Bài Thơ Thiên Trường Vãn Vọng Lớp 8: Soạn Bài, Phân Tích

Thohay.vn chia sẻ bạn nội dung, hoàn cảnh sáng tác và những mẫu phân tích bài thơ Thiên trường vãn vọng lớp 8 hay nhất sau đây.

Giới Thiệu Bài Thơ Thiên Trường Vãn Vọng

“Thiên Trường vãn vọng” là một bài thơ nổi tiếng của vua Trần Nhân Tông, được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Bài thơ này miêu tả cảnh đẹp thanh bình của làng quê Thiên Trường vào buổi chiều tà, thể hiện tình yêu quê hương và sự thanh thản trong tâm hồn của tác giả.

Bài thơ được sáng tác trong một dịp về thăm quê. Các vua đời Trần cho xây ở quê một hành cung gọi là cung Thiên Trường để thỉnh thoảng về nghỉ ngơi. Mỗi dịp về đó, các vua thường có thơ lưu lại, nay còn giữ được vài bài, trong đó có bài này.

Ngày tháng sáng tác không thấy ghi cụ thể nhưng chắc chắn bài thơ ra đời sau chiến thắng quân Nguyên – Mông lần thứ ba không lâu, vào giai đoạn cuộc sống yên lành của nhân dân đang được khôi phục lại (nghĩa là vào khoảng những năm 90 của thế kỉ XIII).

Xem trọn bộ: Thơ Trần Nhân Tông

Nội Dung Bài Thơ Thiên Trường Vãn Vọng

Chia sẻ cho bạn nội dung bài thơ Thiên trường vãn vọng dưới đây.

Thiên Trường vãn vọng
Tác giả: Trần Nhân Tông

天長晚望
村後村前淡似煙,
半無半有夕陽邊。
牧童笛裡歸牛盡,
白鷺雙雙飛下田。

Phiên âm

Thiên Trường vãn vọng
Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi há điền.

Dịch nghĩa

Trước thôn, sau thôn, khí trời mờ nhạt như khói,
Bóng chiều tà nửa không, nửa có.
Trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về hết,
Từng hàng cò trắng bay xuống ruộng.

Bản dịch của Ngô Tất Tố

Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không.
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.

Chia sẻ bạn 💛 Thơ Trần Quang Khải 💛 Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ

Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Thiên Trường Vãn Vọng

Nhan đề “Thiên Trường vãn vọng” của bài thơ của Trần Nhân Tông không chỉ là một tên gọi ngắn gọn mà còn là một cửa sổ mở ra với nhiều ý nghĩa sâu sắc. Nó mở đầu cho một hành trình tinh thần, nơi tác giả trở lại quê hương, ngắm nhìn cảnh vật của Thiên Trường trong bức tranh lung linh của buổi chiều tà.

Đọc Hiểu Bài Thơ Thiên Trường Vãn Vọng

Sau đây là nội dung đọc hiểu bài thơ Thiên trường vãn vọng cho những bạn nào đang cần nhé.

👉 Câu 1. Hãy xác định thể thơ của bài Thiên Trường vãn vọng và cho biết em dựa vào các yếu tố nào để nhận biết thể thơ đó?

Đáp án:

  • Thể thơ của bài “Thiên Trường vãn vọng”: thất ngôn tứ tuyệt Đường luật
  • Các yếu tố nhận biết: Có 4 câu thơ trong một bài, mỗi câu 7 chữ, chữ cuối ở các câu 1,2 và 4 vần với nhau. Bốn câu thơ tương ứng với 4 phần là đề, thực, luận, kết.

👉 Câu 2. Theo em qua bức tranh thiên nhiên và cuộc sống được tái hiện trong bài thơ, tác giả đã bộc lộ cảm xúc, tâm trạng gì?

Đáp án:

Qua bức tranh thiên nhiên và cuộc sống được tái hiện trong bài thơ, tác giả đã bộc lộ cảm xúc, tâm trạng như đang chìm đắm mơ màng trong không gian chiều tà dung dị. Trong lòng trào dâng một tình yêu tha thiết đối với xóm làng quê hương đất nước thân thương.

👉 Câu 3: Bố cục của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật được thể hiện như thế nào trong bài thơ?

Đáp án:

Bố cục của bài thơ được triển khai theo hướng:

  • Khai (câu đầu): mở ý cho bài thơ, ở đây là mở ra không gian làng quê.
  • Thừa (câu 2): tiếp tục phát triển ý thơ: mô tả thêm về khung cảnh làng quê
  • Chuyển (câu 3): phát triển và chuyển hướng ý thơ. Ở đây tác giả đã chuyển sang miêu tả con người.
  • Hợp (câu 4): thâu tóm ý tứ của toàn bài, ở đây bài thơ thể hiện vẻ đẹp của đồng quê và bộc lộ trong đó tâm trạng của mình.

👉 Câu 4. Những hình ảnh ở hai câu thơ cuối đã gợi lên một bức tranh cuộc sống như thế nào?

Đáp án:

Hình ảnh ở hai câu thơ cuối:

– Tiếng sáo của trẻ chăn trâu văng vẳng

– Từng đôi cò trắng đang xoè cánh đậu xuống đồng

=> Ở hai câu này, tác giả cảm nhận bức tranh làng quê bằng cả thị giác và tính giác khác hẳn 2 câu đầu. Điều này đã gợi ra một không gian rộng lớn, thoáng đãng với bầu trời cao rộng và con người, động vật hối hả về nhà. Có một sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên, tạo cho tác giả lẫn người đọc có cảm giác thân quen, gần gũi ở chốn thôn quê.

Xem ngay nội dung và mẫu phân tích 👉 Bài Thơ Ngắm Trăng

Giá Trị Nghệ Thuật Thiên Trường Vãn Vọng

Thohay.vn gửi đến bạn giá trị nghệ thuật của bài thơ Thiên trường vãn vọng tại bài viết sau đây nhé.

  • Kết hợp điệp ngữ và tiểu đối sáng tạo
  • Nhịp thơ êm ái hài hòa
  • Sử dụng ngôn ngữ miêu tả đậm chất hội họa
  • Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt

Bố Cục Bài Thơ Thiên Trường Vãn Vọng

Bố cục bài thơ Thiên trường vãn vọng được chia làm 2 phần như sau:

  • Phần 1 (hai câu đầu): Cảnh thôn xóm vùng Thiên Trường trong buổi chiều tà
  • Phần 2 (hai câu còn lại): Cảnh sắc đồng quê dân dã, mờ ảo trong buổi chiều tà

Đón đọc thêm 💕 Thơ Trần Nhuận Minh 💕 Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ

Dàn Ý Bài Thơ Thiên Trường Vãn Vọng Lớp 8

Bạn đã biết lập dàn ý bài thơ Thiên trường vãn vọng lớp 8 như thế nào chưa? Nếu chưa thì nhất định đừng bỏ qua bài viết này.

1. Mở bài: Giới thiệu tác phẩm Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông

2. Thân bài

a. Hai câu thơ đầu:

“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên

(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không).

– Bối cảnh không gian làng quê được bao phủ bởi khói chiều, với mốc thời gian là buổi chiều buông.
– Làn khói tỏa mờ, bao phủ trước xóm sau thôn, thứ khói bếp màu xanh bốc lên từ bếp lửa của những ngôi nhà trong thôn xóm mang lại cảm giác ấm áp, thanh bình.

→ Cảnh vật trong hai câu thơ đầu hiện lên là một cảnh tĩnh, được bao phủ bởi bóng chiều và khói bếp, đem đến vẻ hư ảo, nửa thực nửa hư, tạo nên cho con người cảm xúc lâng lâng, say đắm lòng người.

→ Thái độ của tác giả trước dáng vẻ của quê hương chính là sự gắn bó, cảm nhận tinh tế, sâu sắc cùng với dáng vẻ thư thái, tự tại trước không gian rộng lớn, giản dị của quê hương.

b. Hai câu thơ sau:

“Mục đồng địch lí ngưu quy tận”
Bạch lộ song song phi hạ điền

(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).

