Tú Uyên Gặp Giáng Kiều: Tóm Tắt, Soạn Bài, Phân Tích, Giáo Án

Nôi Dung Truyện Thơ Tú Uyên Gặp Giáng Kiều, Tóm Tắt, Soạn Bài, Phân Tích, Giáo Án Đầy Đủ Và Chi Tiết Nhất Thohay.vn Giúp Các Bạn Nắm Được Toàn Bộ Bài.

Giới Thiệu Tác Phẩm Tú Uyên Gặp Giáng Kiều

Tú Uyên gặp Giáng Kiều trích trong Bích Câu kì ngộ, Thi Nham Đinh Gia Thuyết đính chính và chú thích, Cổ văn Việt Nam, 1952, tr. 36 – 42 của tác giả Vũ Quốc Trân.

Tú Uyên gặp Giáng Kiều là câu chuyện viết về một chuyện cổ tích dân gian của Việt Nam, dựa vào diễn biến lịch sử câu chuyện trong dân gian Việt Nam. Đây là một truyện thơ Nôm nổi tiếng, kể về câu chuyện tình yêu lãng mạn giữa chàng thư sinh nghèo Trần Tú Uyên và nàng tiên nữ Giáng Kiều.

Nội dung chính:

  • Bối cảnh: Chàng thư sinh nghèo Trần Tú Uyên gặp và đem lòng yêu nàng tiên nữ Giáng Kiều trong một lần đi xem hội xuân.
  • Tình yêu: Tình yêu của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều sâu đậm đến mức chàng ngày đêm nhung nhớ và sinh bện.
  • Kết thúc: Một hôm, Tú Uyên trở về nhà và thấy cơm canh đã bày sẵn, sau đó gặp Giáng Kiều bước ra từ bức tranh. Từ đó, hai người sống hạnh phúc bên nhau

Giá trị nội dung:

  • Tình yêu chân thành: Đoạn trích ca ngợi tình yêu chân thành và sự hy sinh vì tình yêu của Tú Uyên.
  • Ước mơ về hạnh phúc: Tác phẩm phản ánh ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc, tự do và không loạn lạc.

Đặc sắc nghệ thuật:

  • Ngôn ngữ: Sử dụng thơ lục bát để diễn tả câu chuyện một cách chân thực và sinh động.
  • Hình tượng nhân vật: Tú Uyên và Giáng Kiều được khắc họa với những nét đẹp lý tưởng, tượng trưng cho tình yêu và hạnh phúc.

Xem thêm tác phẩm 👉 Lời Tiễn Dặn

Nội Dung Truyện Thơ Nôm Tú Uyên Gặp Giáng Kiều

Toàn bộ nội dung truyện thơ Nôm Tú Uyên gặp Giáng Kiều được Thohay.vn chia sẻ dưới đây.

Mưa hoa khép cánh song hồ
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi tạo
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa
Tưởng gần thôi lại nghĩ xa
Có khi hình ảnh cũng là phát phủ
Em trời vừa tiết trăng thu
Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng
Chiều thu như gọi tấm thương
Lòng người trông xuống sông Tương mơ hình
Kề bên năn nỉ bày tình
Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa
Từ phen giáp mặt đến giờ
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn
Ấy ai điểm phấn tô son
Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?
Buồng đào nửa bước chẳng rời
Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?
Rày xin bẻ khoá cung trăng
Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nào!
Chọt trông mấp máy miệng đào
Mặt hoa hớn hở dường chào chúa Đông
Cho hay tình cũng là chung
Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân!
Một khi ra việc trường văn
Trở về đã thấy bát trận sẵn sàng
So xem phong vị khác thường
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt ngào
Bếp trời sẵn đó hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!
Sáng mai cứ buổi ra đi
Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi
Bỗng đâu thấy sự lạ đời
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
Nhân nhân mày liễu mặt hoa
Này người khi trước đâu mà đến đây?
Nàng đương trang điểm nào hay
Cửa ngoài sẽ hé cánh mây bước vào
Vội vàng đánh tiếng ra chào
Bên mừng bên lệ, xiết bao là tình
Rằng: “Bấy lâu một chữ tình
Gặp đây xin tỏ tính danh cho tường?”
Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường
Vì mang má phấn nên vương tơ điều
Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu
Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên
Ba sinh đã nặng vì duyên
Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ
Nhân duyên đã định từ xưa
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân
Cũng là nhờ đức tiên quân
Đoá hoa biết mặt chúa xuân từ rày”
Sinh rằng: “Trong bấy lâu nay
Nhắp sầu gối muộn có ngày nào nguôi
Đã rằng: tác hợp duyên trời
Làm chỉ cho bận lòng người lắm nao”
Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu
Tấm son thề với trên đầu xanh xanh
Dám đâu học thói yến oanh
Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương
Gieo thoi trước đã dở dang
Sao nên nát đá phai vàng như chơi
Mái Tây còn để tiếng đời
Treo gương kim cổ cho người soi chung
Lạ gì hoa với gió đông
Tiếc hương vả cũng nể lòng chim xanh
Một mai mưa gió bất tình
Vóc tàn nên để yến oanh hững hờ
Nghĩ trong thân phận yếu thơ
Làm chi để tiếng sờ sờ lại sau!”
Nói thôi rút chiếc trâm đầu
Biến hình liền thấy đôi hầu theo ra
Tưng bừng sắm sửa tiệc hoa
Bình trầm đưa khói, chén hà đậm hương
Giọng tình sánh với quỳnh tương
Giả say sinh mới toan đường lần khân
Thưa rằng: “Túc trái tiền nhân
Không dưng dễ xuống cõi trần làm chi
Song còn mấy bạn tương tri
Bấy lâu chưa có chút gì là đâu
Trước xin từ biệt cùng nhau
Chữ duyên này trở về sau còn dài”
Nghe lời nói cũng êm tại
Chiều lòng chi nỡ ép nài mưa mây
Trước sân mừng cuộc tỉnh say
Tiếng vui đãi nguyệt, tiệc bày đối hoa
Bóng mây bỗng kéo quanh nhà
Thảo am thoắt đã đổi ra lâu đài
Tường quang sáng một góc trời
Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao!
Người yểu điệu, khách thanh tạo
Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai
Lả loi bên nói bên cười
Bên mừng cố hữu, bên mời tân lang
Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha.

