong cuộc đối thoại trên, Từ đã tôn vinh Kiều bằng cách phá vỡ, xóa bỏ khoảng cách giữa mình và Kiều: không còn sự chênh lệch, sự nhượng bộ, từ người cứu giúp và người bị cứu đã trở thành quan hệ tri kỷ – tri âm. Kiều đã được đặt ở cùng mức độ, bình đẳng với Từ. Họ trở thành một cặp ‘Trai anh hùng gái thuyền quyên’, ‘Người quốc sắc kẻ thiên tài’. Đó là một khía cạnh của nhân cách anh hùng

Ở đây, ta chứng kiến một khía cạnh khác. Từ quyết định tạo ra một mối quan hệ bình đẳng mới: bình đẳng với quyền lực tối cao của chế độ phong kiến. Từ khuynh hướng cứu vớt nạn nhân, nhưng cũng sẵn lòng tham gia vào cuộc thi đấu, thách đấu với triều đình!

Để mô tả độ lớn của Từ Hải, Nguyễn Du đã sử dụng một hệ thống ngôn từ đầy quyền uy: binh tướng, binh uy, bả vương, sơn hà, tranh cường, hùng cứ… và miêu tả hành động của Từ Hải mạnh mẽ bằng những động từ: Vội truyền, trúc chẻ, ngôi tản, gió quét mưa sa, huyện thành đạp đổ…, những cử chỉ đó thách thức và phản kháng bằng tinh thần anh hùng: đòi phen,. Không gian sử thi trở thành nơi phát triển của sức mạnh Từ Hải.

Các địa điểm địa lý được mở rộng tối đa để thể hiện tầm vóc của Từ: Triều đình độc lập một góc trời, huyện thành đạp đổ, năm tòa côi nam, gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà, nghênh ngang một cõi biên thuỳ, năm năm hùng cứ một phương hải tần… Những mô tả này kết hợp với nhịp điệu mạnh mẽ, sôi động, thể hiện sức mạnh vĩ đại của Từ Hải. Và quan trọng hơn, chúng biểu hiện ý chí dũng cảm, dám đối mặt, dám đấu tranh với quyền lực trong thời kỳ phong kiến. Theo cách nói phổ biến hiện đại, đó chính là sự “không sợ khó!’ của Từ Hải.

Thể hiện khao khát tự do của mình, Nguyễn Du đã luôn sử dụng ngôn từ của mình để tạo ra những câu thơ toàn diện, hùng vĩ và lãng mạn: cánh hồng bay bông tuyết trên giang hồ phổ biến. Sông Ngô tung hoành qua bể Sở. Con người chạm trời, đạp đất, khiến trời chuyển mưa, đất chuyển, năm năm biến đổi thăng trầm. Những miêu tả rộng lớn, hào hùng này đã tạo nên một hình tượng anh hùng hoành tráng của Từ Hải.

Riêng trong đoạn thơ này, Nguyễn Du tập trung vào những biến cố thực tại, những hành động cụ thể hơn của Từ Hải nhằm chống lại, phá vỡ trật tự phong kiến của triều đình, tạo ra một trật tự mới của riêng mình. Bản lĩnh của Từ Hải được thể hiện thông qua những hành động phản kích, thay đổi thực tế: Huyện thành đạp đổ, rạch đôi sơn hà, năm năm hùng cứ v.v… Và trong những câu thơ này, mỗi câu đã tạo ra một bức tranh tóm lược về tầm vóc, tính cách anh hùng của Từ Hải:

Nghênh ngang một cõi biên thuỳ
Trước cờ, ai dám tranh cường
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Nhưng đặc sắc hơn cả, có sức kết tình hơn cả vần là hình ảnh này
Phong trần mài một lưỡi gươm
Những phường giá áo túi cơm sá gì.

Đó là một hình ảnh thuộc về tầm vóc sử thi. Đó cũng là một sự đối lập mạnh mẽ và tráng lệ. Sự đối đầu giữa cá nhân và một toàn thể, sự xung đột giữa cao quý và thấp kém, cái đẹp và cái bình thường. Hình ảnh lưỡi kiếm công lý, mũi kiếm tự do thể hiện ý chí và khát vọng cao quý của Từ Hải.

Chúng ta đã được thấy cảnh “mài kiếm dưới ánh trăng” của Đặng Dung, và bây giờ là thời gian để chiêm ngưỡng “phong trần mài một lưỡi gươm” của Từ Hải. Từ Hải hiển thị một sự hòa hợp khác: sự hòa hợp giữa tính cách cao quý của một nhà quý tộc và vẻ phong trần của một chiến binh. Hai từ “phong trần” mang lại hình ảnh của một cuộc sống đầy biến động, cuộc sống phiêu lưu giữa những nguyên tắc, lưỡi kiếm phong trần vì một mục tiêu cao cả… “Phong trần mài một lưỡi gươm” Từ Hải kiêu hãnh đứng giữa không gian và thời gian, một bậc anh hùng đích thực.

Vâng, chỉ có người đó mới có thể thực hiện được ước mơ về tự do và công lý của Nguyễn Du. Từ Hải như một chú chim ưng, mỗi lần vươn cánh làm rung chuyển cả trời đất. Chỉ có đôi cánh ấy mới bảo vệ được những nạn nhân như Thuý Kiều. Chỉ có đôi cánh đó mới mang lại hy vọng vĩnh cửu cho những con người bị bóc lột, sống dưới bóng tối của thế giới trong ‘Truyện Kiều’.

Đọc thêm mẫu 👉 Giới Thiệu Về Một Tác Phẩm Nghệ Thuật Lớp 11

Viết một bình luận