– Hình ảnh mục đồng dắt trâu về và hình ảnh những con cò trắng từng đôi từng một hạ cánh xuống cánh đồng, âm thanh của tiếng sáo bảy lỗ, kết hợp với gam màu trắng muốt của cánh cò.

→ Là những thứ rất đỗi thân thuộc với làng quê, đặc biệt hình ảnh con trâu lại là bằng chứng sống cho sự thanh bình của đất nước.

– Hình ảnh từng đôi cò trắng hạ xuống đồng chính là biểu trưng cho tình yêu đôi lứa, sự sinh sôi nảy nở dòng giống của dân tộc, thể hiện sự phát triển vững bền của dân tộc xuất phát từ chính những làng quê nhỏ bé, chân chất, bởi gia đình chính là tế bào của xã hội.

3. Kết bài: Nêu cảm nhận về Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông

Tuyển tập 22+ bài 👉 Thơ Trịnh Nam Trân hay nhất

Sơ Đồ Tư Duy Thiên Trường Vãn Vọng

Chia sẻ sơ đồ tư duy bài thơ Thiên trường vãn vọng cho những bạn nào đang cần.

Sơ đồ tư duy thiên trường vãn vọng
Sơ đồ tư duy Thiên trường vãn vọng

Soạn Bài Thiên Trường Vãn Vọng Lớp 8 Đầy Đủ

Dưới đây là soạn bài Thiên trường vãn vọng lớp 8 đầy đủ nhất mà thohay.vn đã chọn lọc.

👉 Câu 1. Cảnh vật ở hai câu thơ đầu được tái hiện vào khoảng thời gian nào? Chỉ ra mối liên hệ giữa thời gian và các hình ảnh được miêu tả.

Đáp án:

  • Cảnh vật ở hai câu thơ đầu được tái hiện vào buổi chiều tà (hoàng hôn).
  • Mối liên hệ giữa thời gian và các hình ảnh được miêu tả: Các thôn xóm đã chìm dần trong sương khói như mơ như thực. (Khi chiều xuống thường có lớp sương bao quanh gióng như làn khói). Một khung cảnh làng quê thật thanh bình và êm ả, nên thơ.

👉 Câu 2. Tác giả Thiên Trường vãn vọng là một vị vua, đã từng hai lần cùng nhân dân chiến đấu và chiến thắng quân xâm lược Mông – Nguyên. Điều đó gợi cho em suy nghĩ sau khi đọc bài thơ:…

Đáp án:

Tác giả của bài thơ là một ông vua có tâm hồn thi sĩ. Đọc bài thơ, ta thấy hoàn toàn không có sự ngăn cách nào giữa một người lãnh đạo cao nhất của một quốc gia với một người nông dân thuần phác (cảnh được nhìn và miêu tả ở những nét gần gũi và dân dã nhất).

Điều đó cho thấy, nhà vua rất gần dân chúng, rất yêu dân, yêu chuộng sự thanh bình. Phải chăng vì các vị vua Trần rất thân dân, yêu dân như con mà mỗi khi đứng trước họa xâm lăng (nhất là trong ba lần quân Nguyên – Mông xâm lược nước ta) nhà Trần đều lãnh đạo nhân dân chống xâm lược thành công.

👉 Câu 3. Bài thơ tái hiện cảnh vật và cuộc sống con người trong nhiều khoảng không gian. Em hãy chỉ ra những khoảng không gian đó theo trình tự được miêu tả trong bài thơ.

Đáp án:

  • Không gian thôn xóm: Chìm vào màn sương khói chiều mờ ảo.
  • Không gian cánh đồng: Mục đồng thổi sáo, đàn trâu trở về, cò liệng xuống cánh đồng.

👉 Câu 4. Tác giả Thiên Trường vãn vọng còn là một vị vua. Điều đó gợi cho em những suy nghĩ gì khi đọc bài thơ?

Đáp án:

Hình ảnh một vị vua thường gắn với chốn hoàng cung sa hoa và lộng lẫy, có kẻ hầu người hạ xung quanh. Nhưng không gian được miêu tả trong bài thơ lại mang vẻ giản dị, thanh bình của một làng quê. Có thể thấy được rằng, tác giả là một người yêu thiên nhiên, trân trọng quê hương.

Đọc Thêm ❤️️Đánh Đu Hồ Xuân Hương ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật

Giáo Án Bài Thơ Thiên Trường Vãn Vọng Lớp 8

Thohay.vn hướng dẫn các bạn cách soạn giáo án bài thơ Thiên trường vãn vọng lớp 8 tại bài viết dưới đây.

I. MỤC TIÊU

1. Về mức độ/ yêu cầu cần đạt

– HS nhận biết, phân tích được một số yếu tố hình thức của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật (bố cục, niêm, luật bằng trắc) trong bài thơ.

– HS nhận biết và phân tích được đặc điểm của bức tranh cuộc sống bình yên, thơ mộng nơi làng quê trong buổi hoàng hôn, từ đó cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của tác giả – một vị hoàng đế – thi nhân.

2. Về năng lực

a. Năng lực chung

– Giao tiếp và hợp tác trong làm việc nhóm và trình bày sản phẩm nhóm.

– Phát triển khả năng tự chủ, tự học qua việc đọc và hoàn thiện phiếu học tập ở nhà.

– Giải quyết vấn đề và tư duy sáng tạo trong việc chủ động tạo lập văn bản.

b. Năng lực đặc thù

– Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản Thiên Trường vãn vọng.

– Năng lực nhận diện các yếu tố hình thức và nội dung của thơ.

3. Về phẩm chất

– Giúp HS biết ơn và thể hiện lòng tự hào về các thế hệ trước, biết trân trọng, giữ gìn di sản văn hóa mà ông cha để lại.

II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU

1. Chuẩn bị của giáo viên

– Giáo án, tài liệu tham khảo, kế hoạch bài dạy

– Phiếu học tập, trả lời câu hỏi

– Bảng giao nhiệm vụ cho HS hoạt động trên lớp

– Bảng giao nhiệm vụ học tập cho HS ở nhà

2. Chuẩn bị của học sinh

– SGK, SBT Ngữ văn 8, soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài, vở ghi.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

A. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG

a. Mục tiêu: Tạo tâm thế, tạo hứng thú cho HS, thu hút HS sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập của mình. HS khắc sâu kiến thức nội dung bài học.

b. Nội dung: GV đặt cho HS trả lời những câu hỏi mang tính gợi mở vấn đề.

c. Sản phẩm: Nhận thức và thái độ học tập của HS.

d. Tổ chức thực hiện:

– GV tổ chức cho HS chơi trò chơi “Ai thông minh nhất”: GV đưa ra 5 thông tin liên quan tới địa danh Thiên Trường, mời HS lắng nghe. GV lần lượt liệt kê từng thông tin, HS nào trả lời nhanh nhất sẽ dành chiến thắng.

1. Một tỉnh phía Bắc có số người theo đạo đông nhất Việt Nam.

2. Nơi đây là quê gốc của các vua thời nhà Trần của nước ta.

3. Thời nhà Lý, nơi đây có tên gọi là Hải Thanh.

4. Khu di tích này rộng tới hàng chục héc ta.

5. Thường được tổ chức Hội hằng năm diễn ra từ ngày 15 – 20 tháng 8 Âm lịch hàng năm.

=> Địa danh Thiên Trường (Đền Trần phủ Thiên Trường).

– GV chiếu một số hình ảnh cho HS quan sát về địa danh này.

– GV mời HS chia sẻ những hiểu biết về địa danh đó.

– GV nhận xét, đánh giá, dẫn dắt vào bài học: Bài học hôm nay chúng ta sẽ học tác phẩm thơ của một vị vua yêu nước, có công lớn trong công cuộc chống ngoại xâm, đồng thời cũng là nhà văn hóa, nhà thơ tiêu biểu của đời Trần và liên quan đến địa danh Thiên Trường.