Đón đọc phân tích tác phẩm 🔽 Dương Phụ Hành 🔽

Tóm Tắt Tú Uyên Gặp Giáng Kiều

Các em học sinh có thể đón đọc mẫu tóm tắt tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều sau đây để nắm bắt nhanh chóng các ý chính của bài.

Tú Uyên gặp Giáng Kiều trong đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” của tác phẩm “Bích Câu kì ngộ”. Chàng thư sinh nghèo Trần Tú Uyên đem lòng tương tư nàng tiên nữ Giáng Kiều sau khi gặp được nàng trong một lần đi xem hội xuân. Tình yêu đó khiến chàng ôm mộng ngày đêm nhung nhớ và sớm khuya ôm mộng đến sinh bệnh, “chồn” cả người.

Một hôm, chàng trở về nhà và thấy cơm canh đã bày sẵn đầy đủ như “bát trân” và bắt gặp một người con gái trong tranh bước ra. Từ đó, chàng và Giáng Kiều đồng vợ đồng chồng chung sống hạnh phúc, vốn có duyên trời định “ba sinh” với nhau. Đoạn trích này thể hiện tình yêu chân thành, sắc sảo bằng những câu văn trữ tình, đậm nét dân tộc và phản ánh mong muốn về một cuộc sống tự do, không khó khăn, loạn lạc.

Về Tác Giả Tác Phẩm Tú Uyên Gặp Giáng Kiều

Xem thêm nội dung chia sẻ về tác giả tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều chi tiết nhất sau đây.

Tác Giả

  • Vũ Quốc Trân là người làng Đan Loan thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
  • Ông sinh sống tại phố Hàng Đào, Hà Nội.
  • Là người thông minh, học rộng tài cao, Vũ Quốc Trân được gọi là “ cụ Mền Đại Lợi” bởi ông đã từng đỗ mấy khoa tú tài.
  • Vũ Quốc Trân đã từng dạy học tại nhà, có rất nhiều người đến theo học ông, một số học trò của ông còn làm quan lớn trong triều.
  • Tương truyền rằng Vũ Quốc Trân chính là tác giả của tác phẩm truyện thơ Bích Câu kỳ ngộ.

Tác Phẩm

1. Cuộc gặp gỡ của Tú Uyên và Giáng Kiều

– Câu thơ đầu cho người đọc cảm nhận được gia cảnh nghèo khó của chàng thư sinh Tú Uyên. Mưa hoa khép cánh song hồ

+ Cha mẹ mất sớm, chàng một mình lủi thủi với căn nhà giữa hồ Bích Cầu.

+ Ngày đêm miệt mài đèn sách.

– Gặp gỡ dịp dạo chơi xuân, tình cờ gặp cô gái xinh đẹp như tiên nữ = > ôm mộng ngày đêm:

Sớm khuya với bức họa đồ làm đô
.. Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân!

