Bài Thơ Làm Ruộng Của Nguyễn Khuyến (Nội Dung, Phân Tích)

Bài Thơ Làm Ruộng Của Nguyễn Khuyến ❤️️ Nội Dung, Ý Nghĩa, Phân Tích ✅ Bài Thơ Được Sáng Tác Vào Năm 1949 Trong Thời Kỳ Kháng Chiến Chống Thực Dân Pháp.

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Làm Ruộng

Bài thơ “Làm Ruộng” của Nguyễn Khuyến được sáng tác vào năm 1949, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ phản ánh chân thật cảnh sống túng quẫn, nghèo nàn của người lao động và tố cáo chính quyền thực dân phong kiến qua đó góp phần phản ánh tâm trạng yêu nước của nhà thơ và người dân Việt Nam thời bấy giờ.

Nguyễn Khuyến đã sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, với ngôn ngữ giản dị nhưng sâu sắc, để thể hiện sự đồng cảm với người nông dân và bất lực trước hiện thực khốn khó mà họ phải đối mặt.

Nội Dung Bài Thơ Làm Ruộng Của Nguyễn Khuyến

Bài thơ: Làm ruộng
Tác giả: Nguyễn Khuyến

Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua:
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan thu, phần trả nợ;
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa, muối cho qua bữa;
Chợ búa giầu, chè, chả dám mua.
Cần kiệm thế mà không khá nhỉ:
Bao giờ cho biết khỏi đường lo?

Thohay.vn Tặng Bạn ❤️️ Đêm Mùa Hạ [Nguyễn Khuyến] ❤️️Ý Nghĩa, Phân Tích Bài Thơ

Ý Nghĩa Bài Thơ Làm Ruộng

Bài thơ thể hiện chân thật cảnh sống túng quẫn, nghèo nàn của người lao động qua đó tố cáo chính quyền thực dân phong kiến. Bài thơ có ý nghĩa về mặt nghệ thuật và lịch sử, góp phần phản ánh tâm trạng yêu nước của nhà thơ và người dân Việt Nam thời bấy giờ.

5+ Mẫu Phân Tích Bài Thơ Làm Ruộng Hay Nhất

Chia sẽ mẫu cảm nhận bài thơ “Làm Ruộng” hay nhất, hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn.

☛ Phân Tích Bài Thơ Làm Ruộng Hay Nhất

Nguyễn Khuyến được đánh giá là một trong những hồn thơ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam. Những vần thơ của ông luôn rất bình dị mà ẩn chứa nhiều điều tâm đắc, ý nghĩa về cuộc sống. Có nhiều bài thơ được sáng tác với đề tài, cảm hứng quen thuộc nhưng gợi lên những giá trị, ý nghĩa sâu sắc tiêu biểu như bài thơ Làm ruộng.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, luật vần bằng vì có tiếng thứ hai ở câu thơ đầu tiên “năm” là thanh ngang, gieo vần chân ở các từ “thua”, “mùa”, “mua”, “bữa”, niêm luật tuân thủ khá chặt chẽ của những đặc trưng trong thơ ca Đường luật. Cụ thể tiếng thứ hai trong câu hai và câu ba, trong câu bốn và câu năm, câu sáu và câu bảy, câu một và câu tám đều cùng thanh với nhau, đối chuẩn chỉnh ở hai cặp câu thực và câu luận.

Điểm đổi mới ở bài thơ chính là đề tài sáng tác không phải từ những thi liệu quen thuộc, mang tính khuôn sáo mà là cuộc sống bình dị ở xung quanh nhà thơ. Cảm hứng sáng tác được khơi nguồn từ chính cuộc sống của nhà thơ, từ tình cảm dành cho những người nông dân nghèo dưới chế độ thực dân và phong kiến.

Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.

Hai câu thơ gợi ra hoàn cảnh khốn khó của người nông dân trước cách mạng. Mấy năm tức là trong nhiều năm liền, người nông dân làm ruộng vẫn vất vả như vậy nhưng chẳng ăn thua, tức là chẳng thể đủ ăn, chẳng bỏ ra được đồng nào. Bởi vì chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa, khốn khó cứ chồng chất khốn khó. Dẫu chịu khó cày cuốc, quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời thế nhưng người nông dân vẫn chẳng khấm khá lên được, nguyên nhân do thời tiết không thuận nhưng nguyên nhân sâu xa hơn là do

Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.

Chúng ta đều biết những năm dưới chính quyền thực dân phong kiến người nông dân phải chịu hai loại xiềng xích, một là chính quyền phong kiến, hai là thực dân. Hai chế độ áp bức hà khắc này liên kết với nhau để bòn rút tới tận xương tuỷ của người nông dân. Chính sách thuế má nặng nề, tô thuế các loại như thuế đất, thuế gạo, thuế thuốc… khiến người nông dân không còn thứ gì để bấu víu.

