20+ Mẫu Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ (Lớp 11)

Tổng hợp những mẫu văn viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ hay, đặc sắc nhất để giúp các em học sinh lớp 11 có thêm nhiều tư liệu ôn tập.

NỘI DUNG CHÍNH

Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Là Gì?

Nghị luận về một tác phẩm thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của mình về nội dung và nghệ thuật về bài thơ ấy. Qua đó, người viết làm rõ được tư tưởng, phong cách nghệ thuật của bài thơ, đồng thời thể hiện những cảm xúc thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật mà bài thơ gợi lên.

Hướng dẫn 👉 Viết Bài Văn Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Văn Học 👉 tác phẩm thơ

Các Chủ Đề Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Lớp 11

Khi viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ, có nhiều chủ đề khác nhau mà người viết có thể tập trung vào. Dưới đây là một số chủ đề phổ biến:

  • Chủ đề về nội dung và ý nghĩa của bài thơ: tình yêu, thiên nhiên, cuộc sống con người,…
  • Chủ đề về nghệ thuật và phong cách thơ: Ngôn ngữ và hình ảnh, các biện pháp nghệ thuật sử dụng như ẩn dụ, nhân hóa. Hoặc đánh giá phong cách viết đặc trưng của nhà thơ,..
  • Nêu lên cảm nhận cá nhân về tác phẩm thơ: Trình bày những cảm xúc, suy nghĩ và liên tưởng cá nhân khi đọc bài thơ. Đây là phần người viết thể hiện sự đồng cảm và những liên hệ sâu sắc với tác phẩm.
  • Chủ đề về bối cảnh sáng tác và ảnh hưởng: Đánh giá tác động của bối cảnh lịch sử, xã hội đến nội dung và phong cách của bài thơ.

Cách Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ

Nếu bạn chưa biết các viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ bắt đầu từ đâu? Đừng lo, Thohay.vn sẽ hướng dẫn với các bước cụ thể sau đây:

  • Bước 1: Đầu tiên, bạn cần đọc và hiểu rõ nội dung và ý nghĩa của đoạn thơ mà bạn muốn phân tích. Tìm hiểu chủ đề, tình cảm hay ý tưởng mà đoạn thơ muốn truyền tải.
  • Bước 2: Tiếp theo, bạn cần phân tích cách tác giả sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh để tạo ra hiệu ứng. Lưu ý các từ ngữ, từ loại, câu trúc, phong cách, các hình ảnh, tượng trưng và so sánh mà tác giả sử dụng trong đoạn thơ.
  • Bước 3: Bạn cần phân tích đoạn thơ để xác định tầm quan trọng của nó trong bài thơ. Đoạn thơ đó có liên quan đến chủ đề chính của bài thơ không? Nó có đóng góp vào phát triển tình tiết hay nhân vật trong bài thơ không? Nó có giúp tạo ra hiệu ứng cảm xúc hay hình ảnh sắc nét không?
  • Bước 4: So sánh và đưa ra nhận định: Cuối cùng, bạn cần so sánh đoạn thơ với các phần khác trong bài thơ để đưa ra nhận định. Bạn cần phân tích những điểm tương đồng và khác biệt giữa đoạn thơ và các phần khác trong bài thơ. Từ đó, bạn có thể đưa ra nhận định về tầm quan trọng của đoạn thơ và tác động của nó đến bài thơ như thế nào.

Xem thêm 👉 Viết Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Văn Học 

Dàn Ý Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ

Tham khảo mẫu dàn ý viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ chi tiết sau đây để có thể làm bài văn logic, đầy đủ ý nhất.

I. Mở bài

– Giới thiệu sơ lược về tác giả: tên tuổi, bút danh, vị trí trong nền văn học, chủ đề sáng tác, phong cách sáng tác, những đóng góp của tác giả đối với phong trào văn học, giai đoạn văn học và nền văn học dân tộc.

– Giới thiệu tổng quát về bài thơ: hoàn cảnh xuất xứ, đại ý, nội dung chính của đoạn thơ/bài thơ. Dẫn vào đoạn thơ, bài thơ cần phân tích: trích lại bài thơ (nếu ngắn) còn khổ thơ thì phải ghi lại tất cả.

II. Thân bài

– Khái quát về vị trí trích đoạn hoặc bố cục, mạch cảm xúc chủ đạo của khổ thơ, bài thơ.

– Giới thiệu vấn đề nghị luận và phương hướng nghị luận.

– Phân tích bài thơ/đoạn thơ: trích thơ rồi lần lượt phân tích những từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ, v.v…. trong từng câu thơ, giải mã đúng từ ngữ, hình ảnh đó để giúp người đọc cảm thấy được những cái hay, cái đặc sắc về nội dung, nghệ thuật cảu bài thơ.

Lưu ý: Nên phân tích từ nghệ thuật đến nội dung, khi phân tích phải dựa vào từ ngữ có trong bài thơ, hoàn cảnh ra đời, phong cách sáng tác của tác giả để tránh suy diễn miên man, không chính xác, cụ thể:

– Nhận xét đánh giá bài thơ:

+ Đánh giá về nội dung, tư tưởng của bài thơ. (Nét đặc sắc về nội dung của bài thơ là gì? Thành công/hạn chế?)

+ Đánh giá về nghệ thuật. (Thành công/hạn chế?)

+ Đánh giá về phong cách tác giả. (Qua bài thơ em thấy tác giả là người như thế nào; có thể nói thêm những đặc điểm về phong cách nghệ thuật và đóng góp của nhà thơ trên văn đàn lúc bấy giờ).

III. Kết bài

+ Khẳng định lại toàn bộ giá trị về nội dung, nghệ thuật của bài thơ.

+ Liên hệ bản thân và cuộc sống (nếu có).

Đọc thêm cách 👉 Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ

20+ Mẫu Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Lớp 11 Ngắn Hay

Tuyển chọn những mẫu viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ hay nhất để giúp các em học sinh lớp 11 có thêm tài liệu tham khảo đa dạng và học hỏi, trau dồi thêm kĩ năng viết của mình.

Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Của Hàn Mạc Tử Hay Nhất

Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân xếp Hàn Mặc Tử vào nhóm thơ “kì dị” cùng với Chế Lan Viên. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, nhiều bài quả là kì dị. Ông đã tạo ra cho mình “một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái, xa lạ với đời thực”. Tuy vậy, bên cạnh những vần thơ điên loạn, thi sĩ nhiều khi lại sáng tạo nên những hình ảnh tuyệt kĩ và hồn nhiên, trong trẻo lạ thường. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ như thế. Đọc bài thơ, ta thấy được một phương diện rất đẹp của tâm hồn nhà thơ.

Có tài liệu cho rằng bài thơ được gợi hứng từ bức ảnh phong cảnh Huế cùng mấy lời thăm hỏi của Hoàng Cúc, người con gái thôn Vĩ Dạ xứ Huế, cũng là người mà Hàn Mặc Tử đã thầm yêu trộm nhớ ngày xưa. Vì thế bài thơ vừa làm sống dậy những kỉ niệm về Huế mộng và thơ, vừa thể hiện được tâm trạng buồn bã vô vọng, chập chờn, lãng đãng như sương, như khói.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Câu thơ mở đầu này vừa như một câu hỏi, vừa như một lời mời gọi, trong đó hàm chứa cá sự ngạc nhiên lẫn niềm nuối tiếc. Cảnh Vĩ Dạ đẹp thế, hấp dẫn là vậy sao anh không về?

Cảnh thiên nhiên tươi đẹp thôn Vĩ Dạ hiện lên qua một vài nét vẽ thoáng nhẹ, nhưng lại đầy ấn tượng. Cái ấn tượng vốn đã ăn sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ về xứ Huế. Cảnh vật ở đây dường như được sàng lọc qua tâm trí nhà thơ, chỉ giữ lại những đường nét tiêu biểu nhất. Một buổi sáng ở thôn Vĩ, ánh nắng chiếu sáng lấp loáng những hàng cau còn ướt đẫm sương đêm. Hàng cau hiện lên trong một khoảnh khắc đặc biệt, gắn liền với cái ánh nắng mới lên trong trẻo, tinh khôi, cụ thể và gợi cảm.

Tả cảnh vườn cây tươi mát, sum suê, Hàn Mặc Tử chỉ tập trung làm nổi bật cái mướt xanh của lá: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Cảnh vật ấy như sinh động hẳn lên khi thấp thoáng xuất hiện bóng người, một khuôn mặt kín đáo, phúc hậu, dịu dàng:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Thiên nhiên và con người rất hài hòa, gợi lên cái thần thái, cái hồn của Vĩ Dạ, một Vĩ Dạ vốn thơ mộng, vì có “nàng” ở đó, trong những vườn tược, nên lại càng thơ mộng hơn đâu hết. Ở khổ thơ thứ hai, tâm trạng nhà thơ như chuyển hẳn sang một gam khác. Nếu như ở khổ thơ đầu, một Vĩ Dạ với cảnh vật tươi sáng trong trẻo lạ thường thì đến khổ thơ này, một nỗi buồn đã bao phủ lên tất cả. Sự chuyển biến đột ngột từ vui sang buồn như thế khá phổ biến trong Thơ mới và văn chương lãng mạn nói chung:

Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Phải chăng Huế ở khổ thơ đầu là Huế trong kí ức đẹp ngày xưa, còn Huế ở khổ thơ thứ hai là Huế trong tâm trạng của nhà thơ khi trở về hiện tại. Thôn Vĩ Dạ hiện lên vẫn thơ mộng với gió, trăng, mây nước, thuyền bến và hoa bắp lay. Nhưng tất cả đều nhuốm một nỗi buồn. Tâm trạng của người buồn nhìn đâu cũng thấy chia lìa và buồn bã:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Gió mây đã chia lìa đôi ngả, dường như chẳng có quan hệ gì; dòng nước vốn chẳng biết vui buồn cũng trở nên buồn thiu. Hình ảnh hoa bắp lay gợi một nỗi buồn hiu hắt. Một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất, từ gió, mây đến dòng nước và hoa bắp bên sông. Đằng sau những cảnh vật ấy là một tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng.

Giờ đây tất cả chỉ còn trong cõi mộng cả cảnh vật cũng như tình người. Một không gian tràn ngập ánh trăng, một dòng sông trăng, một bến đò trăng, một con thuyền đầy trăng… Cảnh thật thơ mộng nhưng buồn mênh mang:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Nhà thơ như không còn sống với cảnh vật bên ngoài nữa, mà chìm đắm trong cõi lòng riêng của mình. Sông với cảnh mộng và với người trong mộng, Hàn Mặc Tử, ở khổ thơ cuối, như đối thoại trong mơ với một đối tượng hư ảo:

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Hình ảnh của cô gái thôn Vĩ ngày xưa chập chờn trong cõi mộng tạo cho nhà thơ một cảm giác bâng khuâng, ngơ ngẩn. Màu áo trắng của cô gái Huế trắng quá như lẫn vào sương khói. Sương khói của đất trời xứ Huế hay là sương khói của thời gian và không gian xa cách phủ lên một mối tình cũng thật xa vời.

Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi và kết thúc bằng một lời đáp lại. Những lời đáp cũng là một câu hỏi. Phải ai biết tình ai có đậm đà để có thể trở về thăm thôn Vĩ? Hàn Mặc Tử đã mất nhưng bài thơ thôn Vĩ vẫn còn đó. Bài thơ ấy đã vượt qua lớp sương khói của thời gian để bất tử hóa một mối tình tuyệt vọng nhưng rất đỗi thiết tha, trong sáng.

Dành tặng bạn những mẫu văn 👉 Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ 👉 hay nhất

Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Đây Mùa Thu Tới Xuất Sắc

Xuân Diệu được coi là một trong những nhà thơ hiện đại nổi bật. Tác phẩm thơ của ông luôn đặc sắc, sáng tạo với cách sử dụng ngôn từ độc đáo, tinh tế khiến người đọc không thể không bị cuốn hút và say mê. Những ai đã trải nghiệm tác phẩm thơ của ông ít nhất một lần đều khó quên niềm khát khao sống, hoà mình vào thiên nhiên qua từng dòng thơ của tác giả. Bài thơ ‘Đây mùa thu tới’ được Xuân Diệu in trong tập ‘Thơ thơ’. Đây là một trong những tác phẩm ông sáng tác trước Cách mạng, vẫn giữ lại tâm trạng buồn thương đặc trưng của giai đoạn đó.

Ngay từ tiêu đề “Đây mùa thu tới”, độc giả đã cảm nhận được nội dung chính của bài thơ. Ông nói về mùa thu không phải ở giữa hay cuối thu, mà là đúng lúc mùa thu mới bắt đầu, khi đất trời vừa chia tay mùa hè để mùa thu tiến đến. Khi quan sát sự biến đổi của đất trời, Xuân Diệu phát hiện:

“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”.

Hình ảnh đầu tiên khi mùa thu đến là rặng liễu rơi lả. Đối với người thường, rặng liễu đó có lẽ sẽ đẹp đẽ và dễ chịu, nhưng trong bài thơ này, nó trở thành biểu tượng của sự buồn bã, như đang đau đớn trong tình cảnh chia ly, giống như ai đó đang chịu tang, đang trong thời khắc buồn bã. Những cành lá buông xuống được so sánh với giọt lệ tuôn rơi.

Một cảnh tượng đau lòng, như một hình ảnh của một người phụ nữ đang khóc lóc trong bức tranh chia tay. Cảm giác buồn thương được truyền đạt mạnh mẽ khi đọc những dòng thơ này. Hai câu tiếp theo, ông thông báo ‘mùa thu tới mùa thu tới’ với màu sắc nhạt nhòa và lá vàng, tăng cường thêm sự ảm đạm trong bức tranh của mùa thu mới.

Ở khổ thơ này, Xuân Diệu sử dụng ngôn từ nhân hóa để tạo cho mùa thu một diện mạo như con người, biết khóc, biết buồn, biết dệt lá. Qua đó, chúng ta có thể cảm nhận được tâm trạng bi thảm trước cuộc sống của tác giả.

Ở khổ thơ thứ hai, chúng ta càng thấu hiểu hơn khung cảnh u ám của mùa thu. Dưới ánh nhìn nhạy bén, tinh tế nhưng u ám của tác giả, mùa thu mang theo sự chia lìa, khi các loài hoa rơi. Thay vì sắc xanh tươi trẻ của mùa hè, giờ đây màu đỏ chiếm ưu thế và chiếm lấy không gian thu.

Không chỉ vậy, mùa thu mang theo những cơn gió lạnh đầu mùa, làm cho cành lá rung rinh một cách run rẩy, không phải là một cảm giác vui vẻ như mùa hè. Một bức tranh của mùa thu mới đến đầy xơ xác và khô héo được tạo ra với việc sử dụng màu sắc và các điểm nhấn để tạo ra sự hiện hữu của một mùa thu đầy u ám. Cảm nhận được tâm trạng thất vọng, chán chường trước cuộc sống của tác giả.