+ Nỗi nhớ của Tú Uyên như “sông Tương mơ hình” (sông Tương là nơi hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh đã khóc thương chồng)

+ Tú Uyên mua được bức tranh nàng thiếu nữ với nét đẹp tựa như người chàng đang nhớ thương = > mua về treo để sớm khuya ôm mộng.

– Chàng nghĩ về người thiếu nữ ấy đến nỗi ngỡ người trong tranh “phát phu”, tưởng tượng người thiếu nữ trong tranh là người thật:

“Có khi hình ảnh cũng là phát phu”

+ Chàng ôm nhớ nhung đến “chồn” cả người – ốm yếu không còn cử động được.

+ Mong muốn “bẻ khóa cung trăng” để thấy được “chị Hằng” mà nàng ngày đêm mộng mị.

= > Nỗi niềm tương tư, tình cảm sâu nặng.

– Khi Tú Uyên bận công việc ở trường trở về muộn đã thấy cơm nước dọn sẵn

= > Chàng quyết định rình xem là ai.

+ Cơm canh tiếp đón không chỉ là cơm canh bình thường mà đầy đủ, sung túc như “bát trân”.

= > Quyết định rình thì thấy một nàng thiếu nữ bước ra từ trong tranh.

Sáng mai cứ buổi ra đi
Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi

Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên

= > Thỏa mỗi nhớ mong khi gặp được người trong mộng, mắt chàng rưng rưng “bên mừng bên lệ” thổ lộ tình cảm bấy lâu nay với thiếu nữ.

2. Kết duyên vợ chồng

– Khi được chàng thổ lộ, nàng tiên nữ e thẹn, ngại ngùng tự xưng là tiên nữ Giáng Kiều, vốn là người cõi tiên, vì có tiền duyên với chàng nên hạ phàm xuống đất:

Ba sinh đã nặng vì duyên /../
Làm chi cho bận lòng người lắm nao!

+ “Ba sinh” – mối nhân duyên tiền kiếp = > mối nhân duyên vợ chồng đến giờ mới được “tơ trăng” nhờ ân đức của “tiên quân” nên nàng ngỏ ý nguyện một lòng “tấm son” cùng chàng se mối nhân duyên này:

Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu”
Tấm son thề với trên đầu xanh xanh

= > Từ đó 2 vợ chồng chung sống hạnh phúc, thấu hiểu nhau.

+ Chim yến oanh bay theo từng đàn chúc phúc cho đôi trai tài gái sắc.

+ Trăng thanh, hoa nở mừng cho đôi uyên ương.

+ Nàng hóa phép ra lâu đài nguy nga, lộng lẫy có đủ người hậu kẻ hạ.

+ Thiên thời địa lợi nhân hòa chung đôi với vợ chồng.

+ “Vũ y”, “nghê thường” – quần áo, xiêm y lả lướt, thiết tha.

Đọc thêm tác phẩm 👉 Chí Khí Anh Hùng

Ý Nghĩa Tác Phẩm Tú Uyên Gặp Giáng Kiều

Tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều nói về mối tình đẹp của Tú Uyên và Giáng Kiều trong bối cảnh của kinh thành Thăng Long xưa nêu lên khát khao hạnh phúc lứa đôi và niềm hy vọng vào tình yêu mãnh liệt.

Bố Cục Tú Uyên Gặp Giáng Kiều

Xem thêm bố cục bài Tú Uyên gặp Giáng Kiều gồm 2 phần sau đây:

  • Phần 1: Từ đầu đến “xiết bao là tình” – Cuộc gặp gỡ của Tú Uyên và Giáng Kiều.
  • Phần 2: Còn lại – Kết duyên vợ chồng và khung cảnh ngày nên đôi.

Cập nhật cho bạn đọc bài 🌿 Thúy Kiều Báo Ân Báo Oán 🌿

Đọc Hiểu Tác Phẩm Tú Uyên Gặp Giáng Kiều

Để nắm bắt nội dung tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều nhanh nhất, các em học sinh hãy tham gia trả lời các câu hỏi trong phần đọc hiểu dưới đây.