Thành thử cuối năm dẫu mùa màng có thuận lợi thì công sá còn lại chẳng bao nhiêu. Phép liệt kê nào thuế quan, nào trả nợ ruộng, nào cho đứa ở, nào thuê trâu bò làm ruộng… ngần đấy thứ đổ lên đầu người nông dân đã cho thấy tình cảnh khốn khó ấy

Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.

Vì đời sống khốn khó, vì trăm thứ nợ, thuế đổ dồn lên đầu nên cảnh sinh hoạt của người nông dân cũng thật đạm bạc “sớm trưa dưa muối” để tạm qua bữa, những thú vui điền viên dù rất đơn sơ cũng đành gác lại “trầu chè chẳng dám mua”. Phép đối khá chỉnh ở cặp câu luận, đối trong các cặp “Sớm trưa dưa muối”, “chợ búa trầu chè”, “cho qua bữa”, “chẳng dám mua” đối trong hai câu “Sớm trưa dưa muối cho qua bữa” với “Chợ búa trầu chè chẳng dám mua” khiến cho câu thơ vừa có tính chất phơi bày hiện thực cảnh sống đạm bạc, khốn khó của người nông dân, vừa thể hiện sự ngậm ngùi, xót xa của nhà thơ dành cho họ.

Cần kiệm thế mà không khá nhỉ,
Bao giờ cho biết khỏi đường lo?

Bài thơ khép lại bằng một lời nhận xét của nhà thơ và một câu hỏi tu từ chưa có lời giải đáp. Nhà thơ tự hỏi thay những người nông dân sống cần kiệm quanh năm dưa muối như thế mà cuộc sống cũng chẳng khấm khá được lên chút nào. Trăm thứ phải lo đổ dồn lên đầu người nông dân không biết đến bao giờ mới hết cảnh phải lo nghĩ.

Chỉ với mấy câu thơ ngắn ngủi, tác giả Nguyễn Khuyến đã vạch trần được sự tàn ác của thực dân Pháp với đủ các thứ thuế, mưu mô bóc lột đến tận xương tủy của người lao động. Đồng thời phơi bày cuộc sống khốn cùng, khổ cực của người nông dân thời bấy giờ. Đó là cuộc sống đói nghèo, tăm tối không có lối thoát, không biết ngày nào mới ngóc lên được.

Mặc dù nhà thơ đồng cảm với người dân nhưng lại bất lực trước hiện thực, những câu hỏi đặt ra chỉ để lửng mà chẳng có lời đáp. Đó là lý do vì sao sau một thời gian làm quan dưới triều Nguyễn nhà thơ đã cáo quan về ở ẩn để tỏ thái độ bất mãn với chính quyền.

Làm ruộng đã phản ánh thật chân thật cảnh sống của người nông dân, qua đó tố cáo thâm trầm nhưng sâu cay chế độ tàn ác của thực dân phong kiến. Đồng thời thể hiện nỗi day dứt, khát vọng thay đổi chính quyền của nhà thơ.

Khám phá thêm bài 🌻Thu Vịnh [Nguyễn Khuyến]🌻

☛ Phân Tích Bài Thơ Làm Ruộng Sâu Sắc

Bài thơ “Làm ruộng” (Chốn quê) của Nguyễn Khuyến đã vạch trần được hiện thực cuộc sống khốn khó của người nông dân dưới thời quan Tây. Với lối văn hóm hỉnh, Nguyễn Khuyến thể hiện sự bất mãn với hiện thực một cách nhẹ nhàng.

Và yêu nước đối với Nguyễn Khuyến cũng còn là yêu lớp người nền tảng của đất nước, lớp dân quê, dân cày, đã hai sương một nắng sản xuất và đóng góp cho nền kinh tế đất nước. Ông đã cúi xuống phản ánh sinh hoạt của họ.

Dân quê ta đa số là tiểu nông bần nông đã phải sống chật vật, eo hẹp như thế nào, ông đã nói lên trong bài Làm ruộng:

Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ
Nửa công đứa ở nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa trầu cau chẳng dám mua.
Tằn tiện thế mà sao chẳng khá?
Nhờ trời rồi cũng mất gian kho!

Chỉ với 4 câu thơ đầu, Nguyễn Khuyến đã vẽ lên một bức tranh hiện thực của xã hội thời bấy giờ:

Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ
Nửa công đứa ở nửa thuê bò

Bằng 1 từ “vẫn”, nhà thơ đã chỉ ra thực tế Người dân bị mất mùa liên tiếp “Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa”. Sự thất bát về mùa vụ, gánh nặng “thuế quan Tây”, gánh nặng trả nợ cho cuộc sống đã đẩy người dân vào đường cùng cực, đói kém.