Đọc thêm tác phẩm 🔻 Hồi Trống Cổ Thành 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Mẫu Phân Tích Hay 

10+ Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Thiên Trường Vãn Vọng

Thohay.vn chia sẻ cho các bạn đọc top 10+ mẫu cảm nhận, phân tích bài thơ Thiên trường vãn vọng hay nhất sau đây. Mời bạn tham khảo.

Phân Tích Bài Thơ Thiên Trường Vãn Vọng Ngắn Nhất

Trần Nhân Tông nổi tiếng là một vị vua anh minh hiền đức khoan dung. Bên cạnh đó ông còn là một nhà thơ, một nhà văn hóa tiêu biểu của nhà Trần. Ông đã để lại một số lượng tác phẩm có tầm ảnh hưởng lớn. Trong số đó ta không thể không kể đến tác phẩm “Thiên Trường vãn vọng”.

Tác phẩm được sáng tác trong thời điểm ông về thăm quê nhà. Bài thơ tả cảnh buổi chiều ở Thiên Trường tuy vắng lặng nhưng lại có rất nhiều cảnh vật khiến lòng người xốn xang.

Bài thơ được viết trong dịp Trần Nhân Tông về thăm quê cũ ở phủ Thiên Trường. Bởi vậy cả bài thơ đầy ắp nỗi nhớ, tình yêu quê hương. Lời thơ mở đầu tả cảnh chiều hôm:

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên

Bán vô bán hữu tịch dương biên

Cảnh vật hiện ra không rõ nét, nửa hư nửa thực, mờ ảo. Đó là cảnh chiều muộn cảnh vật nhạt nhòa trong sương, thể hiện vẻ đẹp mơ màng, yên tĩnh nơi thôn dã. Cảnh đó một phần là thực một phần do cảm nhận riêng của tác giả.

Khung cảnh vừa như thực lại vừa như cõi mộng “bán vô bán hữu” – nửa như có nửa như không. Thời gian buổi chiều gợi nên nỗi buồn man mác, không gian làng quê im ắng, tĩnh mịch. Điều đó cho thấy một tâm hồn tinh tế nhạy cảm trước vẻ đẹp giản dị của cuộc sống.

Mục đồng địch lí ngưu quy tận,

Bạch lộ song song phi hạ điền

Nhà thơ lựa chọn hai hình ảnh thơ đó là cánh cò và hình ảnh lũ trẻ đang chăn trâu. Tác giả chọn hai hình ảnh ấy làm hai hình ảnh kết bài thơ chính bởi đây là những hình ảnh đặc trưng nhất tiêu biểu nhất của quê hương mỗi người. Đó là hình ảnh tiếng sáo đang văng vẳng bên tai của những cậu bé chăn trâu khiến nhà thơ cảm thấy xốn xang lạ thường.

Dường như ta đang được về quê cùng tác giả để ngửi hơi khói bếp để nghe tiếng sáo du dương để ngắm đàn trâu đang nhai những ngọn cỏ cuối cùng để về nhà. Đó còn là hình ảnh những cánh cò trắng đang chao liệng.

Nói đến quê hương sao có thể không nhắc đến những đàn cò trắng đã đi vào trong tâm hồn người dân thôn quê và cánh cò ấy cũng chao nghiêng trên bao bài thơ, câu thơ thân thương của người dân. Đã là một người con của quê hương ta không thể quên được những hình ảnh thân thương ấy.

Có lẽ tác giả không thực nhìn thấy những hình ảnh đó nhưng đối với một người con của quê hương mà nói những hình ảnh đó vốn là những hình ảnh quen thuộc đến nỗi mỗi khi nhắc đến là họ không thể quên được.

Qua đó ta thấy tác giả cũng là một người sinh ra trên một mảnh đất quê hương và chịu cảnh chân lấm tay bùn, có thế tác giả mới có thể hiểu cảm nhận và viết lên những ấu thơ về quê hương da diết đến như thế.

Sử dụng lớp ngôn ngữ giàu chất biểu cảm và hội họa tác giả đã vẻ lên bức tranh làng quê trầm lặng mà không quạnh vắng. Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống thật đẹp đẽ, hài hòa, nên thơ. Qua bài thơ còn cho thấy tình yêu quê hương sâu nặng của tác giả.

Sưu tầm văn mẫu phân tích 💌 Tràng Giang [Huy Cận] 💌 Hay, ý nghĩa

Phân Tích Bài Thơ Thiên Trường Vãn Vọng Lớp 8 Của Học Sinh Giỏi

Nền văn học Việt Nam trong thời trung đại (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX), cùng với những bài thơ biểu ý như Nam quốc sơn hà, Tụng giá hoàn kinh sư, cha ông ta đã sáng tác khá nhiều tác phẩm biểu cảm. “Để biểu cảm, người viết biến đồ vật, cảnh vật, sự việc, con người… thành hình ảnh bộc lộ tình cảm của mình”. Bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông và Côn sơn ca của Nguyễn Trãi chính là hai văn bản như thế.

Qua bức tranh cảnh vật và con người, hai tác giả đã bộc lộ những tình cảm thật chân thành của mình. Hai bức tranh thiên nhiên, hai hồn thơ thắm thiết tình yêu quê hương, đất nước, niềm lạc quan, yêu đời, rất đáng trân trọng.

“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền”.

Nhà văn Ngô Tất Tố dịch là:

“Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng”.

Tương truyền, sau khi lãnh đạo quân dân ta chiến đấu chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi, đất nước trở lại thanh bình, nhân dịp về thăm quê hương ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), vua Trần Nhân Tông đã ngẫu hứng sáng tác bài thơ này.

Bài thơ được viết theo thể thơ Đường, thất ngôn tứ tuyệt, âm điệu hài hòa, nhẹ nhàng, thanh thoát. Đây là bức tranh thôn dã vào lúc chiều tà, đang ngả dần về tối. Hai câu đầu tả cảnh làng xóm mơ màng, yên ả:

“Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không”.

Thôn xóm, nhà tranh mái rạ nối nhau, sum vầy phía trước, phía sau, bốn bề san sát, khói phủ nhạt nhòa, mờ tỏ, “bán vô bán hữu” nửa như có, nửa như không. Khói tỏa từ đâu ra thế? Phải chăng, đó là những làn sương chiều lãng đãng hòa quyện với những vầng khói thổi cơm ngay từ những mái nhà lan tỏa thành một màn sương – khói trắng mờ, êm dịu bay nhẹ nhàng thanh thản khiến người ngắm cảnh cảm thấy chỗ tỏ, chỗ mờ, lúc có, lúc không.

Cảnh thoáng, nhẹ, khiến tâm hồn con người cũng như lâng lâng. Hay chính lòng người đang lâng lâng, mơ mộng nên nhìn thấy làng xóm, khói sương êm ả, thanh bình như thế? Ngoại cảnh và tâm cảnh hòa hợp rất tự nhiên. Xuống hai câu sau, trong cảnh có chút xao động:

“Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng”.

Bức tranh thôn dã có thêm âm thanh, màu sắc và vài ba cử động. Nơi gần, có mấy “mục đồng” lùa trâu về xóm, vừa đi vừa thổi sáo, tiếng sáo vi vu, văng vẳng cất lên. Nơi xa, mấy cánh cò trắng, từng đôi, từng đôi sà xuống đồng như muốn tìm mồi, hay định nghỉ ngơi! Người và vật, thiên nhiên, đồng ruộng, âm thanh và màu sắc…, tất cả đã hòa nhập với nhau vẽ nên bức tranh quê hương thanh bình, êm vắng mà thật có hồn. Nhà thơ chỉ chọn vài chi tiết tiêu biểu, rồi chấm phá vài nét như muốn thổi cả tâm hồn mình vào cảnh vật.