👉 Câu 1: Tác giả của Tú Uyên gặp Giáng Kiều là:

A. Vũ Quần Phương
B. Vũ Quốc Trân
C. Vũ Nho
D. Vũ Đức Nguyên

Đáp án: B

👉 Câu 2: Thể loại của tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều là:

A. Truyện thơ Nôm
B. Thơ thất ngôn
C. Thơ tự do
D. Thất ngôn bát cú

Đáp án: A

👉 Câu 3: Nguồn gốc tác phẩm được lấy cảm hứng từ:

A. Câu chuyện hư cấu
B. Câu chuyện có thật trong lịch sử
C. Câu chuyện trong dân gian Việt Nam
D. Câu chuyện trong dân gian nước ngoài

Đáp án: C

👉 Câu 4: Tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều được trích trong

A. Tiễn dặn người yêu
B. Bích Câu kì ngộ
C. Duyên kì ngộ
D. Tú Uyên gặp Giáng Kiều

Đáp án: B

👉 Câu 5: Tác giả so sánh nỗi nhớ của chàng Tú Uyên với:

A. Trăng dưới nước
B. Sông Tương mơ hình
C. Lá thu rụng vàng
D. Nỗi buồn chiều thu

Đáp án: B

👉Câu 6: Điều bất thường gì sảy ra khi Tú Uyên mua bức tranh về treo trong nhà?

A. Một người muốn mua lại bức tranh
B. Bức tranh bị trộm mất
C. Khi chàng đi học về luôn thấy cơm canh bày sẵn
D. Đáp án khác

Đáp án: C

👉 Câu 7: Khung cảnh trước khi nàng Giáng Kiều làm phép được miêu tả:

A. “ruột héo, gan mòn”
B. “nhắp sầu gối muộn có ngày nào nguôi”
C. “ngày tưởng đêm mơ đã chồn”
D. Tất cả các đáp án trên

Đáp án: D

👉 Câu 8: Khung cảnh sau khi nàng Giáng Kiều làm phép được miêu tả:

A. Khung cảnh nhộn nhịp, vui vẻ
B. Khung cảnh ủ rũ cô đơn
C. Khung cảnh trống trải
D. Khung cảnh lãng mạn

Đáp án: A

👉 Câu 9: Nhân vật Giáng Kiều được miêu tả như thế nào?

A. Mang vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành
B. Hết lòng vì chồng vì con
C. Vị tha, bao dung
D. Tất cả các đáp án trên

Đáp án: D

👉 Câu 10: Thông điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc là gì?

A. Hãy không ngừng tìm kiếm tình yêu đích thực
B. Không nên tin vào những điều thần kì trong cuộc sống
C. Hãy trân trọng hiện tại
D. Tất cả các đáp án trên

Đáp án: C

Đừng bỏ lỡ tác phẩm🌻 Cà Mau Quê Xứ 🌻

Giá Trị Tác Phẩm Tú Uyên Gặp Giáng Kiều

Cập nhật thông tin về giá trị tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều dựa trên hai khía cạnh nội dung và nghệ thuật sau đây.

  • Giá trị nội dung: Tú Uyên gặp Giáng Kiều – câu chuyện cổ tích nói về câu chuyện chàng trai Tú Uyên thầm yêu cô gái Giáng Kiều xinh đẹp và sau đó là chuỗi ngày tìm đến nhau tìm hạnh phúc của đôi trẻ.
  • Giá trị nghệ thuật: Thơ lục bát được tác giả sử dụng để diễn tả chân thực về câu chuyện trong sự kiện lịch sử của nhân loại dân gian Việt Nam được lưu truyền từ lâu đời. Tác phẩm được trích trong Bích Câu kì ngộ trở thành một tác phẩm nổi tiếng về truyện Nôm, góp phần quảng bá di sản văn hóa dân tộc, truyền thống của đất nước.

Sơ Đồ Tư Duy Tú Uyên Gặp Giáng Kiều

Những mẫu sơ đồ tư tuy Tú Uyên gặp Giáng Kiều được biên soạn đầy đủ ý, bám sát nội dung sau đây sẽ giúp các em học sinh ôn tập tốt.

Mẫu Sơ Đồ Tư Duy Tú Uyên Gặp Giáng Kiều
Mẫu Sơ Đồ Tư Duy Tú Uyên Gặp Giáng Kiều
Sơ Đồ Tư Duy Tú Uyên Gặp Giáng Kiều Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Tú Uyên Gặp Giáng Kiều Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Tú Uyên Gặp Giáng Kiều
Sơ Đồ Tư Duy Tú Uyên Gặp Giáng Kiều

Dàn Ý Tú Uyên Gặp Giáng Kiều

Tham khảo mẫu dàn ý Tú Uyên gặp Giáng Kiều được chia sẻ sau đây để giúp các em triển khai bài văn logic nhất.

I. Mở bài: Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm

II. Thân bài

  • Hoàn cảnh của Tú Uyên và giây phút gặp được người trong mộng
  • Nỗi nhớ ngày càng da diết, ngày đêm ôm mộng tương tư. Khi gặp bức tranh giống hệt với người thiếu nữ mình từng gặp, chàng mua về ngày ngày bầu bạn.
  • Điều bất thường xảy ra khi chàng đi học về thì đã thấy cơm canh bày sẵn.
  • Chàng quyết định theo dõi một phen thì bắt gặp người thiếu nữ bước ra từ trong tranh.
  • Trò chuyện giữa chàng và nàng và sự định mệnh của họ.
  • Cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn của đôi uyên ương.