Ở khổ thơ thứ hai, tác giả thảo luận về sự thay đổi của cả vũ trụ và con người. Tại đây, ông không gọi là ánh trăng, ánh trăng mà gọi là ‘nàng trăng’. Biểu tượng này khiến cho nàng trăng trở nên như một cô gái ngẩn ngơ tiếc nuối trước sự thay đổi của đất trời và thời gian. Trăng thu không sáng vành vạch như mọi khi mà thay vào đó, đôi khi trông như đang mơ mộng hoặc tiếc nuối điều gì.

“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…”

Không chỉ nàng trăng ngẩn ngơ, núi non cũng trở nên mờ nhạt. Mọi thứ dường như trở nên hẻo lánh, mơ hồ khi mùa thu đến. Có những cơn gió lạnh đầu mùa, làm cho cả đất trời và con người trở nên lạnh giá, cảm giác lạnh lẽo. Cảnh đò vốn đông đúc hàng ngày giờ trở nên trống vắng, không còn ai qua sông. Điều này chứng tỏ sức sống của con người cũng trở nên khô cằn, mọi người đều rút lui và ẩn mình. Từ “đã” ở đây được sử dụng để nhấn mạnh rằng mùa thu đã đến thật sự. Mùa thu không còn là sự mới mẻ nữa mà đã bao trùm lên tất cả, cảnh vật và tâm hồn con người.

Qua việc phân tích bài thơ ‘Đây mùa thu tới’ của Xuân Diệu, chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp buồn của mùa thu. Nó không còn là hình ảnh lãng mạn mơ mộng mà đầy sầu bi. Đó chính là tâm trạng của hầu hết các nhà thơ, nhà văn Việt Nam trước Cách mạng tháng 8, khi đất nước còn đau đớn, khi mọi thứ đều trong sự rối bời và cuộc sống con người đang bị chèn ép bởi thế lực đen tối của chủ nghĩa thực dân và phong kiến.

“Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”.

Bài thơ truyền đạt một bức tranh mùa thu buồn qua những cụm từ gợi cảm như “run rẩy”, “ngẩn ngơ”, “đìu hiu”, “mỏng manh”… Những từ này tạo nên một bức tranh thu sinh động, hấp dẫn đối với người đọc. Với thể thơ tự do, tác giả cho thấy tâm hồn mở cửa, không bị ràng buộc trong bất kỳ khuôn mẫu nào. Bài thơ dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ cảm nhận hơn.

Có rất nhiều nhà thơ chọn mùa thu làm đề tài trong tác phẩm của họ. Nếu Nguyễn Khuyến mang lại hình ảnh mùa thu với nỗi buồn hoang vắng, thì ở đây, Xuân Diệu mang lại cảm giác buồn chia li đầy tang thương và sầu muộn. Đó cũng chính là tâm trạng chung của hầu hết các nhà thơ, nhà văn Việt Nam trước Cách mạng tháng 8. Nhưng may mắn, sau Cách mạng, cái nhìn của họ đã trở nên tươi sáng hơn và đầy sức sống. Qua bài thơ ‘Đây mùa thu tới’, chúng ta thêm hiểu biết sâu sắc hơn về vẻ đẹp buồn của một mùa thu trong bốn mùa thiên nhiên đầy thú vị.

Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Hay – Con Đường Mùa Đông

“Xuyên những làn sương gợn sóng
Mảnh trăng mờ do chiếu qua,
Buồn rải ánh vàng lại láng
Lên cánh đồng buồn giăng xa.”

Tác phẩm Con đường mùa đông được tác giả Pushkin sáng tác vào năm 1826. Thời điểm này vào khoảng tháng 12 lúc này các cuộc nổi dậy được phát triển mạnh mẽ. Bị đi đày, nhà thơ vô cùng sợ hãi và lo lắng không hiểu chuyện gì đang xảy ra trước mắt.

Trong giai đoạn đó con đường sự nghiệp của Pushkin chứa đầy những động cơ sâu sắc cùng tình cảm rất đáng lo ngại đối với những người đồng đội của mình. Các nhà viết tiểu sử cho rằng tác phẩm này được viết trong quá trình mà nhà thơ trên hành trình đi thẩm vấn ngài thống đốc Pskov. Chắc hẳn công việc này đối với nhà thơ mang rất nhiều điều sâu sắc và ý nghĩa hơn so với cái nhìn đầu tiên. Nó chứa biết bao triết lý và ẩn dụ.

“Con đường mùa đông” gồm có tất cả là bảy khổ thơ có mối quan hệ chặt chẽ về ý nghĩa. Khổ thơ đầu và khổ thơ cuối được liên kết với nhau bởi một chủ đề chung đó là buồn và chán. Khổ thơ đầu tác giả đã nhắc đến trăng (trăng soi đường) còn ở khổ thơ cuối là (mặt trăng mờ sương) qua đó đã tạo nên bố cục vành khuyên thật độc đáo và đặc sắc.

Đoạn trích này là phần đầu của bài thơ, là sự bộc lộ – khung cảnh đêm mùa đông, một người anh hùng trữ tình – dường như nhân vật trữ tình trong tác phẩm chính là tác giả, một anh hùng xuất hiện trong kế hoạch thứ hai – là người đánh xe ngựa ca một bài hát một bài đượm buồn, thê lương.

Có thể thưởng thức hình ảnh con đường mùa đông theo đúng nghĩa đen của nó, hoặc ta có thể so sánh con đường mùa đông giống với cuộc đời của con người, với cuộc đời của một người anh hùng anh dũng, trữ tình. Con đường mùa đông hiện lên với một khung cảnh vắng vẻ, tẻ nhạt, đơn điệu, chỉ được đánh dấu bởi các đường kẻ sọc.

Nhưng chính những chi tiết ấy lại là toàn bộ biểu tượng, nguồn cảm xúc của tác phẩm. Cuộc đời của người anh hùng trữ tình đối với độc giả, mang những cảm xúc thật thân quen, gần gũi nhưng đối với bản thân anh ta dường như cuộc đời ấy chỉ chứa điều trống rỗng và sự tẻ nhạt. Dặm sọc – là một biểu tượng tiêu biểu của sự biến thiên trong cuộc sống, đó là sự hiện diện của các vạch sọc màu đen và trắng.

“Trên đường mùa đông vắng vẻ
..
Chỉ nhưng cột dài cây số “

Bài thơ mang cảm xúc chủ đạo là nỗi buồn man mác cùng niềm khao khát. Do đó, những cảnh sắc mộng mơ của cánh đồng cỏ buồn, đã được tác giả củng cố qua sự lặp lại của hình ảnh “ánh sáng buồn của mặt trăng.” Cảnh vật chính là sự phản chiếu đúng nỗi lòng, tâm trạng của một người anh hùng trông thật vắng lặng, buồn tẻ và nhạt nhẽo.

Sự nhàm chán đó lướt qua một lượt trên sự đơn điệu của cảnh sắc, trong hồi chuông, trong sự chảy trôi của thời gian đo được, trong những màn so tài sọc vượt qua khung cửa sổ. Sự nhàm chán ấy đã được tác giả truyền tải bằng cách sử dụng dấu câu chấm lửng. Dường như một tia hy vọng nào đó sẽ được trông thấy qua hình tượng người đánh xe ngựa, bài hát mà anh ấy ca, nó thể hiện rõ nét “sự vui chơi liều lĩnh”. Khiến cho cô gợi nhớ về anh hùng của ngày xưa.

“Bên đường sừng sững chào ta

Sương mờ che lấp ánh trăng nghiêng”

Hình ảnh những người thân luôn bên cạnh giúp bạn vơi đi sự chán trường trong suốt quãng đường đi. Người hùng trữ tình đã dũng cảm ngỏ lời với cô ấy, và anh ta hứa rằng họ sẽ sớm được ở bên nhau. Điều đó đã làm dịu bản thân. Làm cho những mạch suy nghĩ về nhân vật nữ chính tên là Nina, một cô gái mộng mơ, trữ tình sẽ tiếp thêm sức mạnh và không cho phép bạn được phát điên.

Các vần chéo được sử dụng một cách chính xác đã khắc họa nên một bức tranh rõ nét, thể hiện đúng nội dung của tác phẩm, nhờ đó đã thành công truyền tải hình ảnh và cảm xúc tới các độc giả. Chiều dài bốn feet chính là một thước đo chính cho bài thơ này.

“Con đường mùa đông” là một bài thơ thuộc thể loại trữ tình và sử thi, vậy nên tác phẩm mang một vẻ đẹp tuyệt vời, đông thời miêu tả khung cảnh con đường mùa đông về đêm thật thơ mộng biết bao, trên bầu trời với đầy những đám mây hiếm hoi vây xung quanh vằng trằn tròn đang tỏa ra thứ ánh sáng đượm buồn. Trong thơ Pushkin, cảnh sắc thiên nhiên bổng trở nên thật sống động và bỗng dưng biến từ một sự phơi bày, tức là việc tả cảnh, trở thành một người anh hùng hành động. Qua đó đã thành công để lại trong lòng độc giả những ấn tượng sâu sắc.

Tham khảo mẫu 👉 Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ

Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Ngắn Nhất – Chiều Tối

Nhật kí trong tù (1942 – 1943) tỏa sáng tâm hồn cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Tâm hồn tha thiết yêu con người, đất nước bao nhiêu thì cũng thiết tha yêu thiên nhiên cuộc sống bấy nhiêu. Tâm hồn ấy trong những tháng ngày tù đày tăm tối luôn hướng về tự do, ánh sáng, sự sống và tương lai. Trên đường bị giải đi trong chiều buồn ở tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc lòng nhà thơ – người tù bỗng ấm lên và phấn chấn vui vẻ trước thiên nhiên đẹp và hình ảnh cuộc sống bình dị ấm cúng. Cảm xúc nhà thơ viết bài thơ Mộ. Bài thơ được sáng tác cuối thu 1942.

Bài thơ có hai bức tranh rõ nét: hai câu đầu là cảnh hoàng hôn, hai câu sau là cảnh sinh hoạt.

Cảnh hoàng hôn trên con đường thanh vắng, thiên nhiên như một hồng thơ đang đón đợi:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.

Bức tranh hoàng hôn đã được xác định thời gian lúc chiều đang trôi chậm và không gian là bầu trời bao la lúc ánh nắng chỉ còn le lói rồi nhường chỗ cho bóng tối lan dần. Phía xa là cánh chim bay mải miết về tổ, trên cao là chòm mây trắng lẻ loi trôi lơ lửng. Thiên nhiên được miêu tả với vài nét chấm phá nhưng đã gợi ra khung cảnh bát ngát, trong sáng êm đềm của hoàng hôn vùng rừng núi. Thiên nhiên có vẻ đẹp trong trẻo, thơ mộng nhưng quạnh quẽ đượm buồn. Vẻ đẹp ấy rung cảm bởi tâm hồn xao xuyến yêu thương của Bác.

Hai câu thơ sử dụng bút pháp chấm phá miêu tả, nhất là cách sử dụng thi liệu mang đậm sắc cổ điển: lấy cánh chim biểu tượng cho hoàng hôn, còn hoàng hôn thì biểu tượng cho nỗi buồn, nhất là đối với người tha hương càng gợi thêm nỗi buồn xa xứ, lòng thương nhớ cố hương, Thôi Hiệu viết:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

(Hoàng Hạc lâu)

Và người đi trên đường xa trong cảnh hoàng hôn ấy dễ cảm thấy cô đơn và chạnh lòng.

Bài thơ có cách cảm thụ thế giới quen thuộc của thơ xưa, thiên nhiên như đồng cảm với tâm sự của con người. Hình ảnh con chim sau một ngày kiếm ăn vất vả như ẩn dụ hình ảnh người tù mỏi mệt sau một ngày đường bị áp giải. Chòm mây buồn như ẩn dụ tâm trạng cô đơn buồn bã của tù nhân.

Tứ thơ cổ điển mà vẫn hiện đại, vì thiên nhiên với con người có sự đồng cảm chứ không đồng nhất. Thiên nhiên mệt mỏi còn có chốn nghỉ, cô đơn mà được tự do, còn người tù không biết đi về đâu và mất tự do không biết đến bao giờ. Nên nhà thơ đang khao khát tự do và một mái ấm gia đình. Tả cảnh mà chứa tình, hàm ý sâu xa, đó là vẻ đẹp hàm súc dư ba của thơ cổ điển.

Tóm lại, hai câu thơ gợi tả cảnh thiên nhiên đẹp mà buồn, vì ‘‘người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Buồn vì xa Tổ quốc, buồn vì bị bắt tù oan, buồn vì mất tự do không biết đến bao giờ. Nhưng trước vẻ đẹp của cảnh ấy lòng người ít nhiều cũng tìm được niềm vui thư thái.

Điểm đặc sắc nghệ thuật của bài thơ là chỉ miêu tả không gian với hai hình ảnh đang vận động: cánh chim bay và chòm mây trôi nhưng diễn tả được sự luân chuyển của thời gian: chiều đang trôi chầm chậm về đêm.

Không gian thay đổi, khung cảnh sinh hoạt của một bản làng miền núi được mở ra một cách tự nhiên:

Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng

Hai câu thơ sử dụng bút pháp điểm nhãn của thơ cổ điển, nhưng hình ảnh thơ bình dị, chân thực lại được ghi bởi bút pháp hiện thực. Hình ảnh cô gái mải miết xay ngô và xay xong bên lò lửa rực hồng gợi bức tranh đời sống có vẻ đẹp bình dị, ấm cúng, yên vui. Riêng đối với người tù mệt mỏi, mất tự do thì cảnh ấy trở nên vô cùng hấp dẫn, quý giá, thiêng liêng, vì nó lệ thuộc về thế giới tự do.

Chỉ có ai đã từng trải qua những cánh đời đau khổ đầy giông bão mới thấy hết giá trị của từng phút giây cảnh đời bình yên. Do đó bức tranh đời sống trở thành nguồn thơ dạt dào, thể hiện niềm xao xuyến, sự rung động mãnh liệt hồn thơ.

Lò lửa hồng là hình ảnh nổi bật trung tâm của bức tranh thơ, làm nổi rõ hình ảnh của cô gái. Nó sưởi ấm bức tranh thiên nhiên hiu hắt. lạnh lẽo và sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Vậy là, hình ảnh cuộc sống con người là điểm hội tụ vẻ đẹp bài thơ, tỏa sáng ánh và hơi ấm xung quanh. Hình ảnh lò lửa hừng hực đặt bên cạnh cô gái tạo ra vẻ đẹp trẻ trung, đầy sức sống của cảnh thơ. Hoàng Trung Thông cho rằng chữ hồng là nhãn tự của bài thơ là vì vậy. Ý thơ cuối khỏe, đẹp bộc lộ niềm vui, lòng yêu đời, yêu cuộc sống. tinh thần lạc quan của Bác.