Cảnh vốn đẹp, qua hồn người càng đẹp thêm. Cả một miền quê rộng lớn được thu lại trong bốn dòng thơ hàm súc và biểu cảm. Rõ ràng cảnh tượng buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh tượng vùng quê trầm lặng mà không đìu hiu vì ở đây vẫn có sự sống con người trong mối giao hòa với cảnh vật thiên nhiên rất đỗi nên thơ. Một ông vua mà sáng tác những vần thơ gợi cảm như thế chứng tỏ đây là con người tuy có địa vị tối cao, nhưng tâm hồn vẫn gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã.

Nói khác đi, qua bài thơ Thiên Trường vãn vọng, vua Trần Nhân Tông đã bộc lộ tình yêu quê hương, tình yêu nhân dân, yêu đời trong sáng. Điều đó cũng chứng tỏ, ở thời đại nhà Trần, dân tộc ta, nhân dân ta sống rất cao đẹp. Bài thơ của Trần Nhân Tông góp thêm một vầng sáng nữa vào “Hào khí Đông A” của thơ văn đời Trần.

Dành tặng bạn đọc 💗 Thơ Chào Ngày Mới Hài Hước 💗

Phân Tích Bài Thơ Thiên Trường Vãn Vọng Đầy Đủ Nhất

Nếu phải tìm bản nhạc hay nhất, có lẽ tôi sẽ chọn văn chương. Bởi chỉ khi đến với văn chương, người nghệ sĩ mới được tự do để trái tim dẫn dắt, được thể hiện quan niệm của chính mình và rồi mang đến cho người đọc biết bao giai điệu cảm xúc với nhiều cung bậc.

Và nhà thơ Trần Nhân Tông đã để tác phẩm “Thiên Trường vãn vọng” của mình là nốt ngân đầy sáng tạo trong bản hòa tấu của văn học Việt Nam. Bài thơ là một sáng tạo độc đáo về nội dung và nghệ thuật.

Trần Nhân Tông là vị vua thứ ba của nhà Trần. Nhắc tới Trần Nhân Tông, người ta nghĩ ngay tới người anh hùng cứu nước, vị vua tài trí lỗi lạc đã cùng quân dân nhà Trần đánh bại quân xâm lược Mông Cổ, làm nên một thời đại anh hùng trong lịch sử dân tộc – thời đại Đông A.  Trần Nhân Tông còn là vị thiền sư sáng lập dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nên văn học trung đại nói riêng và thơ ca Việt Nam nói chung. Thơ Trần Nhân Tông tràn đầy cảm hứng yêu nước và hào khí Đông A. Đặc biệt, thơ ông luôn thể hiện cái nhìn trìu mến, nâng niu; tình cảm gắn bó với cảnh sắc thiên nhiên đất nước và cuộc sống của nhân dân.

Cuộc sống hết sức phong phú, đa dạng, nhà văn nhà thơ phải quan sát kỹ lưỡng và tinh tế mới phát hiện ý nghĩa sâu xa tiềm ẩn trong sự vật, hiện tượng. Không dừng lại ở việc quan sát những con người bình thường mà phải tìm được chìa khóa để khám phá thế giới nội tâm con người. Nhan đề bài thơ “Thiên Trường vãn vọng” đã thể hiện được tư tưởng, tình cảm của người nghệ sĩ.

Thiên Trường là một địa danh thuộc vùng đất Nam Định. Từ “vãn” có nghĩa là chiều; “vọng” là nhìn, ngắm, trông ra. Nhan đề được dịch là ngắm cảnh Thiên Trường trong buổi chiều tà. Trước hết, chúng ta cần phải đặt trong hoàn cảnh sáng tác của bài thơ để hiểu rõ hơn về nhan đề. Bài thơ được sáng tác trong dịp vua Trần Nhân Tông về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay).

Nhan đề bài thơ đã gợi mở cho người đọc về thời gian, không gian được nhắc đến trong bài thơ. Thời gian lúc này là buổi chiều, đây là khoảng thời gian kết thúc của một ngày, vạn vật đều trở về nghỉ ngơi. Còn không gian là ở phủ Thiên Trường, đó là nơi quê hương của tác giả. Từ “vọng” đã miêu tả hành động của nhân vật trữ tình, đang phóng tầm mắt ra xa để ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên. Như vậy, nhan đề tuy ngắn gọn nhưng đã khái quát được nội dung của bài thơ.

Hai câu thơ mở đầu, nhà thơ đã gợi tả khung cảnh làng quê vùng Thiên Trường trong ánh chiều tàn:

 “Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,

Bán vô, bán hữu tịch dương biên.”

(“Trước thôn, sau thôn, khí trời mờ nhạt như khói,

Bóng chiều tà nửa không, nửa có”)

Ở hai câu thơ đầu, nhà thơ khắc họa một không gian làng quê đẹp và mộng ảo tựa như bức tranh vẽ. Cảnh vật hiện ra không rõ nét, nửa hư nửa thực, mờ ảo. Không gian được nhắc đến là “trước thôn, sau thôn”. Cặp từ trái nghĩa “trước-sau” cùng với hình ảnh thôn quê gợi ra một bức tranh vùng quê ấm cúng, gần gũi, thân thương.

Hình ảnh thơ “Khí trời mờ nhạt như khói” là một khám phá tinh tế của nhà thơ. Phải chăng khói từ những căn bếp của nhà dân đang nấu cơm, nên khói bay lên nhiều tạo thành cả màn khói bảng lảng phủ kín ngôi làng. Điều đó cho thấy cuộc sống ấm no, sung túc của thôn quê.

Thời gian được thi sĩ nhắc đến trong câu thơ là buổi chiều tà. Buổi chiều là một khoảng thời gian rất đắt giá trong văn học trung đại, cũng như văn học nói chung. Nó thường đem đến cho con người những cảm xúc đặc biệt, khơi gợi trong tâm hồn những nỗi xúc động sâu sắc, đặc biệt là với những con người xa quê lâu ngày. Viết về khoảng thời gian chiều tà ấy đã có biết bao thi nhân để lại những vần thơ đặc sắc. Thôi Hộ trong bài “Hoàng hạc lâu”, một lần nữa cũng biểu đạt tài tình cái khoảnh khắc này: 

Nhật mộ hương quan hà xứ thị? 

Yên ba giang thượng sử nhân sầu”.

(“Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu? 

Trên sông khói toả, sóng gợn, khiến người sinh buồn!”)

Thời sau, Huy Cận cũng có một lần rung cảm như thế:

 “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc… 

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

 Lòng quê dợn dợn vời con nước, 

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Hai câu thơ cuối là sự kết hợp hài hòa, hòa quyện giữa con người và thiên nhiên:

“Mục đồng địch lý ngưu quy tận”

Bạch lộ song song phi hạ điền

(“Mục đồng sáo vẳng trâu về hết

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng”)

Hình ảnh “mục đồng sáo” gợi ra cho người đọc bức tranh của những chú bé mục đồng. Câu thơ như ùa về những kỉ niệm đẹp gắn bó của thi nhân. Hình ảnh đàn trâu trở về, trâu là vật gắn bó quen thuộc của mỗi nhà dân. Người ta thường nói “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Hiện lên trên bức tranh ấy là hình ảnh đàn cò trắng bay lượn.

Nhà thơ đã sử dụng bút pháp chấm phá điểm xuyết “Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng”. Câu thơ giàu chất hội họa, hiện lên trên nền xanh của cánh đồng lúa là màu trắng đẹp của con cò siêng năng kiếm ăn nơi đồng ruộng. Nó khiến người đọc dễ nghĩ đến một cảnh tượng đẹp trong ca dao: “Con cò bay lả bay la, bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng”. 

Mỗi một tác phẩm là một phát minh về nội dung và một khám phá về nghệ thuật. Bài thơ Thiên Trường vãn vọng thành công nhờ vào giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.  Với bốn câu thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn, Cảnh tượng buổi chiều ở phủ Thiên Trường trầm lặng mà không đìu hiu. Ở đây vẫn ánh lên sự sống của con người trong sự hòa hợp với cảnh vật thiên nhiên một cách nên thơ.