III. Kết bài: Xác nhận giá trị nghệ thuật và nội dung của tác phẩm.

Xem thêm tác phẩm 👉 Cải Ơi (Nguyễn Ngọc Tư)

Soạn Bài Tú Uyên Gặp Giáng Kiều Lớp 11

Dưới đây là phần hướng dẫn soạn bài Tú Uyên gặp Giáng Kiều chi tiết nhất, các em học sinh hãy đón đọc ngay nhé.

👉 Câu 1 (trang 67 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1): Dựa vào tóm tắt, cho biết cốt truyện của Bích Câu kì ngộ được xây dựng theo mô hình nào.

Trả lời: Cốt truyện của Bích Câu kì ngộ được xây dựng theo mô hình: Gặp gỡ – Tai biến – Đoàn tụ.

👉 Câu 2 (trang 67 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1): Chỉ ra chi tiết có vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung văn bản.

Trả lời: Chi tiết có vai trò quan trọng: Tú Uyên gặp được Giáng Kiều – người trong mộng.

👉 Câu 3 (trang 67 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1): Phân tích đặc điểm của nhân vật Tú Uyên và Giáng Kiều thể hiện qua đoạn trích.

Trả lời:

– Tú Uyên: Thư sinh mồ côi cha mẹ, chuyên tâm đọc sách. Chàng vốn không tin vào thần tiên nhưng kể từ khi gặp Giáng Kiều chàng ngày đêm ôm mộng, mong nhớ.

– Giáng Kiều: Tiên nữ xinh đẹp, có tấm lòng bao dung.

👉 Câu 4 (trang 67 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1): Nhận xét về cách thể hiện thái độ, tình cảm của nhân vật Giáng Kiều qua lời thoại dưới đây:

Thưa rằng: “Túc trái tiền nhân
Không dưng dễ xuống cõi trần làm chi
Song còn mấy bạn tương tri
Bấy lâu chưa có chút gì là đâu
Trước xin từ biệt cùng nhau
Chữ duyên này trở về sau còn dài”?

Trả lời:

– Thái độ: Hy vọng tình cảm này sẽ duy trì và phát triển.

– Tình cảm: Sự thương mến, ái mộ thủy chung son sắt.

👉 Câu 5 (trang 68 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1): Dấu hiệu nào trong văn bản cho thấy đây là truyện thơ Nôm bác học?

Trả lời: Dấu hiệu cho thấy văn bản thuộc truyện thơ Nôm bác học là:

– Lấy cảm hứng từ những sự tích lịch sử trong dân gian Việt Nam, được viết dưới dạng thơ lục bát.

– Xoay quanh đề tài tình yêu, có sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình.

– Có chất lượng nghệ thuật cao khi nói đến hình ảnh Giáng Kiều.

👉Câu 6 (trang 68 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1): Thông điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc là gì?

Trả lời: Thông điệp:

+ Trân trọng những điều hiện tại trong cuộc sống.

+ Kiên trì, tin tưởng vào tình yêu của mình nhất định sẽ có được hạnh phúc.

Đọc thêm truyện thơ 👉 Nàng Ờm Nhắn Nhủ

Giáo Án Tú Uyên Gặp Giáng Kiều Lớp 11

Cập nhật thêm cho các thầy cô giáo mẫu giáo án tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều chuẩn nhất sau đây.

I. MỤC TIÊU

1. Mức độ/ yêu cầu cần đạt

– Nhận diện và phân tích được cốt truyện trong văn bản Tú Uyên gặp Giáng Kiều

– Xác định và phân tích được nhân vật chính trong văn bản.

– Xác định được ngôn ngữ trong truyện thơ.

– Phân tích được nỗi xót thương và niềm đau khổ tuyệt vọng của cô gái khi chồng mình trở nên nghiện rượu.

– Xác định và phân tích được sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình, cách thể hiện tâm trạng nhân vật.

2. Năng lực

a. Năng lực chung

– Năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác…

b. Năng lực riêng biệt

– Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản.

– Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về văn bản.

– Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về thành tựu nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa văn bản.

3. Phẩm chất

– Giúp học sinh rèn luyện bản thân phát triển các phẩm chất tốt đẹp: Biết trân trọng tình cảm và sự đoàn tụ gia đình.