Như vậy hai câu thơ là sự quan sát của người đi đường nhưng là cái nhìn của người đang khao khát tìm về cuộc sống bình yên giản dị. Thế nên khi bắt gặp hình ảnh cuộc sống con người giữa miền sơn cước, tình yêu và niềm vui đã tràn ngập cõi lòng. Không phải ngoại cảnh tác động đến con người mà chính cảm xúc của con người trùm lên ngoại cảnh. Thiên nhiên đẹp nhưng chưa đủ mang đến niềm vui. Cuộc sống đẹp đã mang đến niềm vui chan chứa. Điều ấy đã thể hiện phẩm chất nhân văn cao đẹp của nhà thơ.

Xem thêm tác phẩm 👉 Chiều Tối [Hồ Chí Minh]

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Nâng Cao – Chiều Xuân

Nhắc đến nhà thơ Anh Thơ người độc giả lại nhớ về hình ảnh một nữ thi sĩ tiêu biểu của phong trào thơ Việt Nam hiện đại. Tuổi thơ êm đềm đã từng gắn liền với đồng ruộng cánh cò quê hương sớm chiều mưa hay nắng, chính điều này là nền tảng khơi nguồn cho dòng suối cảm xúc thơ trong bà với phong cách thơ bình dị mà sâu sắc qua từng câu chữ, qua bao hình ảnh của cảnh sắc nông thôn quê hương nhẹ nhàng được gợi tả một cách khéo léo.

Càng ấn tượng hơn khi bà đến với thơ ca như con đường giải thoát khỏi cuộc đời tù túng, buồn tẻ và tự khẳng định giá trị người phụ nữ trong xã hội đương thời. Tập thơ “bức tranh quê” đầu tiên ra đời chan chứa những gì mộc mạc và dung dị, đặc biệt qua bài thơ “chiều xuân”, một bức tranh về cảnh mây trời tắt nắng trong sắc xuân tươi đẹp.

Những cơn mưa xuân đặc trưng nơi miền Bắc là những cơn mưa bụi li ti rơi nhẹ tắm mát cho chồi non ngọn cỏ thêm xanh tươi, mưa xuất hiện trong dòng thơ đầu tiên rất đỗi lặng lẽ trên bến đò vắng, cảnh vật thoáng buồn và chút tĩnh lặng, thêm cái lạnh của tâm hồn bằng sự trống trải:

“Mưa bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi”

Từng giọt mưa mãi rơi hững hờ và “êm êm” trước mắt nhà thơ. Từ láy gợi tả hình ảnh những giọt mưa rơi nhẹ điểm xuyết cho khung cảnh, không ồn ào vồn vã hay nặng hạt mà có chút gì như chầm chậm theo từng khoảnh khắc thời gian. Bến sông thì thưa khách đi đò chiều, vắng mênh mông, không gian rộng hơn và sự trống trải lan tỏa vào tâm hồn.

Con đò nhỏ sau một ngày làm việc chở khách ngược xuôi trên dòng sông quê hương bây giờ nằm đây và lắng vào phút giây nghỉ ngơi, mạn đò lung lay theo sóng nhỏ, vô tình trôi bềnh bồng theo nước sông. Như thế đấy ta có cảm giác nhịp mưa rơi nhịp sóng vỗ nhẹ nhịp đò trôi hòa theo nhau tạo nên bức tranh giản dị nhưng sâu lắng bao cảm xúc. Ánh mắt nhà thơ chuyển hướng và cũng bắt gặp sự yên tĩnh đang bao trùm:

“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”

Quán tranh được nhà thơ nhân hóa qua động từ “đứng”. Không chỉ là “đứng” mà là “đứng im lìm” và “trong vắng lặng”, từ láy nối tiếp động từ như nhân thêm sự trống vắng không chỉ riêng bến sông gây hiệu ứng mạnh trong khổ thơ.Nơi quán tranh này là trung tâm của hoang vắng và xơ xác khi ngày sắp kết thúc.

Hoa tím rụng “tơi bời” vào những phút cuối của ngày dài. Dường như không chỉ con người mệt mỏi mà vạn vật cũng rã rời, trút bỏ tàn dư cuối cùng.Thời gian thì cứ mỗi phút trôi qua mang theo sự rộn ràng hối hả của ban ngày và thay thế là chiếc áo khá buồn tẻ vì cô đơn và vắng lặng khắp nơi.Khổ thơ thứ hai hiện lên bằng những hình ảnh được thu gọn vào tầm mắt nhà thơ:

“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ”

Đường đê rộng đôi bờ chạy dài và mơn mởn bao ngọn cỏ xanh tươi, màu sắc của câu thơ chính là màu “biếc” của cỏ. Ngòi bút nhà thơ tạo những nét chấm phá màu sắc khá đẹp, cảnh thoáng buồn của khổ một bây giờ như được dung hòa lại bằng chính màu sắc của sự sống dù chỉ là ngọn cỏ.

Đến đây không gian bớt đi màu tàn phai nhường chỗ cho màu biếc rạng rỡ, cái tĩnh lặng cũng tan dần theo tiếng vỗ cánh của đàn chim sáo đen đang sà xuống. Chúng vô tư như những đứa trẻ nghịch trên đồng qua cách miêu tả tinh tế “mổ vu vơ”.

Không phải “mổ vu vơ” mà thực ra chúng đang mổ những con mồi bé nhỏ nhưng trong mắt nhà thơ hình ảnh đó khá là dễ thương và mang cảm giác thanh bình hạnh phúc vì cuộc sống tự do và khoáng đạt. Không dừng lại bấy nhiêu đó, hình ảnh tiếp theo mang lại cho độc giả cái nhìn hơi ngỡ ngàng vì những điều bình dị mà không bao nhiêu người cảm nhận được:

“Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”

Gió lướt qua thổi mát khung cảnh và không ít lần làm nghiêng nghiêng cánh bướm, khả năng dùng từ láy khá là phong phú “rập rờn”, nhà thơ miêu tả cái cách chú bướm nhỏ muốn bay nhưng không sao vượt qua sức ép của cơn gió nên đôi cánh kia cứ mãi chao đi chao lại theo làn gió thổi. Động từ “trôi” càng tô đậm thêm hình ảnh cánh bướm nhỏ bị cơn gió kia hững hờ mang đi.

Từng đợt gió đến rồi đi và tiếp tục thổi cho cánh bướm mãi “rập rờn” chao nghiêng. Thấp hơn cánh bướm là những chú trâu bò đang từ tốn nhai cỏ non một cách “thong thả”, chậm rãi như tận hưởng hạnh phúc. Mưa vẫn còn rơi và vương hạt mưa lên ngọn cỏ cho ta cảm giác trâu bò đang thưởng thức chính “mưa”. Nhịp thơ không nhanh mà theo nhịp hoạt động của muôn vật.

Đây là khoảng thời gian mọi thứ trở nên lắng đọng và chầm chậm trôi xua đi mỏi mệt dần tan biến. Đến khổ thơ cuối cùng của bài thơ, không gian mở rộng khắp phía và làm hoàn chỉnh bức tranh “chiều xuân” thơ mộng của thi sĩ Anh thơ:

“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.”

Quê hương tươi đẹp bởi những cánh đồng xanh rì ngọn lúa rung rinh xào xạc theo đợt gió thổi về, còn thấm đẫm những giọt mưa bụi lất phất. Lũ cò con lông trắng là hình ảnh gắn liền với ruộng đồng, với bầu trời thôn quê, với cơn gió mát chiều về, nghịch ngợm bay ra vội vàng hối hả làm xao động cả góc trời, chúng tung cánh tự do phiêu lãng và vô tình làm giật mình một cô gái nông thôn đang cần mẫn làm việc bởi âm thanh bay lên của những đôi cánh.

Cô gái trong câu thơ vẫn chăm chỉ làm nốt những công việc cuối cùng của ngày sắp tàn và cũng là những gì hiện lên trước mắt nhà thơ sau chót. Khung cảnh thanh bình tràn đầy sức sống, hoạt động của muôn vật đã xây dựng nên nhịp sống vui tươi nơi đây dù thời gian trôi gần hết ngày.

Nghệ thuật sử dụng từ ngữ, khéo léo dùng ngòi bút của mình vẽ nên những hình ảnh bình dị nhưng thật ấm áp và chan chứa vẻ đẹp cuộc sống, bên cạnh đó theo dòng thơ mạch cảm xúc của người đọc được dâng lên và nhờ đó ta cảm nhận sâu nhất tình cảm cảm xúc của nhà thơ, đây chính là thành công khẳng định giá trị của bài thơ.

Đôi lúc nhịp thơ chầm chậm nhẹ nhàng sâu lắng đôi lúc lại mang đến cảm giác rộn ràng và vui vẻ, cả bài thơ như bài nhạc muôn giai điệu phong phú làm rung động trái tim suy nghĩ của người đọc bài thơ. Tấm lòng yêu thơ ca và yêu những gì thân thuộc giản dị của quê hương cùng tài năng là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên thành công của bài thơ “Chiều xuân”.

Xem thêm cách 👉 Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Truyện Kể

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Ngắn Hay – Trao Duyên

Đại thi hào Nguyễn Du là một trong những cây bút sáng chói đóng góp cho dòng chảy văn học nước nhà những bước chuyển mình vàng son. Tác phẩm làm nên tên tuổi của Nguyễn Du là tập truyện viết bằng chữ Nôm “Đoạn trường tân thanh”. Hay còn gọi ngắn gọn bằng cái tên “Truyện Kiều”.

Đoạn trích “Trao duyên” là một trong những đoạn tiêu biểu trong tập truyện. Thể hiện sự dằn vặt, nỗi lòng đau đớn của nàng Kiều khi buộc phải bán mình chuộc cha. Đành nhờ cô em Thúy Vân trả nghĩa cho chàng Kim Trọng.

Mở đầu câu chuyện bằng lời Thúy Kiều nhờ cậy của mình với em:

Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Ngay từ đầu, Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều ở vị trí phía dưới. Trái ngược với cách xưng hô “chị, em”. Từ “cậy” đặt ở đầu câu gợi tả tình thế tiến thoái lưỡng nan. Chẳng còn cách nào khác, lại thật khó khăn để có thể nhờ vả.

Thúy Kiều bắt đầu bày tỏ nỗi lòng mình với em gái bằng những lời chua xót, đau đớn:

Giữa đường đứt gánh tương tư

Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Đến đây, người đọc bỗng hiểu ra cái nhờ cậy ban đầu của Thúy Kiều thực ra là một lời phó thác, buộc Thúy Vân phải chấp nhận. Với thân phận là chị gái, chị cả trong nhà, Kiều cảm thấy mình phải có trách nhiệm giúp đỡ gia đình qua cơn hoạn nạn. Nàng chấp nhận bán mình chuộc cha, vì chữ hiếu quên thân.

Kiều thủ thỉ tâm sự với Vân về mối tình nồng thắm của minh với chàng Kim:

Kể từ khi gặp chàng Kim

Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Câu thơ thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều khi nhớ lại những kỉ niệm mùi mẫn còn dang dở giữa mình và Kim Trọng. Đối với nàng, mối tình với Kim Trọng là những kỉ niệm lứa đôi đẹp nhất. Nhưng đối với Thúy Vân, đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ.

Không những thế, Kiều còn thể hiện sự khéo léo, tinh tế khi lựa lời đề cập đến hoàn cảnh của Vân để cất lời nhờ em:

Ngày xuân em hãy còn dài

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

Xét về tình, Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em đều đang độ tuổi cập kê. Kiều đã lấy cái cớ đó để nhờ cậy em nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Xét về lý, tình ruột rà máu mủ cũng là một lý do hợp lý để Thúy Vân có trách nhiệm thực hiện những mong muốn dở dang của chị.

Trao cho em những vật đính ước. Kiều thủ thỉ tâm tình với em những lời chân thành nhất:

Chiếc vành với bức tờ mây

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền. Những kỉ vật của mối tình đầu thanh thuần, ngây thơ. Nhìn những kỉ vật ấy, lòng người con gái sao tránh khỏi bồi hồi, nhớ nhung. Câu nói có một chút con gái, một chút ích kỉ nhưng cũng dễ hiểu thôi. Chẳng cô gái nào muốn san sẻ tình yêu của mình với ai khác.

Trao lại kỉ vật cho em nhưng tâm hồn Kiều vẫn không thể nguôi ngoai, thật tâm vẫn chưa hề quên đi Kim Trọng:

Mai sau dù có bao giờ

Rưới xin chén nước cho người thác oan.

Lời nói mang một sự đau lòng não nề, Kiều tự coi mình là kẻ đoản mệnh. Những câu từ thể hiện Kiều đã ở một thế giới khác, không thể trở về với cuộc sống bình thường, không được đoàn tụ với gia đình.

Người con gái tuổi mới mười tám đã nghĩ đến cái chết bi kịch, cái chết oan khuất, bế tắc. Nhưng bản thân người con gái ấy lại chỉ mong mỏi được thanh thản. Có thể giũ bỏ hết tình duyên dương thế. Đau xót thay cho một số phận tài sắc vẹn toàn nhưng sớm rơi vào lam lũ, bi kịch. Chấp nhận bán mình chuộc cha nhưng vẫn nghĩ đến nghĩa tình, thề hẹn.

Tâm sự với em, Thúy Kiều cũng không quên gửi lời tới Kim Trọng với những dòng tâm trạng tha thiết:

Bây giờ trâm gãy gương tan,

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.

Tâm sự với Kim Trọng nhưng thực chất, Kiều chỉ được độc thoại với chính mình. Vì người nàng yêu đang ở phương xa, đâu hay biết gì tình thế của nàng hiện tại.

Đoạn trích “Trao duyên” đã khái quát một cách sâu sắc nhất những cung bậc cảm xúc của Thúy Kiều khi buộc phải rời xa người yêu. Đành trao duyên lại nhờ cậy em gái tiếp tục lời hứa với Kim Trọng. Một người phụ nữ yêu hết mình, thủy chung da diết. Lại khéo léo, sắc sảo nhưng bạc mệnh, long đong.

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Hay Đặc Sắc – Tôi Yêu Em

Tình yêu luôn là đề tài bất diệt với thi ca. Mỗi thi sĩ đều có một cái nhìn riêng, đặc biệt về những cung bậc khi yêu. Chúng ta biết đến Xuân Diệu là “ông hoàng thơ tình” với những vần thơ nồng nàn, cháy bỏng, mãnh liệt. Đối với nền văn học Nga thì Puskin được xem là “mặt trời thi ca Nga” với những áng thơ bất hủ về tình yêu. Bài thơ “Tôi yêu em” là một điệp khúc tình yêu với những cung bậc thương nhớ da diết khi yêu. Một bài thơ tình gieo vào lòng người nhiều thổn thức, nhiều mong nhớ và nhiều nuối tiếc cho câu chuyện tình đơn phương của tác giả.

Có thể nói “Tôi yêu em” là lời giãi bày tình cảm một cách chân thành và mãnh liệt nhất, đó là tiếng nói con tim, tiếng gọi của những rung động tha thiết và sâu sắc nhất.

Bài thơ với câu chữ bình dị, gần gũi mà sâu vào trái tim người đọc những xốn xang và dư âm còn mãi.