Qua đó giúp chúng ta tâm hồn gắn bó máu thịt với quê hương dân dã của nhà vua. Bài thơ là sự kết hợp điệp ngữ và tiểu đối sáng tạo, nhịp thơ êm ái hài hòa. Nhà thơ đã sử dụng ngôn ngữ miêu tả đậm chất hội họa. Tất cả làm nên thành công của bài thơ.

Tham khảo thêm 👉 Thơ Quang Dũng

Phân Tích Thiên Trường Vãn Vọng Dài

Trần Nhân Tông (1258 – 1308) là ông vua anh hùng – thi sĩ của Đại Việt trong thế kỷ XIII. Thông minh, học rộng, có tài thao lược và rất tài hoa. Tên tuổi nhà thơ gắn liền với những chiến công hiển hách của nhân dân trong hai cuộc kháng chiến lần thứ hai và lần thứ ba đánh thắng giặc Nguyên – Mông xâm lược.

Trong một số bài thơ chữ Hán của Trần Nhân Tông để lại có hai bài viết về Thiên Trường, mảnh đất “phát nghiệp đế vương” của nhà Trần: “Hạnh Thiên Trường hành cung” và “Thiên Trường vãn vọng”. Thiên Trường là một trong 12 lộ thời Trần, thuộc Sơn Nam; nay thuộc thành Nam Định. Thiên Trường vốn là Thái ấp của vua chúa nhà Trần, ở đây xưa không có nhiều cung điện nguy nga tráng lệ.

“Thiên Trường vãn vọng” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật (luật trắc, vần bằng). Bài thơ gợi tả cảnh xóm thôn, đồng quê vùng Thiên Trường qua cái nhìn và cảm xúc của Trần Nhân Tông, cảm xúc lắng đọng, cái nhìn man mác, bâng khuâng ôm trùm cảnh vật:

“Thôn hậu, thôn tiền, đạm tự yên,

Bán vô, bán hữu, tịch dương biên.

Mục đồng địch lí ngưu quy tận,

Bạch lộ song song phi hạ điền”

Hơn 60 năm về trước, cụ Ngô Tất Tố đã dịch rất hay bài thơ này. Hai câu thơ đầu gợi tả cảnh làng quê vùng Thiên Trường trong ánh chiều tàn. Bốn chữ “thôn Hậu thôn tiền” và “bán vô bán hữu” liên kết đôi, tạo nên sự cân xứng hài hòa về ngôn ngữ đã gợi lên cảnh xóm thôn nối tiếp gần xa, đông đúc, trù phú. Trong bóng chiều nhạt nhòa, xóm thôn “trước xóm sau thôn” phủ mờ khói như càng trở nên mơ màng, mênh mang. Khói của sương chiều. Khói lam chiều vấn vương, nhẹ bay trên những mái nhà gianh sau lũy tre làng.

Chỉ bằng 3 nét vẽ rất chọn lọc, lối tả ít mà gợi nhiều của thi pháp cổ, thi sĩ đã làm hiện lên một không gian nghệ thuật về cảnh sắc làng quê một buổi chiều tàn phủ mờ sương khói và ánh tà dương nơi yên bình, êm đềm, nên thơ. Nét vẽ thanh nhẹ.

Cảnh vật bao la, tĩnh lặng. Ngoại cảnh và tâm cảnh đồng hiện. Tưởng như thi sĩ đang thả hồn mình vào cảnh vật, lặng ngắm thôn xóm quê hương gần xa không chán. So sánh “đạm tự yên” (mờ nhạt như không là một hình tượng đầy thi vị. Cả một hồn quê man mác gợi cảm):

“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,

Bán vô, bán hữu tịch dương biên

(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,

Bóng chiều man mác có dường không).

Hai câu cuối là cảnh sắc đồng quê rất dân dã, bình dị, thân thuộc mà đáng yêu. Trên những nẻo đường quê, đàn trâu nối đuôi nhau về thôn. Có âm thanh tiếng sáo mục đồng cất lên, âm thanh réo rắt, hồn nhiên, thanh bình của làng quê ta xưa nay. Có từng đôi, từng đôi cò trắng bay liệng, nối tiếp nhau hạ xuống đồng. Nhà thơ không nói đến màu xanh và hương lúa mà người đọc vẫn cảm nhận được.

Ngôn ngữ thơ, hình tượng thơ đầy gợi thanh và màu sắc, thanh tao và dào dạt sức sống. Bút pháp điểm nhãn, lấy động để tả tĩnh của tác giả được thể hiện một cách nhiều ấn tượng về bức tranh đồng quê này:

“Mục đồng địch lí ngưu quy tận”

Bạch lộ song song phi hạ điền

(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).

Tình quê và hồn quê chan hòa, dào dạt. Thiên Trường thuở ấy, đường sá rầm rập ngựa xe, có biết bao cung điện của vua chúa, tôn thất nhà Trần, nhưng Trần Nhân Tông không nói đến lầu son gác tía, bệ ngọc ngai vàng tráng lệ nguy nga, mà chỉ nói đến cảnh sắc thiên nhiên, cảnh vật đồng quê.

Điều đó cho thấy tâm hồn thi sĩ giàu tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Tính bình dị, dân dã, hồn nhiên là cốt cách, là hồn thơ của ông vua anh hùng – thi sĩ này. Cảm nhận ấy càng rõ khi ta đọc bài thơ “Hạnh Thiên Trường hành cung” (Ngự chơi hành cung Thiên Trường):

“Cảnh thanh u, vật cũng thanh u,

Mười mấy châu tiên ấy một châu.

Trăm tiếng đàn chim, dàn nhạc hát,

Nghìn hàng đám quýt, đám quân hầu.

Trăng vô sự chiếu người vô sự,

Nước có thu lồng Trời có thu.

Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng,

Độ xưa so với độ này thua”

Cảnh buổi chiều được nói đến trong bài ”Hạnh Thiên Trường hành cung” là cảnh chiều thu, đó là điều ai cũng rõ. Trong bài “Thiên Trường vãn vọng” là cảnh chiều xuân hay chiều thu? Rất khó xác định. Ta chỉ cảm nhận được đó là một buổi chiều êm đềm, xóm thôn phủ mờ sương khói tà dương.

Không gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật đồng hiện cho ta khẳng định: Trần Nhân Tông viết “Thiên Trường vãn vọng” sau năm 1288, khi giặc Nguyên – Mông đã bị nhân dân ta đánh bại, nước Đại Việt thanh bình, yên vui.

Bài tứ tuyệt “Thiên Trường vãn vọng” là một bức tranh quê đậm nhạt, mờ sáng, rất đẹp và tràn đầy sức sống. Một bút pháp nghệ thuật cổ điển tài hoa. Một tâm hồn thanh cao, yêu đời. Tình yêu thiên nhiên, yêu đồng quê xứ sở đã được thể hiện bằng một số hình tượng đậm đà, ấm áp qua những nét vẽ tinh tế, gợi hình, gợi cảm, giàu liên tưởng.

Kì diệu thay, bài thơ đã vượt qua một hành trình trên bảy trăm năm, đọc lên, nó vẫn cho ta nhiều thú vị. Ta vẫn cảm thấy cánh cò trắng được nói đến trong bài thơ vẫn còn bay trong ráng chiều đồng quê, và còn chấp chới trong hồn ta. Thơ đích thực là thế!

Xem thêm 💛 Thơ Hồ Xuân Hương 💛 Tác Giả, Tác Phẩm, Tuyển Tập Thơ Nổi Tiếng

Phân Tích Nhan Đề Thiên Trường Vãn Vọng Ngắn

Bài thơ “Thiên Trường vãn vọng” của Trần Nhân Tông đặt ra một khung cảnh tĩnh lặng, trữ tình trong buổi chiều tà tại Thiên Trường, quê hương của tác giả. Nhan đề của bài thơ không chỉ là một tên gọi đơn thuần, mà còn là một bức tranh mở ra với những tưởng tượng và cảm xúc sâu sắc của tác giả.