II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU

1. Chuẩn bị của giáo viên

– Giáo án;

– Phiếu bài tập, trả lời câu hỏi;

– Tranh ảnh về nhà văn, hình ảnh;

– Bảng phân công nhiệm vụ cho học sinh hoạt động trên lớp;

– Bảng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở nhà;

2. Chuẩn bị của học sinh

SGK, SBT Ngữ văn 11, soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài, vở ghi.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

A. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG

a. Mục tiêu: Tạo hứng thú cho HS, thu hút HS sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập của mình. HS khắc sâu kiến thức nội dung bài học.

b. Nội dung: GV đặt cho HS những câu hỏi gợi mở vấn đề.

c. Sản phẩm: Nhận thức và thái độ học tập của HS.

d. Tổ chức thực hiện:

– GV dẫn dắt vào bài học mới: Bài học Tú Uyên gặp Giáng Kiều ngày hôm nay sẽ giúp chúng ta tìm hiểu kĩ hơn về tình cảm nam nữ và hạnh phúc gia đình.

B. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC

Hoạt động 1: Đọc văn bản

a. Mục tiêu: Nắm được những thông tin về tác phẩm.

b. Nội dung: HS sử dụng SGK, chắt lọc kiến thức để tiến hành trả lời câu hỏi.

c. Sản phẩm học tập: HS tiếp thu kiến thức và câu trả lời của HS.

d. Tổ chức thực hiện:

HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HSDỰ KIẾN SẢN PHẨM
Bước 1: chuyển giao nhiệm vụ
– GV yêu cầu HS: đọc và giới thiệu về tác giả Vũ Quốc Trân và tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều.
– GV hướng dẫn cách đọc. GV đọc mẫu thành tiếng một đoạn đầu, sau đó HS thay nhau đọc thành tiếng toàn VB.
– HS lắng nghe.
Bước 2: HS trao đổi thảo luận, thực hiện nhiệm vụ
– HS nghe và đặt câu hỏi liên quan đến bài học.
Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận
– HS trình bày sản phẩm thảo luận
– GV gọi hs nhận xét, bổ sung câu trả lời của bạn
.Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
– GV nhận xét, bổ sung, chốt lại kiến thức → Ghi lên bảng.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả– Vũ Quốc Trân (? – ?)
– Quê: người làng Đan Loan, huyện Bình Giang, tỉnh (Hải Dương); nhưng sống ở phường Đại Lợi (một phần phố Hàng Đào thuộc Hà Nội ngày nay) vào khoảng giữa thế kỷ 19.
2. Tác phẩm– Bích Câu kỳ ngộ nguyên là một tiểu thuyết bằng chữ Hán, trích Tiễn dặn người yêu – Xống chụ xon xao, NXB Văn học, Hà Nội, năm 1973.

Đón đọc phân tích 🔽 Gió Thanh Lay Động Cành Cô Trúc 🔽

5+ Mẫu Phân Tích Tú Uyên Gặp Giáng Kiều Hay Nhất

Tổng hợp những mẫu phân tích Tú Uyên gặp Giáng Kiều hay nhất để các em học sinh trau dồi và rèn luyện thêm kĩ năng viết hay hơn.

Phân Tích Đoạn Trích Tú Uyên Gặp Giáng Kiều Đặc Sắc

Câu chuyện bắt đầu với việc Tú Uyên, một chàng trai trẻ, sống trong một cuộc sống bình dị và đầy tương tư. Từ khi gặp người con gái trong mộng ở Ngọc Hồ, tình cảm của Tú Uyên dành cho cô đã trở nên ngày càng da diết và mãnh liệt. Mọi ngày, anh ôm ấp mộng tương tư và khao khát gặp lại người con gái đó.

Một ngày, điều bất thường xảy ra khi Tú Uyên quyết định rình xem người trong tranh. Anh thấy cơm canh đã được bày sẵn và cuộc sống của anh bắt đầu trở nên thay đổi từ đó. Từ một bức tranh, một thiếu nữ bước ra, và cuộc đối thoại giữa Tú Uyên và Giáng Kiều đã diễn ra. Đây chính là sự gặp gỡ của hai linh hồn đã định sẵn cho nhau, và mối nhân duyên trời định đã thực hiện

Tú Uyên và Giáng Kiều sau khi đoàn tụ đã tạo nên một cuộc sống hạnh phúc viên mãn. Mọi thứ trong cuộc sống của họ trở nên khác biệt, từ ngôi nhà biến thành lâu đài nguy nga, quần áo và bữa cơm luôn được bày sẵn. Cuộc sống của họ đánh thức niềm tin vào tình yêu và những điều kỳ diệu của định mệnh.