Tôi yêu em đến nay chừng có thể
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai

Một câu thơ cất lên bình dị, chân thành như chính tấm lòng và trái tim của tác giả dành cho người mình yêu thương. Lời thơ chậm rãi, đều đều như có chút gì đó ngượng ngùng, chưa mang ý nghĩa khẳng định. Những từ ngữ “chừng có thể”, “chưa hẳn” dường như còn vương chút gì đó chưa dứt khoát. Có lẽ bởi tác giả sợ lời tỏ tình của mình suồng sã quá khiến cho người ta sợ. Tuy nhiên dù chưa dứt khoát nhưng cũng đã phần nào bộc lộ được tình yêu say mê đã từ lâu lắm rồi, đó là một quá trình yêu và thương có thời gian chứ không hề bồng bột.

Tuy nhiên đến hai câu thơ sau, giọng thơ đột nhiên thay đổi:

Nhưng không để em bận lòng thêm nữa
Hay hồn em phải gợn bóng u hoài.

Mặc dù tình cảm trong trái tim “tôi” đã rõ nhưng nhân vật trữ tình lại không muốn làm khó đối phương, không muốn để cho đối phương phải khó xử. Đó cũng chính là một trái tim đầy lí trí. Hai câu thơ đầu và hai câu thơ sau được ngắt ra bởi từ “nhưng” vừa có vẻ vô tình nhưng lại phần nào thể hiện sự dứt khoát hơn hết. Nhân vật “tôi” tự ý thức được bản thân mình, dù có chịu ấm ức cũng chịu “không để em phải bận lòng thêm nữa”.

Tuy nhiên lúc này nhân vật trữ tình đang trăn trở và thấy chua xót, không biết rằng tâm trạng của người kia như thế nào. Một trái tim đa sầu đa cảm nhưng là một trái tim biết nghĩ cho người khác. Trái tim ấy thật đáng quý và đáng trân trọng biết bao nhiêu. Cảm xúc ở những câu thơ đầu bị dồn nén, không được thoát ra bên ngoài mà trở nên bức bối hơn.

Ở 4 câu thơ sau bỗng nhiên cảm xúc vỡ òa, tràn ra. Có lẽ cảm xúc trong tình yêu không còn giữ kín, không còn bó buộc trong trái tim chật chội nữa. Đã đến lúc nó bật tung ra. Và cụm từ “tôi yêu em” lại được điệp lại một lần nữa càng khẳng định hơn nữa tình yêu mà chàng trai dành cho cô gái:

Tôi yêu em âm thầm không hi vong
Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen
Tôi yêu em, yêu chân thành đằm thắm
Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.

Vẫn là tình yêu ấy nhưng giờ nó được tràn ra, nhân vật “tôi” đã giãi bày thành lời. Rằng tình yêu này “thầm lặng”, “không hi vọng” nhưng đó là tình yêu “chân thành”, “đằm thắm”. Nhịp thơ trở nên nhanh và dồn dập hơn, tình yêu cũng trở nên cồn cào và da diết hơn.

Câu thơ cuối được coi là “điểm nhãn” của cả bài thơ, cũng như là “điểm nhãn” trong trái tim của nhân vật “tôi”. Một cách nói vừa thể hiện sự vị tha khi yêu vừa thể hiện sự thông minh và khéo léo trong cách thổ lộ tình cảm. Ý thơ “cầu em được người tình như tôi đã yêu em” thật sâu sắc. Phải chăng nhân vật trữ tình đang tự khẳng định lại tình yêu của mình dành cho “em” là quá lớn và quá chân thành.

Dù tình yêu “âm thầm” không được đền đáp nhưng nhân vật trữ tình vẫn yêu chân thành và yêu tha thiết. Không đòi hỏi điều gì, không hi vọng bất cứ một điều gì. Một thứ tình yêu cao cả và vĩ đại. Tuy nhiên trong tình yêu vẫn luôn có những cung bậc, lúc dịu dàng, đằm thắm, lúc ghen tuông, lúc hờn dỗi. Đó như những nốt trầm bổng tạo nên một bản hợp xướng tuyệt vời trong tình yêu, hay nói cách khác đó chính là gia vị khi yêu không thể thiếu được.

Puskin với một trái tim sống và yêu hết mình đã viết lên những vần thơ vừa bình dị, gần gũi, vừa đằm thắm mượt mà. Những vần thơ chạm đến trái tim của người đọc một cách dữ dội như vậy. “Tôi yêu em” là một bài thơ tình bất hủ, với đầy đủ cung bậc khi yêu đã khiến người nghe có những cảm nhận thật tinh tế và sâu sắc nhất.

Chia sẻ đến bạn những bài văn mẫu về 👉 Phân Tích Một Tác Phẩm Truyện 

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Ấn Tượng – Sóng

Xuân Quỳnh là nữ thi sĩ tài hoa của nền văn học Việt Nam, với tư duy mới mẻ, phóng khoáng của mình, bà đã thổi 1 luồng gió mới vào kho tàng thơ văn. Nổi bật trong những sáng tác của của bà là bài thơ Sóng).

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Tính từ trái nghĩa “dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ” thể hiện những thái cực đối lập của con sóng. Đó cũng là những tâm trạng khác nhau của người con gái trong tình yêu.

Mượn hình ảnh dòng sông không hiểu chính mình nên tìm ra biển khơi rộng lớn tìm câu trả lời để bóng gió nói về tâm tư của người con gái trong tình yêu luôn trăn trở nhiều điều và có ước muốn lớn lao là khám phá được những băn khoăn đó.

“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”

Con sóng: ngàn năm vẫn thế, vẫn tính chất, đặc điểm ấy không bao giờ thay đổi.

Người con gái: khát vọng tình yêu luôn thường trực, rạo rực; bao nhiêu năm vẫn hướng về tình yêu, về người yêu.

“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?”

Trước biển lớn, người con gái suy tư về tình yêu của mình. Câu hỏi tu từ: “Từ nơi nào sóng lên?” là suy nghĩ của cô gái về cội nguồn của tình yêu.

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Tự vấn về nguồn gốc của con sóng: sóng bắt đầu từ gió còn gió bắt đầu từ đâu thì không lí giải được. Sự lí giải, cắt nghĩa về cội nguồn của sóng dẫn đến cắt nghĩa cội nguồn của tình yêu. Tình yêu đầy bí ẩn không thể giải thích được cội nguồn của nó, thời điểm mà nó bắt đầu.

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Tâm trạng nhớ nhung da diết, khắc khoải của con sóng, dù con sóng ở bất cứ nơi nào vẫn chỉ nhớ về bờ, hướng về ngày ngày đêm đêm cho đến khi vào được đến bờ.

Người con gái luôn một lòng một dạ hướng về người mình yêu thương, nhấn mạnh nỗi nhớ triền miên luôn thường trực. Nỗi nhớ ấy theo họ cả vào trong mộng, sống trong giấc mơ của họ. Đó không chỉ là tấm lòng thủy chung sâu sắc của người con gái mà còn là khao khát tình yêu, được thể hiện yêu thương với người yêu của mình.

“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”

“Dẫu…” lặp cấu trúc khẳng định dứt khoát nỗi nhớ và niềm tin tuyệt đối vào tình yêu. Dù cho đi đến bất cứ nơi nào thì trong lòng người con gái ấy cũng luôn hướng về người yêu vì trong tim cô người yêu là phương hướng duy nhất dẫn lối cho cô vượt qua mọi khoảng cách, mọi khó khăn.

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Con sóng dù ở ngoài khơi xa thế nào, dù khó khăn thế nào cũng vẫn tìm được đến bến bờ. Người con gái dù đa sầu đa cảm, suy tư trăn trở thế nào cuối cùng rồi cũng sẽ được hạnh phúc.

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Người con gái ấy còn nhiều lo lắng, trăn trở: năm tháng còn rất dài, biển kia bao la đến đâu nhưng liệu có đủ sức để giữ những đám mây ở lại bên mình mãi mãi?

Người con gái dù có yêu nhiều đến đâu, có khao khát nhiều đến đâu nhưng liệu có giữ được người yêu, được tình yêu này ở lại cùng mình và vẫn vẹn nguyên như lúc đầu?

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Khi con sóng tan ra thành những bọt nước nhỏ sẽ được ở lại với biển khơi mãi mãi, sẽ không còn những đau khổ, những lo lắng. Đó cũng là ước muốn của người con gái, khao khát được sống với tình yêu, với người mình yêu thương trọn đời trọn kiếp. Mượn nét tương đồng của con sóng để diễn tả nội tâm của người con gái trong tình yêu giúp bạn đọc dễ hình dung ra và có những liên tưởng thú vị.

Sóng là bài thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh và của thơ ca Việt Nam hiện đại viết về đề tài tình yêu. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị ban đầu và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.

Xem thêm viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ 🌼 Sóng 🌼 của Xuân Quỳnh

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Chọn Lọc – Nguyệt Cầm

Bài thơ Nguyệt Cầm của Xuân Diệu là một tác phẩm văn chương nổi tiếng trong thời kỳ thơ ca lãng mạn ở Việt Nam, xuất hiện trong giai đoạn từ 1930 đến 1945. Trong thời kỳ này, văn chương Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ thi pháp thơ tượng trưng của Pháp, tạo nên một thế giới vừa thống nhất trong tình âm u, vừa huyền bí độc đáo. Trong đó nổi bật nhất là hình ảnh ánh trăng, một đề tài phổ biến và quen thuộc.

Tuy ánh trăng là một đề tài đã được khai thác nhiều lần trong văn chương, nhưng Xuân Diệu đã thể hiện một cách sáng tạo và độc đáo thông qua bài thơ “Nguyệt Cầm”. Ông không chỉ tìm kiếm một khía cạnh mới để khám phá, mà còn kết hợp hình ảnh trăng với một đối tượng khác hoàn toàn không liên quan, đó chính là cây đàn cầm. Kết quả là một tác phẩm độc đáo và thành công mang tên “Nguyệt Cầm”.

Bài thơ Nguyệt Cầm của Xuân Diệu thể hiện những cảm xúc và tình cảm trữ tình, đậm chất lãng mạn, đặc biệt là những ẩn ý của cảm xúc đó được thể hiện thông qua hình ảnh mới lạ của nguyệt cầm. Từ tiêu đề của bài thơ, ta có thể liên tưởng đến sự hòa quyện của ánh trăng trong bản nhạc của người nghệ sĩ, tạo ra không chỉ khung cảnh tuyệt đẹp mà còn âm thanh du dương, quyến rũ, hấp dẫn người đọc.

Bài thơ bắt đầu bằng việc mở ra không gian của một đêm trăng, với ánh trăng nhập vào “cung nguyệt” và tạo nên sự lạnh lẽo. Xuân Diệu tạo ra một hình ảnh sự tiếp xúc giữa ánh trăng và cây đàn cầm thông qua động từ “nhập”, tạo nên sức ám ảnh mạnh mẽ, tạo ra sự hợp nhất giữa hai yếu tố này. Sự hợp nhất đó tạo ra sự choáng ngợp và cảm giác hơi lạnh len lỏi trong tâm trí, như được mô tả trong dòng cảm nhận “Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh”.

Câu thơ tiếp theo “Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần” cho thấy vầng trăng không chỉ là một hiện tượng thiên nhiên mà còn như một con người, có cảm xúc thương nhớ. Cung đàn cũng được miêu tả là u uất, lặng lẽ trong giai điệu “Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm”, tạo ra hình ảnh của một chuyện tình buồn. Câu thơ tiếp theo “Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân” mô tả ánh trăng rơi xuống như những giọt lệ sầu thương, sử dụng âm thanh để tái hiện hình ảnh này.

Trong các khổ thơ tiếp theo, Xuân Diệu mô tả không gian đêm trăng là không gian của mùa thu với không gian “mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh”. Ánh sáng của vầng trăng trên bầu trời mang đến sự lung linh, tạo nên sự rung động cho người đón nhận. Tác giả kết nối âm thanh của cây đàn cầm với hình ảnh này, tạo nên sự hòa quyện và cảm xúc đặc biệt.

Trong cách viết của Xuân Diệu, bài thơ “Nguyệt Cầm” tạo nên một không gian tưởng tượng đầy huyền bí và cảm xúc trữ tình. Nhà thơ sử dụng hình ảnh trăng và cây đàn cầm để tạo ra sự giao hòa giữa âm thanh và hình ảnh, giữa không gian và cảm nhận. Hình ảnh ánh trăng lạnh lẽo và giọt lệ ngân của nó tạo nên một khung cảnh u buồn và đầy xúc động. Âm thanh của cây đàn cầm được miêu tả như một âm nhạc đầy u uất và đắm say, gợi lên những cảm xúc sâu sắc và những kỷ niệm đau thương.

Từ việc kết hợp hai yếu tố khác nhau là trăng và cây đàn cầm, Xuân Diệu đã tạo ra một tác phẩm độc đáo và tinh tế, cho thấy sự tài năng và tầm nhìn sáng tạo của mình. Bài thơ Nguyệt Cầm không chỉ đơn thuần là một bài thơ về trăng, mà còn là một tác phẩm nghệ thuật sâu sắc và lôi cuốn. Nó thể hiện sự kết hợp tinh tế giữa âm thanh và hình ảnh để tái hiện những cảm xúc trữ tình và huyền bí của tác giả.

Đón đọc thêm mẫu viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ 👉 Nguyệt Cầm [Xuân Diệu]

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Đặc Sắc Nhất – Tình Ca Ban Mai

Tình ca ban mai” của nhà thơ Chế Lân Viên là một bản nhạc cảm động, vang lên giai điệu ngọt ngào, nhẹ nhàng giữa âm hưởng của vô số bản tình ca.

Ngay tựa đề của bài thơ là “Tình ca ban mai” đã gợi cho người đọc sự ngọt ngào sâu lắng và rất nhẹ nhàng. Có lẽ đây không chỉ là một bài thơ mà là một bài hát nói về tình yêu tuổi trẻ nồng nàn, tràn đầy sức sống và đam mê cháy bỏng. Phải chăng “Tình Ca Ban Mai” là bản nhạc du dương từ một trái tim tràn ngập yêu thương, một tình yêu hồn nhiên, một trái tim tin tưởng và trong sáng, nồng nàn như buổi sáng? Một tình yêu chung thủy và đẹp đẽ sẽ yêu say đắm mãi mãi?

Bóng dáng nhà thơ Chế Lan Viên ẩn sau những vần thơ chân thật của một người đang yêu:

“Em đi như chiều đi,
Gọi chim vườn bay hết”

Sự vận động không còn chỉ về em nữa mà nó đã lan rộng ra khắp cảnh vật. Em bước đi “như chiều đi” và chim ngoài vườn “đều bay hết”. Em “đánh cắp” trái tim anh và làm cho anh cứ nhớ nhung em. Những lời nói đó thật khắc khoải nhưng lại đầy tình yêu thương. “Em đi – như chiều đi.” Em là ánh sáng, là hơi thở, là trung tâm của cuộc sống. Khi em ra đi, chỉ còn nỗi cô đơn vây quanh tâm hồn anh. Ngay từ lời thơ đầu tiên, có thể nói rằng tác giả đã cho biết về vai trò và sức mạnh quan trọng của “em” đối với anh như thế nào. Anh không biết khi nào nhưng hình ảnh em đã in sâu vào tâm trí và trái tim anh.