Chính với việc “vãn vọng,” Trần Nhân Tông đã tạo ra một không gian lý tưởng cho người đọc để hiểu về quê hương, về những ký ức, cảm xúc, và tình cảm đậm sâu của mình. Buổi chiều tà mang theo một sự yên bình, hòa mình vào cảnh đẹp của Thiên Trường, như là một hành trình tâm hồn trở về nguồn gốc.

Thời gian buổi chiều tà cũng như một dịp để tác giả có thể nhìn lại, nhìn sâu vào bản thân mình và những điều đã qua. Từ đó, người đọc cảm nhận được không khí trầm lắng, những nỗi nhớ, lòng tri ân, và tình cảm trữ tình đặc biệt dành cho quê hương.

Chính với những cảm xúc này, nhan đề “Thiên Trường vãn vọng” không chỉ là tên gọi, mà còn là lời mời người đọc cùng chia sẻ những cảm xúc tinh tế và sâu sắc về quê hương Việt Nam. Bài thơ “Thiên Trường vãn vọng” của Trần Nhân Tông không chỉ là một tác phẩm thơ, mà còn là một cảm xúc, một chân dung tinh tế về quê hương.

Nhan đề ngắn gọn nhưng giàu ý nghĩa đã tạo nên một bức tranh hòa mình trong vẻ đẹp bình dị và tâm hồn trữ tình của người làm thơ. Buổi chiều tà tại Thiên Trường không chỉ là một khung cảnh mà còn là một khoảnh khắc tĩnh lặng, nơi mà tâm hồn tác giả trở về để ngắm nhìn, để ôm trọn cảm xúc và kỷ niệm.

Hành động “vãn vọng” không chỉ là việc nhìn xa, mà còn là hành trình của tâm hồn, nơi tác giả lắng nghe những giọt nước lặng lẽ, những làn gió êm đềm của quê hương. Nhan đề “Thiên Trường vãn vọng” chính là cánh cửa mở ra không gian tâm hồn của Trần Nhân Tông, là lời mời cho người đọc hòa mình vào khung cảnh hữu tình và thư thái.

Từ bức tranh của bài thơ, chúng ta nhận ra rằng, sự gắn bó với quê hương không chỉ là một đề tài mà còn là một tình yêu trân trọng và sâu sắc, được tác giả truyền đạt một cách tinh tế và chân thành.

Chia sẻ bạn đọc 👉 Thơ Xuân Quỳnh Về Tình Yêu

Phân Tích Thiên Trường Vãn Vọng Lớp 8 Ngắn Nhất

 Trong kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều tác phẩm với các đề tài phong phú như đề tài tình yêu đất nước và niềm tự hào về truyền thống oai hùng của dân tộc, tình yêu đôi lứa hay còn có những bài văn, bài thơ nói về tình yêu thiên nhiên, vạn vật của quê hương.

Bài thơ “Thiên Trường vãn vọng” của Trần Nhân Tông là một trong những bài thơ nổi bật miêu tả khung cảnh làng quê, từ đó nói lên tình cảm sâu sắc của tác giả với quê hương của mình. 

Nhân dịp về thăm quê cũ tại phủ Thiên Trường, Trần Nhân Tông bồi hồi xúc động gửi gắm nỗi nhớ, tình yêu của mình ngay từ lời thơ đầu tiên:

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên

Bán vô bán hữu tịch dương biên

Cảnh vật tựa khói lồng, mơ hồ, dường như không có. Phải chăng đó là cảnh vật lúc chiều tàn. Khung cảnh xóm làng dưới làn sương nửa thực nửa ảo tạo nên nét đẹp mơ màng, yên bình của chốn xưa cũ. Tác giả cảm nhận ánh chiều tà như chốn bồng lai nửa có nửa không – “bán vô bán hữu”.

Không gian cảnh vật qua cái nhìn của tác giả gợi cho ta nét buồn man mác về một làng quê im lìm, tĩnh mịch. Tác giả tiếp tục cảm nhận nét đẹp bình dị của làng quê với cái nhìn tinh tế:

Mục đồng địch lí ngưu quy tận

Bạch lộ song song phi há điền.

Trần Nhân Tông không chỉ dùng thị giác để tận hưởng cảnh vật mà ông còn dùng thính giác để nghe tiếng sáo vẳng “mục đồng địch lí”. Những chú trâu đang gặm cỏ vểnh tai nghe tiếng sáo gọi trở về. Những chú cò trắng chao liệng trên bầu trời rồi sà xuống đồng khiến không gian bớt đi phần tĩnh mịch. Hai câu thơ đầu hình ảnh cảnh vật heo hút, cô quạnh thì   âm thanh trong trẻo cùng những cánh cò trắng từng đôi liệng ở hai câu thơ tiếp theo khiến khung cảnh làng quê trở nên sống động.

Quả thật tác giả thật khéo léo khi chỉ bằng hai câu thơ trong trẻo, bình dị mà đã đưa hương sắc, cảnh vật yên bình, êm dịu của làng quê hòa tan vào tâm hồn người đọc, khiến con người trở nên hài hòa, gần gũi với thiên nhiên.

 Bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, sự kết hợp tài ba giữa tiểu đối và điệp ngữ cùng ngôn từ giàu tính biểu cảm, tác giả đã họa lên bức tranh làng quê đẹp đẽ khiến ai cũng muốn trở về và chính tác giả, người có tình yêu thương dạt dào, sâu nặng với quê hương.

Chia sẻ tuyển tập 🌸Thơ Chúc Mừng Sinh Nhật Bác Hồ ❤️️ Chùm Thơ Hay Nhất

Mẫu Văn 8 Phân Tích Bài Thơ Thiên Trường Vãn Vọng Ấn Tượng

Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, đã lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng hai cuộc xâm lược của quân Nguyên và khôi phục lại nền kinh tế, văn hóa Đại Việt. Chiến tranh qua đi, ông có dịp đến thăm phủ Thiên Trường và ngắm nhìn cảnh vật nơi đây.

Vì thế mà “Thiên Trường vãn vọng” ra đời. Bài thơ đã thể hiện cái nhìn nâng niu, trân trọng cảnh sắc thiên nhiên và cảnh sinh hoạt của người dân khi đất nước đang thái bình.

“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,

Bán vô bán hữu tịch dương biên”.

Từ hành cung của vua, ông đã nhìn thấy cảnh cả thôn xóm đang chìm trong màn sương mờ ảo, lảng bảng, khiến cho cảnh vật trở nên không rõ ràng, nửa như có, nửa như không.  Khói tác giả thấy có thể là sương mù do thời tiết, cũng có thể là khói bốc lên từ những mái bếp đang thổi cơm chiều.

Ý thơ này như đang muốn miêu tả cuộc sống yên bình, dưới những nóc nhà yên tĩnh là bữa cơm ngon ngọt, quây quần chứ không còn cảnh nheo nhóc, đau thương nữa. Ánh “tịch dương” cuối ngày chiếu vào nơi ấy càng làm cho mọi thứ như hư ảo hơn, như lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh.

Cảnh đẹp thanh bình, dung dị này được miêu tả qua việc sử dụng cấu trúc đối xứng, biện pháp tiểu đối kết hợp với điệp từ “thôn hậu – thôn tiền”, “bán vô – bán hữu”. Chính điều này tạo nên sự cân xứng, hài hòa và uyển chuyển cho câu thơ. 

“Mục đồng địch lí quy ngưu tận,

Bạch lộ song song phi hạ điền”.

Hai câu thơ cuối gợi khung cảnh trở nên sinh động nhờ xuất hiện âm thanh và hoạt động của sự vật. Tiếng sáo gọi trâu về văng vẳng cùng màu trắng của cánh cò, màu xanh của cánh đồng, màu xám của khói chiều khiến người đứng ngắm cảnh cảm giác thư thái, nhẹ nhàng.