Tác phẩm “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” không chỉ là một câu chuyện tình yêu đầy cảm xúc mà còn là một tác phẩm nghệ thuật đầy giá trị. Đây là một minh chứng cho sự hiệu quả của việc thể hiện nội dung qua ngôn ngữ và từng chi tiết nhỏ trong văn bản. Tác giả Vũ Trọng Phụng đã thành công trong việc kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình để tạo ra một câu chuyện đầy ấn tượng và lôi cuốn.

Cuối cùng, câu chuyện này khẳng định rằng tình yêu có thể thay đổi cuộc sống của chúng ta và mang lại hạnh phúc thật sự. Nó là một lời nhắc nhở cho chúng ta rằng đôi khi, những điều kỳ diệu xảy ra khi chúng ta ít ngờ nhất, và tình yêu luôn có thể thắng trước mọi khó khăn.

Hướng dẫn 👉 Viết Bài Văn Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Văn Học

Phân Tích Truyện Thơ Tú Uyên Gặp Giáng Kiều Siêu Hay

Nói đến truyện thơ Nôm “Bích Câu kì ngộ”, nhiều ý kiến cho rằng tác phẩm vẫn chứa đựng sức hấp dẫn với nhân dân bao đời này bởi đây là một truyện thơ Nôm thuần Việt. Từ những địa danh đến tên người đều đậm chất Việt Nam. Trên bối cảnh của kinh thành Thăng Long xưa, tác giả đã khắc họa mối tình đẹp của Tú Uyên và Giáng Kiều. Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” kể về nỗi tương tư của chàng thư sinh và cuộc gặp mặt bất ngờ của Tú Uyên với người trong mộng.

Chàng thư sinh nghèo Tú Uyên cũng tới Thăng Long để học tập. Khi đi chơi hội chùa Ngọc Hồ, Tú Uyên đã vô tình gặp Giáng Kiều và say đắm nàng nhưng chưa kịp ngỏ lời làm quen thì cô gái đẹp đã biến mất. Về sau, Tú Uyên gặp một ông lão bán tranh tố nữ, thấy có một bức họa giống hệt người con gái đã gặp dạo trước nên bèn mua tranh về nhà treo. Càng ngày Tú Uyên càng nhung nhớ Giáng Kiều, mải mê ngắm bức tranh:

Mưa hoa khép cánh song hồ
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa

Mở đầu đoạn trích là khung cảnh nên thơ ở “song hồ” – nơi cậu học trò nghèo Tú Uyên đọc sách và tương tư về người trong mộng. Cụm từ “Sớm khuya” cho thấy vòng thời gian tuần hoàn, liên tục. Từ khi gặp Giáng Kiều, Tú Uyên mong nhớ không lúc nào nguôi.

Chàng quên hết thời gian và không gian xung quanh, chỉ ngắm nhìn bức họa cả ngày lẫn đêm. Nỗi nhớ da diết và mãnh liệt đến mức Tú Uyên cảm tưởng như người con gái trong tranh đang thực sự đứng trước mặt mình. Niềm tương tư được thể hiện ở hành động cụ thể. Cặp số từ “một” – “hai” cùng với các từ “chung”, “thêm” cho thấy thái độ trân trọng, nâng niu của Tú Uyên dành cho bức chân dung Giáng Kiều. Kể cả khi ăn, chàng cũng ngồi trước bức tranh và tưởng tượng người trong mộng đang đứng trước mặt nên làm thơ, mời rượu.

Tưởng gần thôi lại nghĩ xa
Có khi hình ảnh cũng là phát phu
Êm trời vừa tiết trăng thu
Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng
Chiều thu như gợi tấm thương
Lòng người trông xuống sông Tương mờ hình

Cặp từ đối lập “gần” – “xa” cùng hai động từ “tưởng” và “nghĩ” thể hiện niềm thương nhớ trào dâng đến bứt rứt trong cõi lòng. Tú Uyên bầu bạn với bức tranh cho khuây khỏa nhưng càng ngắm tranh lại càng nhớ nàng. Bức họa quá đẹp khiến chàng trai đã ngỡ như người thiếu nữ đang kề cạnh rất gần nhưng thực chất khoảng cách vẫn quá xa xôi.