“Em về, tựa mai về,
Rừng non xanh lộc biếc”

Ở khổ thơ thứ hai, nỗi buồn và sự cô đơn không còn tồn tại. Bởi vì em đã “trở lại”. Có em, lòng anh bỗng trở nên thật vui vẻ, em mang đến sức sống tươi mới và những bông hoa cho cảnh vật. Không còn nỗi buồn hay sự bồn chồn nào nữa, tất cả nỗi nhớ trong anh được hòa quyện với niềm vui vô bờ bến.

“Em ở, trời chưa ở,
Nắng sáng màu xanh che”

Trong mắt người đang yêu, từ lúc “em về” đến lúc “em ở”, mọi thứ dường như tươi đẹp và đều trở nên bừng sáng lên. Em dường như là ánh sáng rực rỡ nhất trên thế giới, xua tan những đêm tối tăm. “Màu xanh che” của “nắng sáng” là cảnh thường thấy, nhưng từ khi em đến với anh, mọi thứ trở nên đẹp đẽ và thanh tao biết bao.

“Tình em như sao khuya
Rải hạt vàng chi chít”

Đã không chỉ là “em” bây giờ đã trở thành “tình em” mà tình yêu của em cũng nồng nàn, chân thành, kiên cường và thủy chung như “sao khuya”. Dù chỉ là một chấm sáng nhỏ xíu như “rải hạt vàng chi chít”, anh cũng có thể cảm nhận được tình yêu sâu đậm của em dành cho anh. Điều đặc biệt ở đây là Chế Lan Viên không hề so sánh “Tình Em” với hình tượng “Vầng Trăng”. Có lẽ vì trăng dù sáng đến mấy cũng có lúc tối. Còn cánh đồng sao bạt ngàn sao chi chít, dày đặc rộng lớn kia đêm nào cũng nhấp nháy khiến bầu trời rộng lớn trở nên lấp lánh.

“Sợ gì chim bay đi,
Mang bóng chiều bay hết”

Tác giả đặt hai chữ “sợ gì” ở đầu câu thơ như thể quyết tâm lấy hết can đảm để thổ lộ với một điều gì đó.

“Tình ta như lộc biếc
Gọi ban mai lại về
Dù nắng trưa không ở
Ta vẫn còn sao khuya”

Càng cố quên em, anh lại càng nhớ em. Càng muốn buông bỏ và phớt lờ tầm quan trọng của em, anh càng nhận ra em quan trọng như thế nào. Trong khi bốn khổ thơ trước chỉ có xuất hiện “em” và “tình em” thì bốn khổ thơ tiếp theo lại thể hiện sự thay đổi rõ rệt khi tác giả đưa câu chuyện tình yêu tiến thêm một bước cao hơn thế này là “tình ta”. Bây giờ tình yêu chung của chúng ta đã trở thành một và được hợp nhất, có cả anh và em.

Niềm tin vào tình yêu của chúng ta đã tạo nên một niềm tin mãnh liệt xua tan nỗi sợ hãi, lo lắng. Tình yêu nồng nàn, hòa hợp của đôi ta sẽ giúp chúng ta vượt qua tất cả, chạm tới ánh bình minh và tràn ngập “rải hạt vàng chi chít”.

“Hạnh phúc trên đầu ta,
Rải hạt vàng chi chít”

Câu thơ cuối cùng được tác giả tách ra thành một khổ riêng biệt:

“Mai, hoa em lại về”

Tác giả đặt một dấu phẩy sau từ “mai”, dường như đó là động lực đằng sau niềm tin vững vàng của anh. Và có lẽ chỉ có nhà thơ Chế Lan Viên mới quyết định nói “Hoa Em” thật đẹp, khôn ngoan và xuất sắc như vậy.

Với tài năng bẩm sinh của thơ về chủ đề tình yêu với bút pháp nghệ thuật được vận dụng tài tình, kết cấu câu thơ ăn khớp, hài hòa… Chế Lan Viên đã tạo nên một “Tình ca ban mai” độc đáo, đáng nhớ và đầy ấn tượng.

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Dài Hay – Gai

Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến khi bàn luận về thơ Mai Văn Phấn đã viết rằng: “Nếu có một nhà thơ nào đó đang luôn tự đổi mới thơ mình và phá vỡ các nhịp nhiệu mòn cũ trong các thể nghiệm thơ hôm nay, theo tôi, người đó phải là Mai Văn Phấn.” Thơ của Mai Văn Phấn là như vậy, luôn có những đặc điểm riêng khiến người ta vừa đọc một lần đã ghi nhớ. Bài thơ “Gai” của ông cũng là một trong những tác phẩm như vậy.

Ngay từ tựa đề, “Gai” đã gợi ra cho chúng ta nhiều những suy nghĩ, những liên tưởng thật ấn tượng. Gai là biểu tượng cho sự gai góc, cứng rắn, mạnh mẽ của con người. Còn đối với tác phẩm “Gai” của tác giả Mai Văn Phấn, tác giả đã tập trung vào miêu tả những chiếc gai của loài hoa hồng. Hoa hồng đẹp, kiêu hãnh là vậy nhưng lại được bao bọc xung quanh bởi gai nhọn. Gai nhọn tua tủa đâm ra khiến con người ta phải rỉ máu mỗi khi chạm vào hoa hồng. Thế nhưng, vượt qua được những khó khăn, đau đớn ấy thì con người mới có thể giữ được vẻ đẹp của hoa hồng cho riêng mình.

Sớm
Hái bông hoa hồng
Chiều
Gai cào mộng mị

Không gian như được vẽ ra với hai không gian tương phản, đối lập với nhau là thời gian sáng và tối. Hai không gian tương phản như tương trưng cho những điều mà người nghệ sĩ cống hiến cho cuộc đời nghệ thuật của mình. “Hái hoa hồng” là ẩn dụ cho những thành công, những giải thưởng mà người nghệ sĩ đạt được trong cuộc sống của họ. Là những điều mà người đời nhìn thấy được khi nói về họ.

Nhưng ẩn đằng sau những hào quang rực rỡ ấy, người nghệ sĩ đã phải nếm trải biết bao nhiêu đắng cay, khổ cực, thậm chí là cả những lúc phải đánh đổi bằng máu và nước mắt để đạt được thành công ấy. Nếu như buổi sáng là thời gian để họ tỏa sáng, thì khi trời đã tối là thời gian để họ rèn luyện mình đạt được những thành công đó. Sáng tạo nghệ thuật là cả một quá trình cần sự cố gắng không ngừng nghỉ.

Các nhà văn, nhà thơ không những chỉ tìm nguồn cảm hứng cho thơ của mình, mà còn phải không ngừng trau dồi vốn tuwgf vựng, vốn tri thức của mình. Thế nhưng, những trái ngọt mà họ gặt hái được là không thể phủ nhận.

Sẹo
Lên xanh biếc thế
Gai
Trong hồn đơm hoa

Những vết sẹo được tạo nên bởi gai nhọn không chỉ làm cho con người đau đớn, mà còn ngược lại làm con người càng ngày trở nên mạnh mẽ, gai góc để đối diện với cuộc đời sóng gió ngoài kia. Những chiếc gai của con người sẽ mọc lên từ những vết sẹo ấy của bản thân mình. Những chiếc gai ấy không chỉ có công dụng làm đau người khác, mà còn để bảo vệ vẻ đẹp của bông hoa ấy. Gai từ trong cành và cũng trong hồn đơm ra hoa.

Bài thơ sử dụng những hình ảnh ẩn dụ nhiều tầng bậc, ngôn ngữ giàu sức gợi đặc biệt là thể thơ tự do, ngắt nhịp linh hoạt, độc đáo, một số các từ ngữ như sớm, chiều, sẹo, gai được ngắt riêng thành từng câu thơ gợi ra chiêm nghiệm độc đáo trong lòng độc giả. Bài thơ khá tiêu biểu cho những nét đặc trưng trong thơ của Mai Văn Phấn, hồn thơ rộng mở, khoáng đạt và có nhiều tầng bậc ý nghĩa về cuộc sống.

Có thể nói rằng bài thơ “Gai” đã cho chúng ta thấy được chân thật những đặc điểm nổi bật của thơ ca Mai Văn Phấn. Tác phẩm cũng trở thành một trong những tác phẩm nổi bật của thơ ca hiện đại Việt Nam.

Hướng dẫn 👉 Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Truyện 👉 tác phẩm thơ nổi tiếng

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Đầy Đủ Ý – Thời Gian

Trong bài thơ “Thời gian” của Văn Cao, hình ảnh về sự đọng ẩn “ở bề sâu” chứa đựng một sự phức tạp và tinh tế, đồng thời làm nổi bật tính ẩn dụ và triết học của tác phẩm.

Một cách hình ảnh phổ biến là sự “đọng ở bề sâu” như một bí mật, một điều gì đó không thể lấy mắt thường mà xem, làm cho người đọc tò mò và muốn khám phá thêm về sâu thẳm của tác phẩm. Điều này có thể tượng trưng cho những cảm xúc, suy nghĩ sâu sắc, không thể diễn đạt hoặc hiểu rõ bằng những từ ngữ thông thường. Tác giả sử dụng hình ảnh này để mô tả tính chất phức tạp và không thể lường trước của thời gian và tình yêu.

Hàm súc trong từng vần thơ thể hiện sự chín muồi của tư tưởng và cảm xúc. Những từ ngữ được chọn cẩn thận, không chỉ mô tả thời gian như một lực lượng vô hình và mạnh mẽ mà còn làm cho người đọc trải nghiệm được cảm giác sâu sắc của tác giả đối với những khía cạnh khó lường của cuộc sống.

Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
Kỷ niệm trong tôi
rơi
như tiếng sỏi
trong lòng giếng cạn.
Riêng những câu thơ
còn xanh
Riêng những bài hát
còn xanh
Và đôi mắt em
như hai giếng nước

Bài thơ của Văn Cao không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là một dòng suy tư sâu sắc về thời gian và cuộc sống. Bài thơ được chia thành hai phần, tạo ra một cấu trúc tương phản giữa đầu bài và kết bài, thể hiện sự biến động và không ngừng chuyển động của thời gian.

Những dòng thơ đầu tiên phản ánh cảm xúc của nhà thơ trước sức mạnh khủng khiếp của thời gian. Ông đặt ra câu hỏi về ý nghĩa và giá trị của cuộc sống trước thách thức của thời gian. Cảnh báo về sự chấp nhận tình cảnh không thể tránh khỏi, Văn Cao thể hiện lòng đau xót và hoài nghi trước sự thoái chạy của thời gian.

Trong phần thứ hai của bài thơ, nhà thơ miêu tả hình ảnh những chiếc lá cuối cùng của một cây cổ thụ. Hình ảnh này trở thành biểu tượng cho sự cô đơn và đau thương, cũng như sự tàn phá của thời gian đối với sự sống. Mỗi chiếc lá rơi là một cảm xúc, một kí ức và một phần của cuộc đời đều biến mất.

Sự lặng lẽ và êm đềm của bài thơ làm tăng thêm vẻ bi thương và nhẹ nhàng của thời gian. Điều đặc biệt ở đây là cách Văn Cao sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh để truyền đạt cảm xúc và ý nghĩa về thời gian. Thông qua những từ ngữ sâu lắng và hình tượng tinh tế, ông đã làm cho độc giả cảm nhận được trực tiếp sự chuyển động của thời gian và tác động của nó đối với cuộc sống con người.

Thời gian qua kẽ tay

Làm khô những chiếc lá

Kỷ niệm trong tôi

rơi

như tiếng sỏi

trong lòng giếng cạn.

Bài thơ của Văn Cao khắc họa sự tác động đầy bi quan của thời gian đối với cuộc sống con người. Từ câu thơ ngắn “Qua kẽ tay thời gian trôi chảy,” nhà thơ đã khéo léo đưa ra hình ảnh của sự trôi chảy không ngừng của thời gian, nhưng đồng thời cũng gợi lên hình ảnh khao khát vô hạn của con người muốn giữ lại, cầm nắm được thời gian trong lòng bàn tay. Dòng thơ tiếp theo với hình ảnh “làm khô chiếc lá xanh tươi giàu nhựa sống ngày nào” nói lên sự tàn phá của thời gian đối với những thứ hữu hình như sự sống và tươi tắn. Sự biến mất của chiếc lá xanh không chỉ là vấn đề về thể chất mà còn đặt ra câu hỏi về ý nghĩa và giá trị của cuộc sống.

Tuy nhiên, bức tranh bi quan không dừng lại ở đây. Nhà thơ Văn Cao đã đưa ra một góc nhìn tích cực khi nhắc đến những giá trị vô hình như “câu thơ,” “bài hát,” và “đôi mắt em.” Những yếu tố này được coi là những điều vô cùng quý giá và không thể bị thời gian mài mòn hay phai nhạt. Câu thơ này như là một tín hiệu lạc quan, ánh sáng lấp lánh giữa bức tranh u tối của thời gian.

Riêng những câu thơ
còn xanh
Riêng những bài hát
còn xanh
Và đôi mắt em
như hai giếng nước

Trong bài thơ của Văn Cao, từ “riêng” và điệp ngữ “còn xanh” được nhấn mạnh như một biểu hiện của sự bản lĩnh và sự kiêu hãnh, tượng trưng cho tâm hồn không chấp nhận sự biến đổi của thời gian. Sự lặp lại của các từ này như là một lời tuyên bố mạnh mẽ, thể hiện quyết tâm bảo vệ cái “riêng” của mình, không để thời gian xóa nhòa.

“Câu thơ” và “bài hát” xuất hiện như những hình ảnh ẩn dụ, đại diện cho nghệ thuật, sức sống tinh thần và sự sáng tạo. Những tác phẩm nghệ thuật này được coi là những yếu tố không chịu ảnh hưởng của thời gian, không tuân theo luật lệ của sự tàn phá, và không thừa nhận sự chấm dứt. Chúng là những “công cụ” mà con người tạo ra để chống lại sự khắc nghiệt của thời gian và giữ cho cái đẹp, ý nghĩa sống mãi mãi.

Hình ảnh “đôi mắt em” càng làm tôn lên ý nghĩa của sự kỳ diệu và vĩ đại trong tình yêu. Đôi mắt này không chỉ là một phần của cơ thể, mà còn đại diện cho trái tim, linh hồn, và sự sống. Sự “xanh” của đôi mắt không chỉ là màu sắc mà còn là biểu tượng của sự tươi mới và sức sống vô tận. Đây là “vũ khí” mà con người sử dụng để bảo vệ cái đẹp và ý nghĩa cuộc sống khỏi sự lão hóa và phai mờ của thời gian.