Ngay cả nhu cầu đơn giản về cuộc sống cũng chẳng đáp ứng nổi:

Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa trầu cau chẳng dám mua.
Tằn tiện thế mà sao chẳng khá?

Dù đã cố gắng ăn uống đạm bạc, không dám chi tiêu bất cứ nhu cầu gì của bản thân, thế nhưng, cuộc sống vẫn khó khăn, chẳng có đồng ra đồng vào.

Chỉ với mấy câu thơ ngắn ngủi, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã vạch trần được sự tàn ác của thực dân Pháp, phơi bày cuộc sống khốn cùng, khổ cực của người nông dân thời bấy giờ. Mặc dù nhà thơ đồng cảm với người dân nhưng lại bất lực trước hiện thực, những câu hỏi đặt ra chỉ để lửng mà chẳng có lời đáp.

Có thể nói, nhà thơ Nguyễn Khuyến sống giữa một thời kỳ mà các phong trào đấu tranh yêu nước thời bấy giờ, phần lớn các phong trào đấu tranh yêu nước đều bị thực dân, đế quốc dập tắt.

Nhà thơ Nguyễn Khuyến thời gian này cảm thấy bất lực vì không thể làm được gì để có thể thời đổi được thời cuộc lúc bấy giờ nên ông xin cáo quan về ở ẩn.

Nhà thơ không chỉ là một tâm hồn Việt Nam tiêu biểu. Ông còn được coi là một nhân cách Việt Nam tiêu biểu thời bấy giờ, cái thời đại mất nước, con người dân tộc Việt Nam bị chà đạp, đói rét, lầm than. Về ở ẩn nơi làng quê nhưng ông vẫn giữ được cái gọi là khí tiết, phẩm chất của một người yêu nước chân chính và hòa mình cùng với nhân dân.

Ông là một trong những nhà thờ đau với nỗi đau của nhân dân, ông buồn vì sự nghèo đói của họ, nhưng ông càng đau đớn hơn khi nhìn thấy cảnh đất nước bị dày xéo và cảm thấy day dứt nỗi đau của một người ưu thời mẫn thế.

Xem thêm bài 👉 Chợ Đồng Của Nguyễn Khuyến [Nội Dung Bài Thơ + Phân Tích]

☛ Phân Tích Bài Thơ Làm Ruộng Đặc Sắc

Bài thơ “Chốn quê” (Làm ruộng) của tác giả Nguyễn Khuyến là một bức tranh hiện thực về sự khốn khó của người nông dân nghèo dưới thời quan Tây. Bằng những lời thơ hóm hỉnh, tác giả đã thể hiện sự bất mãn hiện thực một cách nhẹ nhàng nhưng vẫn sâu cay.

Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Cần kiệm thế mà không khá nhỉ,
Bao giờ cho biết khỏi đường lo?

Bài thơ được viết theo thể Thất ngôn bát cú đường luật. Hình ảnh người nông dân trong bài được hiện lên qua từ ngữ và hình ảnh: làm ruộng, chân thua, thuế quan Tây, trả nợ, nửa công đứa ở, nửa thuê bò, sớm trưa dưa muối, chợ búa trầu chè chẳng dám mua, cần kiệm, không khá, đường lo.

Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.

Hai câu thơ này diễn tả những khó khăn, vất vả mà người nông dân phải đối mặt trong những năm tháng làm lụng. Dù cho có làm ruộng mà họ vẫn nghèo túng, chẳng ăn thua, lại còn phải đối mặt với mất mùa, đói kém.

Bài thơ được tác giả Nguyễn Khuyến sử dụng phép nghệ thuật đặc trưng nhất mà người đọc có thể nhận thấy là phép điệp ngữ. Các từ “phần” và “mất” được lặp lại trong các câu thơ chính là nét đặc trưng khi mới vào đầu bài thơ. Pháp nghệ thuật điệp ngữ giúp thể hiện tâm trạng của nhà thơ về cuộc sống nông dân khó khăn, đặc biệt là trong việc bày tỏ sự đau khổ, sự mất mát, sự chịu đựng và sự bất công của đời sống nông thôn.

Những câu hỏi đối thoại như “Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua, Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa” giúp nhà thơ thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn rầu, và tạo nên một không khí u ám và đầy bi thương trong bài thơ.

Nó còn giúp nhà thơ tạo nên một sự gần gũi, dễ tiếp cận với độc giả khi gợi được những suy ngẫm và đặt độc giả vào hoàn cảnh của nhà thơ, gợi lên lòng đồng cảm và thấu hiểu về hoàn cảnh khó khăn của người nông dân, tạo nên một tác dụng gợi cảm, chân thật trong lòng độc giả. Nhờ vậy, người đọc càng dễ dàng đón nhận và thấu hiểu hơn về con người tác giả.