Tác giả đã chuyển điểm nhìn từ thôn xóm ra cánh đồng rộng lớn, thoáng đãng hơn. Nơi đó có lũ trẻ mục đồng, có đàn cò trắng bay xuống cánh đồng để bắt đầu một buổi kiếm ăn. Thiên nhiên và con người trở nên thân thiết, hòa hợp đến lạ lùng. Hình ảnh “cò trắng từng đôi liệng xuống đồng” làm cho không gian được mở ra, thoáng đãng, cao rộng, trong sạch, yên ả hơn.

Hình ảnh những chú trâu đủng đỉnh, chậm rãi, vắt vẻo trên lưng là mục đồng như gợi tiếng reo vui về một đất nước thanh bình sau bao nhiêu tháng ngày bị giặc ngoại xâm giày xéo. Bức tranh này không chỉ làm nổi bật sự êm ả của làng quê mà “từng đôi cò trắng” còn thể hiện sự sinh sôi nảy nở.

Cuộc sống nhẹ nhàng, đầm ấm của những gia đình trong làng quê nhỏ bé, chân chất, chính là sự phát triển bền vững của một đất nước, một dân tộc bởi gia đình chính là tế bào của xã hội.

Cảnh tượng buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh tượng vùng quê trầm lặng mà không đìu hiu. Ở đây vẫn ánh lên sự sống con người trong sự hòa hợp với cảnh vật thiên nhiên một cách nên thơ, chứng tỏ tác giả là con người tuy có địa vị tối cao nhưng vẫn gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã. Những tình cảm của tác giả đối với quê hương được bộc lộ kín đáo: nhà vua rất gần dân chúng, rất yêu dân, yêu chuộng sự thanh bình

Bài thơ được viết theo thể thơ tứ tuyệt có ngôn ngữ hàm súc nhưng tinh tế, đậm chất hội họa. Cảm tưởng như mỗi một từ trong bài thơ đều là một đường bút, vẽ nên bức tranh của làng quê trong buổi chiều tà. Không những thế, nhịp thơ chậm rãi, đều đều cũng khiến người đọc cảm nhận được sự thanh bình, yên ả nơi chốn ấy.

Trong bài có nhiều hình ảnh thơ vừa chân thực, bình dị, gần gũi, vừa giàu ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng. Biện pháp tiểu đối kết hợp với điệp ngữ đầy thú vị, độc đáo, giúp tác phẩm mang đầy tính nghệ thuật. 

“Thiên Trường vãn vọng” là một bài thơ đơn giản, gợi tả cảnh xóm thôn, đồng quê vùng Thiên Trường qua cái nhìn và cảm xúc của Trần Nhân Tông. Thế nhưng ẩn sâu trong đó là niềm yêu quê hương, yêu vẻ đẹp thanh bình, yên ả cùng nhiều triết lí sâu xa của Phật giáo. Thông qua bài thơ, độc giả thế hệ sau có thể nhận thấy bức chân dung của tác giả: một vị vua hiền minh.

Tuyển tập văn mẫu phân tích🌿Bài Thơ Nhớ Rừng [Thế Lữ] 🌿Hay nhất

Cảm Nhận Về Bài Thơ Thiên Trường Vãn Vọng Hay

Trong văn học trung đại bên cạnh đề tài thể hiện tình yêu đất nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc thì còn có những bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cảnh vật. Tình cảm đó được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Thiên Trường vãn vọng” của Trần Nhân Tông.

Hai câu thơ đầu tiên tả thời điểm và vị trí khi mà tác giả có mặt:

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên

Bán vô bán hữu tịch dương biên

Đọc câu thơ ta thấy xuất hiện thời gian đó là thời điểm cảnh hoàng hôn. Chọn thời điểm như vậy dường như cũng là một dụng ý của tác giả bởi cảnh vật khi đã hoàng hôn trên thôn quê thì vô cùng vắng lặng hiếm có hình ảnh con người nhưng khi ấy cảnh vật lại đang chuyển giao màu sắc nên cảnh vật sẽ vô cùng phong phú khiến cho thi nhân ngỡ ngàng.

Địa điểm mà tác giả nói đến ở đây chính là trước xóm nhưng lại sau thôn và cảnh tượng ấy như đang chìm dần vào làn khói mờ giăng mắc khiến cho tầm mắt thi nhân khó quan sát hơn. Đó là làn khói từ trong bếp của các ngôi nhà đang chuẩn bị cơm tối.

Hình ảnh này gợi cho chúng ta cảm giác về tình cảm ấm cúng của gia đình, đó là một hình ảnh quen thuộc mà quê hương ai cũng có để rồi đi xa ai cũng nhớ cái hương vị của bếp củi đó. Cụm từ “bán vô bán hữu” nửa như có lại nửa như không có khiến cho chúng ta thấy được khung cảnh ấy vừa thực lại vừa ảo không rõ thực hư.

Mục đồng địch lí ngưu quy tận

Bạch lộ song song phi hạ điền

Âm thanh tiếng sáo làm cho bức tranh trở nên đầy sức sống. Chiều về , ngoài đồng, những con trâu theo tiếng sáo của trẻ con mà về, khung cảnh thật yên bình, đẹp đẽ. Màu trắng của từng đôi cò liệng xuống đồng cũng làm không gian bớt phần quạnh hiu.

Bức tranh được tác giả cảm nhận bằng nhiều giác quan: thị giác – sắc trắng tinh khôi của những cánh cò; thính giác – âm thanh tiếng sao du dương, trầm bổng của những đứa trẻ đi chăn trâu. Nếu như ở hai dòng thơ đầu, cảnh vật tịch mịch, tĩnh lặng không xuất hiện bất cứ chuyển động nào thì đến hai câu thơ cuối khung cảnh trở nên sinh động nhờ xuất hiện âm thanh và hoạt động của sự vật.

Hình ảnh “cò trắng từng đôi liệng xuống đồng” làm cho không gian được mở ra, trở nên thoáng đãng, cao rộng, trong sạch, yên ả. Qua đó còn cho thấy sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên, đem lại cảm giác thân quen, gần gũi.

Cho đến nay bài thơ đã vượt qua rất nhiều những bài thơ viết về quê hương và trở thành bài thơ gây được nhiều ấn tượng lớn trong lòng người đọc. Tác phẩm đã gợi được cái hồn cái cốt cũng như con người của làng quê Việt Nam. Bài thơ sâu sắc nhưng lại vô cùng giản dị thể hiện khí chất của bậc hiền tài.

Giới thiệu thêm đến cho bạn 👉 Thơ Đỗ Phủ

Cảm Nhận Về Bài Thơ Thiên Trường Vãn Vọng Lớp 8 Dài

Nhắc tới Trần Nhân Tông, người ta nghĩ ngay tới người anh hùng cứu nước, vị vua tài trí lỗi lạc đã cùng quân dân nhà Trần đánh bại quân xâm lược Mông Cổ, làm nên một thời đại anh hùng trong lịch sử dân tộc – thời đại Đông A.

Nhắc đến Trần Nhân Tông, người ta cũng nghĩ ngay tới vị tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, nhà hiền triết của Đạo Phật. Trần Nhân Tông không chỉ là người – anh hùng cứu nước, vị vua sáng, nhà hiền triết, Trần Nhân Tông còn là một thi sĩ có tâm hồn thanh cao, phóng thoáng và một cái nhìn tinh tế, tao nhã.

Trần Nhân Tông đã từng nổi tiếng với những câu thơ rất đỗi hào hùng:

Xã tắc hai phen chồn ngựa đá

Non sông nghìn thuở vững âu vàng.

(Tức sự)

Và nhà vua còn làm người đời ngạc nhiên hơn bởi một hồn thơ mang nặng tình quê thắm thiết. Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra (Thiên trường vãn vọng) là một hồn thơ như thế.