Và đôi mắt em
như hai giếng nước

Đôi mắt, như cửa sổ tâm hồn, không chỉ là bộ phận của cơ thể mà còn là biểu tượng của tình yêu và sự sống. Trong thơ ca và nghệ thuật, đôi mắt thường được coi là nguồn cảm hứng và làm nên những điều kỳ diệu. Trong bài thơ “Thời Gian” của Văn Cao, đôi mắt được thể hiện như là “vũ khí” mạnh mẽ, có khả năng bảo vệ và giữ cho cái đẹp và ý nghĩa sống mãi mãi trước sự tàn phai của thời gian.

Tình yêu, theo tác giả, là nguồn năng lượng, là động lực để con người vượt qua những khó khăn của số phận và thời gian. Bất chấp những khía cạnh đắng cay và nghiệt ngã của cuộc sống, tình yêu làm cho con người sáng tạo, nâng cao tinh thần, và tạo ra những tác phẩm nghệ thuật thăng hoa. Tình yêu được mô tả như “đôi mắt em,” như là “hai giếng nước” trong trẻo và đầy mến thương, tạo nên sự bất tử của cái đẹp trước sự tàn phai của thời gian.

Thời gian, mặc dù có thể làm khô những chiếc lá đời người và rơi những kỷ niệm vào lòng giếng cạn, nhưng không thể làm khô đôi mắt của tình yêu. Bài thơ chứng tỏ rằng những cảm xúc sâu sắc và niềm tin mãnh liệt là những yếu tố không chịu tác động của thời gian, và chúng tạo nên cái đẹp và ý nghĩa bất tử. Bài thơ của Văn Cao là một tuyên ngôn về sức mạnh của nghệ thuật và tình yêu trước sự trôi chảy và khắc nghiệt của thời gian.

Xem thêm mẫu 👉 Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Vấn Đề Xã Hội

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Chi Tiết – Thuyền Và Biển

Thuyền và biển là một bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ đã gây được nhiều tiếng vang tới công chúng, nó được ghi chép lại trong rất nhiều cuốn sổ tay và truyền qua nhiều thế hệ. Chắc hẳn những người đã yêu, đang yêu và sẽ yêu khi thưởng thức bài thơ này sẽ vô cùng muốn cảm ơn nữ thi sĩ.

“Em sẽ kể anh nghe
Chuyện con thuyền và biển:
Từ ngày nào chẳng biết
Thuyền nghe lời biển khơi
Cánh hải âu, sóng biếc
Đưa thuyền đi muôn nơi”

Những câu thơ đầu tựa như những lời thủ thỉ tâm tình ngọt ngào mà người con gái đang chia sẻ, giãi bày tâm sự với chàng trai, qua đó gợi mở về một câu chuyện mộng mơ, lãng mạn. Bài thơ bắt đầu với hai hình tượng là thuyền và biển. Đó là là hai hình tượng sóng đôi, có mối quan hệ gắn kết chặt chẽ với nhau, không thể tách rời, đồng thời mang trong mình một vẻ đẹp trữ tình mà mộc mạc, giản dị. Trong ca dao có câu:

“Thuyền ơi có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền!”

Hay Xuân Diệu, chính nữ thi sĩ cũng đã từng viết nên những vần thơ:

“Anh không xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng
Bờ cát dài phẳng lặng
Soi ánh nắng pha lê…”

Qua đây càng chứng tỏ, thuyền và biển là hai hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong những bài thơ, bài ca dao về tình yêu đôi lứa. Và rồi theo dòng cảm xúc, câu chuyện của tác giả dần được hé mở. Đó là câu chuyện về một tình yêu thủy chung “Từ ngày nào chẳng biết/Thuyền nghe lời biển khơi”. Câu thơ hiện lên như một lời thú nhận ngại ngùng, e thẹn, bẽn lẽn, nàng bày tỏ rằng mình đã phải lòng chàng từ lâu, nguyện đời này cùng anh xây nên hạnh phúc đôi ta. Chẳng biết em đã yêu anh từ lúc nào, em chỉ biết tình yêu đó là sự chân thật, chân thành và là vĩnh cửu. Quả là một câu chuyện tình yêu tràn ngập niềm hạnh phúc:

“Cánh hải âu, sóng biếc
Đưa thuyền đi muôn nơi”

Không khó để cảm nhận được, tiếng sóng lòng tràn ngập trong câu thơ trên, vỗ về trái tim nhỏ bé đang loạn nhịp của người con gái, ta nghe thấy âm vang của biển cả bao la, dường như đang bảo vệ cho tình yêu của mình. Gợi cảm giác thật bình yên, êm ả, du dương như những xúc cảm ban đầu của tình yêu.

Như vậy, cứ một câu thơ nói về biển thì lại được xen kẽ với một lời thơ viết về thuyền. Sự sóng đôi này đã ngầm khẳng định sự gắn bó mật thiết, khăng khít không thể tách rời của hai hình tượng. Quả thật, chỉ có thuyền mới có thể “xô sóng dậy” và chỉ có sóng mới “đẩy thuyền lên”.

“Lòng thuyền nhiều khát vọng
Và tình biển bao la
Thuyền đi hoài không mỏi
Biển vẫn xa… còn xa”

Câu thơ như một lời khẳng định chắc nịch cho tình yêu bền vững giữa thuyền và biển, và hình ảnh sóng đôi càng giúp làm nổi bật ý nghĩa đó.

“Những đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thầm thì gửi tâm tư
Quanh mạn thuyền sóng vỗ”

Theo lẽ thường, biển sẽ tượng trưng cho hình ảnh người con trai bởi sự dữ dội, mạnh mẽ của nó, song với Xuân Quỳnh, nữ thi sĩ lại có sự đảo ngược rất độc đáo và thú vị. Nhà thơ đã sử dụng biển để ẩn dụ cho hình ảnh người con gái, bởi qua đôi mắt của mình, bà thấy biển cũng có sự dịu dàng, êm ả, đặc biệt có sự rộng lớn, bao la như chính tình cảm của nhà thơ trong tình yêu.

“Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền

(Vì tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên?)”

Đây là những cảm xúc rất chân thật khi yêu, nó mạnh mẽ và ồ ạt vì vậy chẳng thể dự đoán được chính xác phương hướng. Khi đắm chình trong tình yêu con người ta chỉ nghe theo cảm xúc, mặc mình để tình yêu dẫn lối.

Không phải ai cũng có thể miêu tả, hay viết nên những câu thơ về tình yêu, nhưng với Xuân Quỳnh, bà đã làm rất tốt công việc đó. Và vì vậy mà Xuân Quỳnh đã nói hộ nỗi lòng của biết bao đôi lứa. Nhà thơ đã biến hóa đầy sáng tạo và độc đáo cách nói của dân gian:

“Thuyền ơi có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền!”

Nhà thơ đan diễn tả rất rõ nét về tâm trạng chung của những người đang yêu:

“Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu về đâu”

Người ta vẫn thường nói rằng khi yêu hai người rất có thể sẽ đoán được ý nghĩ của nhau, dường như họ vẫn truyền cho nhau những thông tin, tín hiệu, bức điện vô hình, giữa những người đang yêu dường như tồn tại một trường “điện từ” có lẽ vậy nên họ có “thần giao cách cảm”. Bằng kinh nghiệp và sự từng trải, Xuân Quỳnh đã khẳng định và diễn tả rất rõ nét điều này.

Đọc tác phẩm Thuyền và biển của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, chắc hẳn độc giả sẽ cảm nhận được rõ nét những tâm sự, niềm khao khát hạnh phúc cùng, những lo âu và trăn trở trong chuyện tình yêu. Thuyền và Biển là hai hình tượng được hoài thai khi tác giả còn là một tâm hồn giàu ước mơ, nhiệt huyết say mê với vẻ đẹp của một tình yêu chân thành, trọn vẹn – một tình yêu mang đậm tính chất lý tưởng.

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Hay Nhất – Thương Vợ

Tú Xương là một nhà thơ có phong cách độc đáo trong văn học trung đại Việt Nam. Trong sự nghiệp sáng tác của mình có một đề tài chiếm vị trí quan trọng trong thơ ông chính là hình ảnh bà Tú. Ông đã từng sáng tác văn tế sống vợ để nói về những vất vả, lam lũ, những sự hy sinh không mệt mỏi của bà Tú. Với bài thơ Thương vợ ông đã thể hiện một tình cảm yêu thương chân thành dành cho người vợ của mình. Hình ảnh bà Tú cũng hiện lên thật sinh động với những vẻ đẹp đáng trân trọng của người phụ nữ trong xã hội xưa.

Những câu thơ đầu tiên gợi lên cuộc đời đầy vất vả với công việc nặng nhọc của bà Tú nơi bến sông. Với công việc buôn bán khiến bà Tú luôn phải phơi sương, phơi gió ngoài đường. Mốc thời gian quanh năm từ nơi này sang khác, không có lấy một ngày để nghỉ ngơi. Chỗ làm việc của bà cũng tiềm ẩn nhiều nguy hiểm “mom sông”. Đây là chỗ đất nhô ra bên bờ sông điều đó càng gợi thêm cuộc đời nhiều nắng mưa, cơ cực của bà.

Công việc vất vả, nặng nhọc là thế nhưng bà Tú vẫn tảo tần một tay: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, không than vãn, không kêu ca. Gánh nặng đè lên đôi vai người phụ nữ là thế, cách đếm con : “năm con” với: “một chồng” càng gợi ra cuộc sống cơ cực, khó khăn. Năm đứa con tốn kém nhưng thêm ông chồng là thi sĩ : “dài lưng tốn vải” thì càng tốn kém hơn. Đằng sau hình ảnh đó là một gia đình đông con, nhiều khó khăn còn người chồng cũng đang phải “ăn bám nhờ vợ”.

Những từ láy eo sèo, lặn lội đặt lên đầu câu thơ giàu tính tạo hình đã gợi ra hình ảnh của bà Tú lặn lội bươn chải với công việc bên bến sông. Câu thơ gợi người đọc liên tưởng đến hình ảnh con cò trong ca dao xưa, đời bà Tú là cuộc đời của người phụ nữ vất vả, lầm lũi quanh năm : “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, cũng là số phận chung của những người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa.

Công việc buôn bán nơi bến vắng, mom sông nguy hiểm, lại một mình lặn lội thật đáng thương. Những câu thơ là những tiếng thở dài chua xót của ông Tú dành cho người vợ của mình. Lời thơ vì thế càng trở nên, thấm thía hơn. Để kiếm được miếng cơm manh áo, bà Tú đã phải vất vả đến nhường nào. Từ láy “eo sèo” gợi ra cảnh mua bán chen chúc nơi quãng sông. Để nuôi được năm con với một chồng bà Tú đã phải giành giật, trả giá bằng cả mồ hôi lẫn nước mắt trong thời buổi khó khăn này.

Vất vả và khó khăn là thế nhưng bà Tú chưa bao giờ dám than thân, trách phận, lúc nào bà cũng chấp nhận với cái “kiếp” của mình:

Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công

Tú Xương đã vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”. Hai thành ngữ đối xứng với nhau hài hoà, tạo nên chất dân gian, mộc mạc, chất truyền thống trong thơ ca của Tú Xương. Duyên là duyên số, duyên phận, là cái nợ từ kiếp trước mà bà Tú phải cam chịu. Nắng và mưa là hình ảnh ẩn dụ cho những vất vả, khó khăn của cuộc đời. Những số từ trong câu một, hai, năm, mười đã làm rõ đức hy sinh thầm lặng của bà Tú, người phụ nữ luôn chịu thương, chịu khó tất cả vì hạnh phúc của chồng con.

Qua bài thơ chúng ta không chỉ thấy hình ảnh đẹp về sự hy sinh vất vả của bà Tú mà còn là vẻ đẹp của tình yêu thương vợ. Viết về vợ, Tú Xương không dấu được sự xót xa, thương cảm với những sự cam chịu của vợ, ông ăn năn, day dứt vì chẳng làm gì được cho vợ. Ông chẳng ngần ngại cất tiếng chửi đời, chửi đổng : “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc/ Có chồng hờ hững cũng như không”. Đó là tất cả sự bất lực dồn nén trong tâm hồn của ông. Ông biết mình là gánh nặng của vợ, mình chưa làm gì được cho vợ, ông dám tự nhận những khuyết điểm của mình. Từ đó cho thấy ông là người có nhân cách cao đẹp.

Có thể nói “Thương vợ” là một bài thơ xuất sắc của nhà thơ Tú Xương. Với thể thơ Đường luật nhưng bằng cách nói dân gian, gần gũi, bài thơ trở nên mộc mạc, dễ tiếp cận với đông đảo độc giả. Qua bài thơ người đọc thêm đồng cảm với thân phận người phụ nữ trong xã hội và thêm tin yêu, cảm phục nhân cách của người trí thức Tú Xương.

Cập nhật mẫu viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ 👉 Thương Vợ 👉 của Tú Xương

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Siêu Hay – Bảo Kinh Bảo Giới

Nguyễn Trãi không chỉ biết đến với tác phẩm nổi tiếng, một áng thiên cổ hùng văn bình ngô đại cáo mà còn được biết đến vơi những bài thơ thiên nhiên và con người như Côn Sơn Ca, Cây Chuối… một trong những tác phẩm thiên nhiên và con người ấy còn phải kể đến bài thơ bảo kính cảnh giới 43 của ông. Đó là bài thơ cảnh ngày hè với những thiên nhiên con người và tâm trạng của Nguyễn Trãi.

Trong những bài thơ về tình yêu thiên nhiên Côn Sơn chính là nơi dừng chân của Nguyễn Trải trong những ngày tháng buồn bã mệt mỏi nơi quan trường.

Sự ung dung nhàn hạ ấy được thể hiện trong câu thơ đầu tiên:

Rồi hóng mát thuở ngày trường

Câu thơ như mở ra những ngày tháng thảnh thơi, hóng mát những ngày dài, những hình ảnh dài của những ngày tháng ấy dần được mở ra ở những câu sau. Những ngày tháng ấy là những ngày tháng an nhàn khi gác lại chuyện chính sự sang một bên, khiến cho không chỉ tâm hồn mà thể xác cũng rất nhàn hạ. cuộc sống với ông chỉ cần thế mùa hè đến ông không cảm nhận thấy cái nóng của đát trời mà ông chỉ cảm nhận được gió mát. Thiên nhiên nơi chốn quê hương chính là nguồn cảm hứng vô tân cho tác giả. àm cho ông cảm thây vui vẻ phần nào trong cuộc sống ở quê.

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Đây là những câu thơ đặc tả những cảnh đẹp mùa hè nơi chốn quê hương ông, là hương sắc mùa hè rất sinh động và hấp dẫn. hình ảnh của mùa hè hiển ra với những gam màu nóng:màu đỏ của hoa hòe, màu lựu đỏ, màu hồng của cánh sen và chúng được kết hợp với những động từ mạnh như “ đùn đùn”, “ phun”, “ tiễn” cho thấy một bức tranh quê hương với màu sắc và hương vị đặc trưng và sự sinh sôi nảy nở manh mẽ trong mùa hè.

Bức họa đồn quê hiện ra với biết bao nhiêu màu sắc bao nhiêu thay đổi đẹp đẽ, và đó còn là sự sinh trưởng mạnh mẽ của hoa cỏ cây cối. nó mang tới cho chúng ta những cảm giác thật yên bình, không những thế ta còn cảm nhận được cái hương vị của mùa hè qua động từ “tiễn”.