Xem thêm 👉 Tự Trào của Nguyễn Khuyến

☛ Phân Tích Bài Thơ Làm Ruộng Chuyên Văn

Nguyễn Khuyến là một nhà văn và nhà chính trị nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt Nam, có đóng góp to lớn trong mảng thơ Nôm. Bài thơ Chốn quê miêu tả lại cuộc sống của người dân nông thôn trong thời kỳ phong kiến còn tồn tại. Bài thơ khắc họa sự áp bức và khốc liệt của thực dân Tây và triều đình phong kiến đối với người dân.

     Cuộc sống của người dân hay những người nông dân trong bài thơ bị đảo lộn bởi mất mùa và nợ nần. Họ phải đối mặt với việc đánh thuế cao, phải trả nợ và chỉ được hưởng một phần công lao từ vất vả của mình. Từ những câu thơ “Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua, Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa”, Nguyễn Khuyến cho người đọc cảm nhận được sự tàn bạo của chế độ thực dân và vất vả của người nông dân.

Tác giả truyền tải tâm trạng của mình thông qua hình ảnh và ngôn ngữ tình cảm được thể hiện trong bài thơ. Ông phản cho thấy bản thân không thể chịu đựng được trước sự bóc lột và đối xử bất công từ phía chế độ phong kiến và thực dân phương Tây. Câu thơ “Cần kiệm thế mà không khá nhỉ, Bao giờ cho biết khỏi đường lo?” thể hiện sự bất mãn và lòng hối tiếc về tình hình đất nước khi ấy.

 Đọc bài thơ “Làm ruộng”, người đọc không chỉ cảm nhận được sự vất vả và khó khăn của cuộc sống nông dân mà còn nhìn thấy sự bóc lột và tàn phá của thực dân và phong kiến. Tác phẩm này gợi lên trong ta một cảm giác thương cảm và phẫn uất, đồng thời khơi dậy lòng tự hào dân tộc trong mỗi người dân.

Dù bị áp bức, người nông dân vẫn không ngừng lao động, cần kiệm và hy vọng một ngày nào đó tình hình sẽ thay đổi. Từ những cảm xúc chân thật và sâu sắc của tác giả, ta nhận thấy rằng bài thơ không chỉ là một phản ánh thực tế về cuộc sống đau khổ mà người dân phải trải qua, mà còn là một lời kêu gọi đấu tranh và khát vọng thay đổi xã hội. 

Tặng bạn 👉 Thu Ẩm [Nguyễn Khuyến]

☛ Phân Tích Bài Thơ Làm Ruộng Ngắn Gọn

Bài thơ “Làm ruộng” của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm thơ ca về cuộc sống của người nông dân miền quê Việt Nam thời kỳ đầu thế kỷ XX. Bức tranh về nỗi khổ khó, tính kiệm kẹm và mâu thuẫn trong cuộc sống của người dân nông thôn được tác giả khắc họa một cách chân thực, đem đến sự đồng cảm và suy ngẫm sâu sắc về hoàn cảnh của họ.

Bài thơ bắt đầu với những dòng chữ đầy cay đắng: “Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua, Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa”. Điều này cho thấy cuộc sống làm ruộng của người dân nông thôn là một chuỗi thất bại, vất vả và đầy nhọc nhằn.

Nỗi khổ khó trong cuộc sống được thể hiện qua việc phải đối mặt với nợ nần, thuế quan, phải dùng nửa công đứa ở, nửa thuê bò. Tác giả cũng miêu tả cảnh đời sống thiếu thốn của người dân nông thôn khi phải sớm trưa dưa muối để qua bữa, không dám mua búa trầu chè tại chợ, cho thấy tính kiệm kẹm và khó khăn trong việc chi tiêu.

Họ đã nỗ lực, làm việc cật lực nhưng vẫn không thoát khỏi đường đời khốn khổ, vất vả. Đó là sự bóc lột của biết bao nhiêu tầng lớp lên đầu những người dân nghèo khổ và yếu đuối. Không có ai ra mặt giúp những người thấp cổ bé họng đó cả, vậy nên họ luôn phải chịu những ách áp bức nặng nề. Bài thơ “Làm ruộng” là một lời ca tụng và gửi gắm nỗi niềm của người nông dân Việt Nam thời bấy giờ. Đó là cuộc sống khó khăn, nhọc nhằn, nơi mà họ phải sống tích cực, đương đầu với khó khăn và bất công của xã hội.

Thohay.vn Chia Sẽ ❤️️ Anh Giả Điếc [Nguyễn Khuyến] ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Ý Nghĩa

Viết một bình luận