Từ Thăng Long về thăm quê cũ Thiên Trường (Nam Định ngày nay), từ trên cung điện ở phủ Thiên Trường, nhà vua phóng tầm mắt ra xa. Một cảnh tượng mở ra trước mắt ông xiết bao trìu mến:

Trước xóm sau thôn tựa khói lồng

Bóng chiều man mác có dường không

Mục đồng sáo vẳng trâu về hết

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.

(Bản dịch của Ngô Tất Tố)

Cảnh buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh của một vùng quê trầm lặng, yên bình (Cái yên bình của một cuộc sống thái bình). Trời đã về lúc chiều tối, thôn xóm chìm dần vào làn khói sương lãng đãng, mờ ảo. Có lẽ, đó là vào dịp thu đông. Có bóng chiều, sắc chiều đấy nhưng chỉ man mác, chập chờn, nửa như có, nửa như không.

 Cái thời điểm giao thời giữa ngày và đêm ở chốn thôn quê gợi lên bao cảm xúc trong lòng người. Nó bâng khuâng, xao xuyến thật khó tả:

Trước xóm sau thôn tựa khói lồng

Bóng chiều man mác có dường không.

Và vì thế, cuộc sống càng trở nên thân thương. Chỉ một hình ảnh rất bình thường: những đứa trẻ đang dắt trâu về làng, vừa đi, vừa thổi sáo, cũng khiến nhà vua chú ý và đưa vào trong thơ:

Mục đồng sáo vẳng trâu về hết.

Phải chăng tiếng sáo của bọn trẻ đã đưa nhà vua trở lại cái thời thơ ấu ngây thơ, thoả sức vui đùa? Hay tiếng sáo hồn nhiên, trong trẻo quá khiến lòng ông thư thái lại sau bao nhiêu lo toan trăn trở việc triều chính? Trong lòng vị hoàng đế mang một niềm vui tràn ngập, nó cũng bình dị và trong trẻo như chính cuộc sống nơi đây.

Tâm trạng ấy khiến ông thấy cảnh vật càng nên thơ:

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.

Trên nền xanh của đồng nội, trong cái mờ ảo của khói sương, điểm xuyết vài cánh cò trắng đang là là hạ xuống. Chao ôi, cánh đồng quê sao mà đẹp thế!

Hai câu thơ cuối với bút pháp miêu tả bằng những nét chấm phá, đã vẽ ra trước mắt người đọc cả một vùng quê yên bình và thơ mộng. Con người và cuộc sống ở đây bình dị quá, hồn hậu quá! Bức tranh cảnh vật với những nét chấm phá tài hoa của thi nhân trở nên thật có hồn: có âm thanh ngọt ngào, sâu lắng; có sắc màu tao nhã, sáng trong, có hoạt động nhẹ nhàng êm ả… Một bức tranh thôn dã được cảm nhận bằng một tâm hồn thi nhân tinh tế và nhạy cảm; hơn nữa, bằng tâm hồn của một con người thiết tha yêu làng quê, yêu cuộc sống.

Ít ai có thể nghĩ được rằng, một vị vua ở tận nơi lầu son gác tía, lại gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã như vậy. Vì thế, càng đọc kĩ bài thơ, ta càng hiểu được cái tình quê, tình người lai láng đậm đà trong tâm hồn một bậc vĩ nhân, càng thêm quý trọng và mến phục ông.

Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, thật xứng đáng là một áng thơ hay, tiêu biểu cho bản sắc và tâm hồn Việt Nam.

Tìm hiểu thêm về ❤️️Thơ Lưu Quang Vũ ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay

Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Thiên Trường Vãn Vọng Chi Tiết

Trần Nhân Tông, người vua tài năng, dẫn dắt đất nước vượt qua khó khăn, khôi phục nền văn hóa, kinh tế Đại Việt. Sau những thăng trầm của chiến tranh, ông đến Thiên Trường, hòa mình vào vẻ đẹp tự nhiên và sinh hoạt bình dị của người dân trong bức tranh thơ “Thiên Trường vãn vọng”. Bài thơ ghi lại cái nhìn kính trọng đối với thiên nhiên và cuộc sống bình yên khi đất nước trở lại thời kỳ thái bình.

“Làng thôn sau hậu trước yên bình tự nhiên,

Bán vô bán hữu ánh chiều buông sương mờ.”

Từ hành cung cao quý, ông tận hưởng bức tranh xao lạc của làng quê bên dòng sông, nơi màn sương nhẹ nhàng, làm mờ đi ranh giới giữa thôn xóm, tạo nên không gian huyền bí. Khói bếp chiều lên như là khói sương chiều dịu dàng.

Ý thơ muốn truyền đạt hình ảnh cuộc sống tĩnh lặng, nơi mỗi mái nhà là nơi ấm cúng, hạnh phúc. Ánh chiều tà cuối ngày tô điểm cho cảnh đẹp như tranh, khiến cuộc sống trở nên như cổ tích. Cấu trúc đối xứng, tiểu đối và điệp từ như “thôn hậu – thôn tiền”, “bán vô – bán hữu” giúp tạo nên sự hài hòa, uyển chuyển cho bức tranh thơ.

“Trâu dắt cày, ngưu vác đồ quanh đồng,

Đường lá bạch lộ, đồng hạ phơi nắng”.

Hai câu thơ cuối hòa mình vào âm thanh và hoạt động của thiên nhiên, tạo nên bức tranh sống động. Tiếng sáo trẻ chăn trâu vang lên kết hợp với hình ảnh trẻ mục đồng, cùng đàn cò trắng bay xuống cánh đồng tạo nên bức tranh hòa quyện. Màu trắng của cò, màu xanh của đồng, và màu xám của khói chiều làm cho cảnh đẹp trở nên thư thái và nhẹ nhàng.

Tác giả chuyển tâm trạng của người đọc từ làng quê ra cánh đồng rộng lớn, tạo nên không gian thoải mái và bình yên hơn. Mọi thứ như được làm mới, làm sạch, làm tươi mới.

Hình ảnh trâu cày và ngưu vác đồ trên đồng là biểu tượng của sự lao động chăm chỉ, hòa mình vào cuộc sống bình yên sau những ngày chiến tranh. Cảnh đẹp yên bình này là biểu tượng cho sự phục hồi của đất nước và lòng yêu thương của nhà vua đối với cảnh đồng quê.

Buổi chiều tại phủ Thiên Trường là một hình ảnh quê hương yên bình và thanh bình mà không hề làm đau lòng. Tác giả vẫn giữ vững tình cảm gắn bó với quê hương thôn dã.

Bức tranh hòa mình trong thiên nhiên bình yên là sự chứng nhận cho tình cảm chân thành của tác giả. Dù có vị thế cao quý nhưng tác giả vẫn giữ nguyên tâm hồn mộc mạc, trung thực, yêu quê hương mình.

Bài thơ viết theo thể thơ tứ tuyệt, ngôn ngữ hàm súc nhưng tinh tế, tạo nên bức tranh hội họa về làng quê trong buổi chiều tà. Mỗi từ như một đường bút vẽ, đưa người đọc đắm chìm trong không gian yên bình, thư thái.

Nhịp thơ chậm rãi, đều đều làm tôn lên sự thanh bình và yên ả của nơi ấy. Hình ảnh thơ chân thực, gần gũi, giàu ý nghĩa tượng trưng. Biện pháp tiểu đối kết hợp với điệp ngữ độc đáo, thú vị, tạo nên tác phẩm nghệ thuật.

“Thiên Trường vãn vọng” đơn giản nhưng gợi lên cảnh xóm thôn, đồng quê của vùng Thiên Trường qua cái nhìn và cảm xúc của Trần Nhân Tông.

Tác phẩm không chỉ là hình ảnh yên bình mà còn là bức chân dung của một vị vua hiền minh, niềm tự hào của quê hương. Bài thơ ẩn chứa nhiều triết lí sâu xa của Phật giáo, là bức tranh thơ đầy tình cảm với đất nước.

Bạn đọc hiểu bài 🌿Tiếng Gà Trưa [Xuân Quỳnh] 🌿 Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích

Viết một bình luận