Không những thế mùa hè còn mang đến cho tác giả những những phiên chợ những làng ngư phủ. Cuộc sống thôn dã hiện ra với vẻ tấp nập hiếm có của con người nơi đây. Chính chợ phản ánh cuộc sống của con người có no đủ, giàu có hay không

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Cuộc sống thật sự náo nhiệt, những phiên chợ của những ngư dân vùng biển, hình ảnh ảnh những con người lao động hiện lên thật đẹp với phiên chợ vui vẻ của những lưới cá bội thu.

Dân giàu đủ khắp đòi phương”.

Cất lên một khúc đàn của cây đàn vua Ngu Thuấn mang lại cho nhân dân cuộc sống âm no hạnh phúc. MƯợn được hình ảnh vua Ngu Thuấn cây cầm ấy để làm cho nhân dân ta giàu mạnh khắp phương. Dù đã trở về với cuộc sống nơi thôn dã nhưng ông luôn luô giữ tình yêu thương và lòng mong mỏi một cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân tram họ.

Bài thơ là những dòng chảy cảm xúc về thiên nhiên cũng như nối khát khao mong mỏi và tấm lòng yêu nước nồng nhiệt của Nguyễn Trãi. Bìa thơ tuy ngắn nhưng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng mạnh. Kết thúc bài thơ là tinh thần nhân nghĩa cao cả và tình yêu nhân dân vô bờ bến của ông.

Chia sẻ bài viết 👉 Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Của Người Khác

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Ngắn – Chân Quê

Bài thơ “Chân Quê” của tác giả Nguyễn Bính là một tác phẩm thơ đặc sắc trong phong trào thơ mới thập kỷ 1930 – 1945. Tác giả Nguyễn Bính nổi tiếng với sự kết hợp độc đáo giữa thơ hiện đại và thơ truyền thống, tạo nên sự độc đáo và cuốn hút đối với độc giả.

Bài thơ “Chân Quê” bắt đầu bằng việc giới thiệu tác giả Nguyễn Bính và tác phẩm. Bài thơ này ra đời trong bối cảnh lúc đất nước đang chịu nhiều biến động lớn về chính trị và văn hóa. Đây cũng là thời điểm mà sự hiện đại và phương Tây hóa đang thâm nhập vào xã hội Việt Nam.

Trong phần thân bài, chúng ta thấy tâm trạng của chàng trai chờ đợi và bồn chồn nhớ về người yêu của mình. Chàng trai mong ngóng sự trở về của người yêu với sự hào hứng, tình cảm thiết tha. Tuy nhiên, khi người yêu trở về, chàng trai lại bất ngờ trước sự thay đổi lớn trong cách ăn mặc và lối sống của cô gái, thể hiện bằng việc mô tả những chi tiết nhỏ như “khăn nhung quần lĩnh” và “áo cài khuy bấm.”

Tác giả sử dụng hình ảnh chàng trai đứng trước bi kịch và muốn bảo tồn vẻ đẹp chân quê ở người yêu đi tỉnh về. Chàng trai tỏ ra bất lực trước việc người yêu đã bị ảnh hưởng bởi lối sống phương Tây và không còn giữ được những giá trị truyền thống của quê hương.

Thái độ và cách cư xử của chàng trai trong bài thơ thể hiện sự thấu hiểu và lời nhắc nhở người yêu hãy giữ lấy những truyền thống tốt đẹp của quê hương. Chàng trai không chỉ trách móc mà còn tự hào và tình yêu thiết tha đối với quê hương và truyền thống làng quê.

Cuối cùng, bài thơ khép lại với sự chua xót và đau khổ của chàng trai, với lời nhắn gửi về giá trị của việc giữ gìn truyền thống tốt đẹp. Tác phẩm này không chỉ mang giá trị nội dung về tình yêu và sự thay đổi trong cuộc sống mà còn mang giá trị nghệ thuật với cách diễn đạt tinh tế và sử dụng ngôn ngữ hình ảnh sâu sắc.

Bài thơ “Chân Quê” của Nguyễn Bính là một tác phẩm thơ đậm chất quê hương, nó khắc họa một cách sâu sắc và chân thực về tình yêu và sự thay đổi trong xã hội Việt Nam vào thời kỳ đổi mới. Qua tác phẩm này, chúng ta cảm nhận được tình yêu và tương quan phức tạp giữa con người và quê hương, đồng thời rút ra bài học quý báu về việc bảo tồn và truyền dạy những giá trị truyền thống của dân tộc.

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Nổi Tiếng – Nhớ Đồng

Tố Hữu – một nhà thơ cách mạng nổi tiếng, ông được kết nạp đảng năm 1938 thì đến năm 1939 trong quá trình hoạt động đã bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ, hoạt động cách mạng hăng say và nhiệt huyết là thế nhưng lại bị bắt giam nên trong quá trình bị giam cầm ông đã sáng tác một tập thơ mang tên “Từ ấy”, bài thơ “Nhớ đồng” nằm trong phần “Xiềng xích” của tập thơ nói về tâm trạng nhớ quê hương, cách mạng của ông những ngày tháng sống trong trại giam.

Trong hoàn cảnh bị giam cầm tù hãm, người chiến sĩ cộng sản không tránh khỏi những u buồn, nhớ thương, chính tiếng hò vang vọng đâu đó đã đánh thức và khơi dậy nỗi niềm nhớ thương của người tù. Giữa không gian đồng không mông quạnh trưa nắng, một con người lẻ loi, cô độc đang bị giam cầm tách biệt với cuộc sống bên ngoài.

“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò”

“Gì sâu bằng” ấy là nói về nỗi nhớ sâu thẳm trong cõi lòng tác giả, điệp từ “đâu” ở đầu suốt năm câu thơ như là nỗi day dứt tìm kiếm trở về với cuộc sống khi xưa, tìm kiếm sự yên bình nơi quê hương trong sự ngậm ngùi:

“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi…
Đâu những đường con bước vạn đời”

Bức tranh cuộc sống sinh hoạt làng quê thân thương và rất đỗi bình dị hiện ra trước mắt người tù cộng sản, chỉ là tưởng tượng thôi nhưng nó sống động và tuyệt đẹp, giàu xúc cảm biết bao. Không chỉ là cảnh đồng lúa, khóm tre, nương rẫy hay những mái nhà tranh, ở trong tâm tưởng của nhà thơ còn có con người, những người nông dân cơ cực vất vả nhưng ấm áp tình người.

“Đâu những lưng cong xuống luống cày…
Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi…
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi”

Đâu đó còn là bóng dáng của người mẹ thương nhớ càng siết chặt thêm nỗi khắc khoải khôn nguôi của nhà thơ, tác giả như chìm đắm, say trong những cơn nhớ nhung không dứt “Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ…” từng lời như đang than thở vì sự bất khả kháng với hoàn cảnh của chính mình, không thể thoát ra để giải tỏa nỗi lòng. Người chiến sĩ trẻ nhớ về những ngày đầu đến với lý tưởng cách mạng và thời hoạt động cách mạng tự do của mình:

“Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi…
rên chín tầng cao bát ngát trời”

Trước là nhớ về quá khứ tối tăm ngột ngạt của mình để như khẳng định hơn sự sáng suốt và đúng đắn, niềm hạnh phúc khi tìm được lý tưởng cách mạng, và rồi tác giả tự cho mình những giây phút say trong niềm khao khát hoạt động cách mạng ấy, tâm trạng u buồn bỗng nhiên được tưới mát trở nên vui vẻ và phấn chấn hơn, “Nhẹ nhàng như con chim cà lơi”, cánh chim tượng trưng cho sự tự do tự tại và tác giả đang ví mình là những con chim đó, say trong đồng hương nắng như chính người chiến sĩ say trong hoạt động cách mạng.

Nhưng dù có cố gắng cách mấy nhà thơ cũng không tránh khỏi sự đối mặt với thực tại bị giam hãm trong lao tù, hai câu thơ kết lặp lại y nguyên hai câu thơ đầu, nhấn mạnh sự bất lực, bế tắc không có lối thoát. Mặc dù vậy tư tưởng hướng về quê hương và cách mạng vẫn còn đó, khát vọng về một ngày được tự do được hoạt động cách mạng vẫn luôn cháy bỏng trong trái tim người tù cộng sản.

Qua bài thơ “Nhớ đồng” người đọc không chỉ cảm nhận được một tình yêu quê hương tha thiết của Tố Hữu mà còn thấy hiện lên một người chiến sĩ cộng sản yêu lý tưởng cách mạng, yêu đất nước và khát vọng tự do hành động, hy sinh vì Tổ quốc.

Đọc thêm mẫu viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ👉 Nhớ Đồng 👉 của Tố Hữu

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu – Tràng Giang

Nhắc tới Huy Cận, người ta nhớ ngay đến một “hồn thơ ảo não” (Hoài Thanh). Trước cách mạng tháng Tám 1945, ông đã góp mặt vào thơ ca đương thời một nỗi sầu nhân thế, một cái tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời. Với sự pha trộn giữa chất cổ điển và hiện đại, ông đã gửi gắm nỗi niềm ấy trong nhiều bài thơ, trong đó phải kể đến Tràng giang. Bài thơ in trong tập “Lửa thiêng” (1940) rất tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận.

Vào một buổi chiều thu năm 1939, khi nhà thơ đứng trước bãi Chèm – phía Nam dòng sông, trước cảnh sóng nước mênh mông, đã không kìm nén nổi cảm xúc buồn bã, cô đơn và nhớ nhà da diết nên sáng tác bài thơ Tràng giang. “Tràng giang” là một từ Hán Việt đầy trang trọng, cổ kính, chỉ một con sông dài.

Nhưng nhà thơ không dùng “trường giang” (có cùng nghĩa) để thay thế, bởi cách điệp vần “ang” giúp nhan đề vừa gợi âm hưởng ngân vang, vừa gợi nên cảm giác một dòng sông không những dài mà còn rộng. Thêm lời đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài càng làm rõ hơn sắc thái cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Đó là nỗi buồn của con người trước một không gian mênh mông, rộng lớn có thể bao trùm cả vũ trụ.

Từ nhan đề và câu thơ đề từ của bài thơ, khổ thơ thứ nhất đã mở ra một không gian sông nước sông nước rộng lớn. Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình ảnh sông nước mênh mang.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Dường như, dòng sông “tràng giang” đã dài nay lại như trải dài ra hơn với từng đợt sóng “điệp điệp” cứ nối đuôi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, không dứt. Những đợt sóng ấy như trải dài đến vô tận càng tô đậm thêm không gian rộng lớn, bao la của sông nước. Và để rồi, trên cái nền sông nước mênh mông ấy, hình ảnh con thuyền hiện lên thật nhỏ nhoi, cứ thế “xuôi mái nước song song”. Hình ảnh đối lập giữa không gian sông nước mênh mông với hình ảnh con thuyền nhỏ bé càng gợi lên trong chúng ta sự cô đơn, le loi. Đặc biệt, khổ thơ thứ nhất còn để lại ám ảnh sâu sắc trong lòng người đọc bởi hai câu thơ cuối của khổ thơ.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng

Từ xưa cho đến nay, thuyền và nước là hai hình ảnh luôn đi liền với nhau, ấy vậy mà ở đây dường như thuyền và nước như có một nỗi buồn chia lìa đang đón đợi. Có lẽ bởi thế mà cảnh vật ấy càng khiến cho lòng “sầu trăm ngả”. Đặc biệt, giữa cảnh sông nước mênh mông ấy, hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” gợi lên trong lòng người đọc ám ảnh khôn nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi sẽ trôi dạt về đâu bởi trăm dòng mênh mông vô định.

Như vậy, trong khổ thơ thứ nhất, nếu ví dòng tràng giang là dòng đời vô tận thì hình ảnh con thuyền, cành củi khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định. Đồng thời, khổ thơ cũng gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả.

Nếu trong khổ thơ mở đầu của bài thơ, tác giả vẽ nên không gian sông nước mênh mông thì trong khổ thơ thứ hai, tác giả lại mở ra không gian nơi cồn nhỏ. Hai câu thơ mở đầu khổ thơ thứ hai đã vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Với việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm tác giả đã vẽ nên một bức tranh nơi cồn nhỏ vừa thưa thớt, hoang vắng, lạnh lẽo vừa gợi nên một nỗi buồn mênh mang. Thêm vào đó, sự hoang vắng, tĩnh mịch của không gian như càng được tô đậm thêm qua câu thơ “đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Có thể nói, đây là một câu thơ có nhiều cách hiểu, “đâu” là đâu có, là phủ nhận âm thanh của tiếng chợ chiều hay là đâu đó, gợi lên âm thanh yếu ớt của tiếng chợ.

Nhưng có lẽ dẫu hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì câu thơ vẫn gợi lên trong lòng người đọc nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống của con người. Nếu hai câu thơ đầu khổ hai gợi lên không gian cồn nhỏ vắng vẻ, hiu quạnh thì dường như trong câu ba và câu bốn, không gian ấy như được mở rộng cả về bốn phía làm cho cảnh vật vốn đã vắng vẻ lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Trong hai câu thơ, tác giả dùng “sâu chót vót” thay vì “cao chót vót” bởi lẽ chữ “sâu” không chỉ tả cảnh mà còn tả tình, nó không chỉ gợi lên một khoảng không gian rộng lớn, thẳm thẳm mà còn gợi lên cả nỗi buồn, sự cô đơn đến tột cùng của lòng người trước cái mênh mông, hoang vắng của cảnh vật. Như vậy, trong hai khổ thơ đầu của bài thơ, nỗi buồn của nhà thơ như bao phủ lên mọi cảnh vật, lên không gian rộng lớn và mênh mông. Và để rồi, trong khổ thơ thứ ba của bài thơ, tác giả lên trở về với không gian sông nước với khung cảnh mênh mang, đìu hiu, thiếu vắng đi sự sống của con người.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bài vàng

Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” một lần nữa gợi lên trong người đọc hình ảnh về kiếp người, cõi nhân sinh trôi nổi, không biết rồi sẽ đi đâu, về đâu. Thêm vào đó, khổ thơ với việc sử dụng nghệ thuật phủ định lặp lại nhiều lần đã nhấn mạnh sự hiu quạnh, thiếu sự sống của cảnh vật. Lẽ thường, chúng ta vẫn thường thấy rằng, thuyền và cầu là những phương tiện, những hình ảnh thể hiện sự giao lưu, kết nối giữa con người với con người, giữa miền đất này với miền đất khác nhưng ở đây “không một chuyến đò”, “không một cây cầu”.

Dường như, ở nơi đây chẳng có bất cứ thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của sự sống, của bóng hình con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân mật giữa con người với nhau. Có lẽ bởi thế mà hai bờ của dòng sông cứ thể chạy dài, chạy dài mãi mà chẳng bao giờ gặp nhau, chỉ còn lại ở nơi đây những bờ xanh, những bãi vàng nối tiếp nhau – một bức tranh đẹp nhưng tĩnh lặng và thật buồn.

Xem thêm mẫu viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ 🌱 Tràng Giang 🌱 của Huy Cận

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ (Tìm Hiểu Cấu Tứ Và Hình Ảnh Của Tác Phẩm) – Thu Hứng

Thu hứng (bài số 1) của Đỗ Phủ là một bài thơ tiêu biểu, hết sức thâm thúy, hàm súc, kín đáo. Trong bài thơ tâm và cảnh, thi và họa, động và tĩnh, trộn lẫn, lắm lúc khó lòng phân biệt.

Có thể tạm chia bài thơ làm hai phần với bốn câu đầu là Cảnh thu và bốn câu sau là Nỗi lòng nhà thơ. Cách phân chia như vậy phù hợp về lô-gích hình thức nhưng chưa thực xâm nhập vào chiều sâu quan hệ biện chứng giữa hai phần của bài thơ. Chúng ta biết rằng đặc trưng của thơ cổ nói chung, thơ Đường nói riêng là cái nhìn đồng nhất con người và vũ trụ (“Thiên nhân tương đồng”). Cái “tôi” (tiểu ngã) chỉ là một phần của cái “ta” vũ trụ (đại ngã).

Do đó, các nhà thơ cổ nói “cảnh” cũng là đế nói “tâm”, nói “tâm” thường thông qua vẽ “cảnh”. Các nhà thơ Trung Hoa xưa thường nhắc đến mối quan hệ này. Đó là “Tâm nhập vào cảnh” (Vương Xương Linh) “Lòng nhập vào cảnh” “Tình dĩ cảnh hội” (Yên Hoàng Đạo) “Tình bất gặp cảnh”, “Cảnh dĩ tình hợp”, “Tình dĩ cảnh sinh” (Vương Phu Phi). Ngay bốn câu đầu, qua những nét bút chấm phá về cảnh đã toát lên góc nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ.

Chỉ có điều, cảnh ở đây dường như được vẽ ra bằng những nét bút có phần rõ ràng, “khách quan” hơn so với bốn câu thơ sau. Bài thơ có thời gian: mùa thu; có (lịa điểm: Vu Sơn, Vu Giáp (thuộc thượng sông Trường Giang, vùng Quý Châu thuộc tình Tứ Xuyên). Cảnh ở đây cũng có phần được cá biệt hóa với màu sắc hùng vĩ, độc đáo: núi non hiểm trở, sóng bọt lưng trời, mây sa mặt đất. Cảnh vật hiện lên dần như trên một đoạn phim lướt vội.

Ong kính hắt đầu từ rặng phong tiêu điều vói sương móc trắng xóa (Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm), (chữ “lác đác” trong bài dịch chưa thật sát với nghĩa nguyên tác), đến cảnh núi Vu và kèm vu hiu hắt, dần đến những đợt sóng bọt lên lưng trời giữa dòng sông rồi đứng lại ở những dám mây sa sẩm giáp mặt đất nơi cửa ải. Bốn câu thơ cũng làm ta nhớ đến những bức tranh thủy mặc với lối vẽ chấm phá tài tình. Cảnh vật hiện lên trong cái “thần”, cái “hồn” của nó. Nhưng sau bức tranh kia đã ấn giấu bao nhiêu tâm trạng.

Tâm trạng ấy trước hết thể hiện ở sự lựa chọn cảnh vật. Nhà thơ xưa không đặt nhiệm vụ khám phá đối tượng mình quan sát (dù bên trong hay bên ngoài) mà chi là sắp xếp, tỉa tót nó cho phù hợp với sự cảm nhận duy lí. Thơ cổ không phân biệt rạch ròi chủ thể và khách thể. Ngay nét chấm phá đầu tiên “Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm” đã mở ra hướng lựa chọn. Cảnh tượng móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng phong làm ta nhớ đến những rừng phong, cây phong khác trong thơ cổ.

Cây phong trong thơ Đường như gắn với nỗi buồn, với chia li. Trong Tì bà hành (Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu), trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có “Rừng phong thu dã nhuốm màu quan san” đều hiu hắt trong mắt nàng Kiều. Những nét vẽ cảnh tiếp theo dường như càng tô đậm thêm cái nét hoang vắng, hiu hắt, buồn bã trong tâm hồn nhà thơ. Đành rằng cảnh vật ở đây cũng có nét hùng vĩ nhưng nét hùng vĩ không lấn át được vẻ buồn, tàn tạ, không làm tan cái buồn, hiu hát tràn từ núi đến rừng.

Hai câu tiếp theo đối nhau về ý và lời, tạo nên cảnh đối nghịch trong bức tranh “Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng – Tái thượng phong vân tiếp địa âm” (Lưng trời sóng rợn lòng sông thám – Mặt đất mây đùn cửa ải xa) cho ta những ấn tượng trái ngược: Cảnh vừa dữ dội, hoành tráng lại vừa bức bối, bị vây hãm không thoát ra được.

Đúng là bức “tâm cảnh” trong con mắt một kẻ xa quê, nhớ quê, lòng buồn trĩu nặng, đồng thời cũng bứt rứt, bức bối, không yên khi nhìn về quê nhà và trông ra thế sự. Kim Thánh Thân thật có lí khi bình rằng: “ngước mắt nhìn sông chì thấy sóng vọt ngất trời, mà đăm đăm trông lên ải, chỉ thây gió mây mịt mờ liền đất. Thực đúng đau tức, bi thương, khiến cho người ta lòng hết khí tuyệt”.

Bốn câu sau, tác giả tiếp tục phát triển cảm xúc của mình. Ở đây thê hiện nỗi lòng trực tiếp hơn, cụ thể hơn nhưng vẫn thâm trầm, kín đáo. Cái nhìn duy lí đã trừu tượng hóa những sự vật cụ thể. Tác giả nói đến hoa cúc, đến con thuyền nhưng chúng là “tâm” hay là “cảnh”, thật lòng lòng phản biệt. “Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ” (Khóm cúc nở hoa hai lần: những giọt lệ ngày trước) và “Cô chu nhất hệ cố viên tâm” (Con thuyền lẻ loi buột chặt tâm lòng nhớ vườn củ), ở đấy lời ít ý nhiều, không rõ hoa cúc nhỏ lệ hay thi nhân nhỏ lệ bên khóm cúc, không hiểu dây buộc thuyền hay dây thắt lòng người.

Hồ Sĩ Hiệp cho rằng những câu thơ này có thể hiểu theo hai cách: “Cúc đã nở hoa hai lần và đã hai lần làm chảy dòng lệ cũ” hoặc có thể hiểu “Nhìn cúc nở mà tưởng như cúc đã nhỏ lệ”. Dù hiểu cách nào thì cũng thấy rằng ở đây “cánh” đã nhòa vào “tâm”, đã “hội” vào “tâm”. Tác giả đã đồng nhất: tình và cảnh, hiện tại và quá khứ (giọt lệ hiện tại cũng là giọt lệ quá khứ), sự vật và con người (sợi dây cụ thể và sợi dày lòng).

So sánh với hoàn cảnh nhà thơ có thề’ hiểu Đỗ Phủ từ khi rời thành đô đến Quý Châu đã được hai năm, trải qua hai mùa thu. Dòng “lệ cũ” của nhà thơ không chỉ “tuôn” ra một lần mà đá nhiều lần rồi. Và đúng như có người nhận xét trong thơ ông già Thiếu Lăng đã lão hóa chốn thanh khốc, cảm thời hoa tiền lệ…

Hai câu thơ kết của bài thơ này thật độc đáo, mở ra nhiều ý nghĩa. Trong thơ Đường, hai câu kết thường là tỏ lòng, nêu trực tiếp cảm xúc nhưng đây tác giả lại hướng nó về cảnh khách quan bên ngoài. Nhưng ờ đoạn đầu, cảnh khách quan là “tĩnh” thì ở đày lại “động”. Cảnh rộn ràng hơn trong không khí “rộn ràng dao thước để may áo rét’’ và âm thanh tiếng chày đập áo dồn dập về chiều trên thành Bạch Đế.

Nhịp thơ dường như cũng nhanh hơn, gấp hơn. Thế nhưng, đó chỉ là ngoại cảnh, tấm lòng nhà thơ thì chưa chắc đã có đổi thay. Bởi góc nhìn của nhà thơ vẫn là cái nhìn trong ánh chiều hắt hiu. Tiếng đập áo buổi chiều trên thành Bạch cao ấy (Thành Bạch chày vang bóng ác tà) dễ đưa người ta đến những liên tưởng buồn.

Nó dường như cùng hòa vào “gam” nhạc buồn của tiếng đập áo đêm trăng của người chinh phụ nhớ chồng trong Đảo y thiên của Lí Bạch (Chiếc áo đêm trường đập bóng trăng), hay tiếng chày đập áo của người phụ nữ trong mùa thu trong thơ Bạch Cư Dị (Thu đến nhớ chồng đập lụa, gió trăng não lắm đá chày ơi) Tiếng chày ấy đang báo hiệu một mùa đông đến gần, mùa đông với một (thiếu cơm, thiếu áo, không nhà, ở nhờ trên đất khách và tấm lòng thì luôn nặng trĩu nỗi lo và nỗi nhớ.

Như vậy, trên cái nền của cảnh thu với rừng thu, khí thu, hoa thu, tiếng thu, nhà thơ đã hòa vào đó tâm trạng của chủ thể trữ tình, một tâm trạng đượm buồn, da diết, sầu thương, khắc khoải trong tình quê nặng và nỗi âu lo kín đáo về thế sự.

Chia sẻ cho bạn đọc tác phẩm nổi tiếng của Đỗ Phủ 🌿 Thu Hứng 🌿

Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Thơ Lớp 11 Trang 66 – Dục Thúy Sơn

Đến với các tác phẩm của Nguyễn Trãi, ta thường xuyên bắt gặp những hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ, kì vĩ. Trong số đó, không thể không kể đến “Dục Thúy sơn”. Bài thơ chính là sự tổng hòa giữa tình yêu thiên nhiên và tình yêu đất nước của bậc trung quân .

“Dục Thúy sơn” là tác phẩm được viết bằng chữ Hán, theo thể ngũ ngôn. Bằng tài năng của mình, Nguyễn Trãi đã tái hiện thành công khung cảnh núi Dục Thúy đẹp thoát tục, đồng thời bày tỏ tình yêu, niềm say mê vô bờ với thiên nhiên đất nước. Bên cạnh đó, thi sĩ cũng khéo léo thể hiện nỗi lòng hoài cổ của mình về những ngày xa xưa.

Trước tiên, đến với cảnh sắc thiên nhiên núi Dục Thúy, ta như được chiêm ngưỡng vẻ đẹp chốn bồng lai tiên cảnh:

“Hải khẩu hữu tiên san;
Tiền niên lũ vãng hoàn.
Liên hoa phù thủy thượng;
Tiên cảnh trụy trần gian.”

Nguyễn Trãi đã đề cập đến vị trí “hải khẩu”, hay là nơi cửa biển. Phong cảnh ở một nơi vừa có núi, vừa có biển như vậy quả thật vô cùng hài hòa, thơ mộng. Có lẽ vì vậy mà thi nhân đã hai lần ví nơi này như chốn thần tiên: “tiên san”, “tiên cảnh”. Trong mắt nhà thơ, ngọn núi có hình dáng như đóa “liên hoa” – một bông sen với vẻ đẹp thanh khiết nở rộ trên mặt nước.

Đây quả thực là hình ảnh so sánh vô cùng độc đáo. Sự khô khan, thô cứng của núi đá lại được liên tưởng đến đóa hoa mềm mại, thanh thuần. Điều này không hề gây mâu thuẫn, thậm chí còn làm bật lên nét đẹp “vô thực” của núi Dục Thúy. Ngắm nhìn cảnh sắc nơi đây, dù đã ghé thăm nhiều lần nhưng thi nhân vẫn không nhịn được mà cảm thán. Có thể thấy rõ, tác giả đặt điểm nhìn từ xa, giúp người đọc cảm nhận được bao quát khung cảnh núi Dục Thúy huyền ảo, thơ mộng.

Ở những câu thơ tiếp theo, Nguyễn Trãi đưa độc giả tới gần để chiêm ngưỡng “ngọn núi tiên” một cách rõ nét hơn:

“Tháp ảnh trâm thanh ngọc;
Ba quang kính thúy hoàn.”

Bóng tháp trên ngọn núi phản chiếu dưới mặt nước. Hình ảnh ấy được ví như chiếc trâm ngọc của người thiếu nữ. Còn bóng núi lại được liên tưởng tới mái tóc biếc xanh. Ở đây, tác giả đã lấy hình ảnh con người để gợi tả vẻ đẹp thiên nhiên. Đây là một điểm mới mẻ, phá cách trong ngòi bút của Nguyễn Trãi. Điều này đã góp phần khiến cảnh sắc núi Dục Thúy trở nên có hồn hơn, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.

Tuy đã lui tới chốn này nhiều lần nhưng khi thấy ngọn núi Dục Thúy, trong lòng thi nhân vẫn dâng lên nỗi niềm hoài cổ:

“Hữu hoài Trương Thiếu bảo;
Bi khắc tiển hoa ban.”

Trông tấm bia nay đã phủ rêu phong, Nguyễn Trãi ngậm ngùi nhớ đến vị danh sĩ tài hoa đời Trần – Trương Thiếu Bảo. Trải qua bao thăng trầm, tấm bia đá vẫn nơi đây nhưng người thì đã không còn nữa. Từng nét chữ được chạm khắc tuy lốm đốm “hoa rêu”, xong vẫn giữ nguyên vẹn giá trị vốn có. Qua những chi tiết ấy, người đọc vừa đồng cảm, vừa trân trọng tâm hồn nhạy cảm cùng tấm lòng cao đẹp của người thi sĩ.

Bằng tài năng cùng sự tinh tế trong từng cảm nhận, Nguyễn Trãi đã khắc họa thành công vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của núi Dục Thúy. Việc kết hợp những hình ảnh thơ độc đáo cùng các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ đã khiến bức tranh thiên nhiên hiện lên vừa chân thực, vừa hư ảo. Là một nơi có thật nhưng trong mắt nhà thơ, núi Dục Thúy lại tựa chốn bồng lai tiên cảnh. Tâm trạng con người vì lẽ đó cũng ảnh hưởng ít nhiều. Qua đó, độc giả như được tận mắt chiêm ngưỡng cảnh sắc siêu thực ấy, đồng thời cảm nhận và thấu hiểu hơn tấm lòng hoài cổ của thi nhân.

Là một trong vô số những tác phẩm viết về thiên nhiên nhưng “Dục Thúy sơn” vẫn khẳng định được vị trí và giá trị của riêng mình. Bài thơ đã giúp độc giả thêm ngưỡng mộ và khâm phục tài năng nghệ thuật đỉnh cao của Nguyễn Trãi.

Xem thêm tác phẩm 👉 Dục Thúy Sơn Nguyễn Trãi

Viết một bình luận