Những hình ảnh thiên nhiên như “trăng thu”, “Ngàn sương”, “lá khô” khắc họa nên khung cảnh thiên nhiên yên bình, nên thơ. Dưới ánh trăng mùa thu dịu dàng, màn sương mỏng giăng giăng khắp lối tựa như rắc muôn ngàn ánh bạc xuống nhân gian, thảm lá vàng phủ kín khoảnh sân. Thiên nhiên hòa hợp với tâm trạng con người. Trong văn học, buổi chiều là khoảng thời gian đi liền với nỗi nhớ. Ca dao xưa từng nhiều lần diễn đạt nỗi nhớ nhung rất ý nhị, ngọt ngào:

Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai

Với Tú Uyên, chiều thu cũng gợi niềm thương nỗi nhớ. Chàng thư sinh đã gửi lòng mình trôi theo dòng nước sông Tương, chìm vào cõi mộng mơ vì quá đỗi say mê bóng dáng nàng thiếu nữ. Hình ảnh sông Tương trong câu thơ gắn với điển tích khi Vua Thuần mất, hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh cùng khóc thảm thiết trên sông Tương. Từ đó, đây trở thành dòng sông biểu trưng cho nỗi nhớ:

Sông Tương ai gọi rằng sâu
Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta
Sông Tương sâu hãy còn có đáy
Bệnh tương tư không bảy không bờ

Hướng về thiên nhiên, thiên nhiên càng khắc sâu sự thương nhớ, trông mong nên Tú Uyên lại quay về giãi bày với chính mình và tâm sự với bức tranh:

Kề bên năn nỉ bày tình
Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa
Từ phen giáp mặt đến giờ
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn
Ấy ai điểm phấn tô son
Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?

Động từ “năn nỉ” thể hiện sự cồn cào, khao khát được giãi bày tình cảm mãnh liệt của Tú Uyên. Tú Uyên trải lòng về hoàn cảnh của chính mình và về tình yêu. Cặp từ đối lập “ngày” – “đêm” đi liền với hai từ “tưởng”, “mơ” thể hiện nỗi nhớ thường trực, không lúc nào ngơi nghỉ mà luôn cuộn xoáy trong tâm trí chàng trai. “đã chồn” tức là quá mệt mỏi, Tú Uyên nhớ nhung Giáng Kiều đã trở thành “bệnh tương tư”. Lời thơ dường như một lời than van, trách móc rất tình tứ. Tú Uyên trách thiếu nữ vì sao lại “điểm phấn tô son” để người quân tử “ruột héo gan mòn”. Tiếng “ai” được lặp lại hai lần, vừa chỉ đối phương vừa chỉ chính mình, đồng nhất hai con người và cũng là hai đầu nỗi nhớ

Tình yêu luôn chứa đựng sức mạnh diệu kì khiến con người có thể đánh đổi tất cả để có được nó. Tú Uyên cũng vậy, chàng đã lấy “Nghìn vàng” và “cung trăng” để thể hiện tình yêu:

Buồng đào nửa bước chẳng rời
Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?
Rày xin bẻ khoá cung trăng
Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nao!

Tú Uyên nhớ Giáng Kiều đến mức tách mình với thế giới bên ngoài, không rời căn buồng nửa bước. Chàng xin được đổi nghìn vàng để lấy nụ cười của nàng. Chữ “nghìn” chỉ nỗi nhớ đằm sâu, không gì so sánh được. Câu thơ là một câu hỏi tu từ, có tác dụng nhấn mạnh tình cảm của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Không chỉ vậy, chàng còn muốn mở khóa cung trăng để lại được chiêm ngưỡng dung mạo của nàng, vượt qua giới hạn của không gian và thời gian.

Bằng những điển tích, hình ảnh thiên nhiên giàu tính ước lệ, các cặp từ đối lập, cùng câu hỏi tu từ, đoạn thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết, tình yêu mãnh liệt mà Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Tình yêu ấy là biểu tượng cho khát khao hạnh phúc, thoát khỏi thực tại buồn bã của con người.

Tiếp đến là những câu thơ thuật lại sự việc khi Tú Uyên và Giáng Kiều gặp nhau:

So xem phong vị khác thường

Này người khi trước đâu mà đến đây?

Một hôm, Tú Uyên đi học, khi trở về đã thấy trong nhà có cơm canh bày sẵn. Bữa cơm ấy có “phong vị khác thường”, tỏa hương thơm như hoa ngọt ngào. Tú Uyên thấy lạ, lòng nảy sinh mối nghi ngờ. Sáng hôm sau, Tú Uyên vờ đi ra ngoài và bất ngờ trở về thì bắt gặp người con gái có dung mạo vô cùng xinh đẹp từ trong tranh bước ra. Trước sự việc ấy, Tú Uyên quá hạnh phúc khi gặp được người trong mộng nên đã hành động vội vã: “Vội vàng đánh tiếng ra chào”. Chi tiết “Bên mừng bên lệ” cho thấy cảm xúc rối rời, hạnh phúc đến mức rơi lệ.

Đáp lại lời chào hỏi từ Tú Uyên, Giáng Kiều cũng e thẹn giới thiệu về mình. Sự xuất hiện của Giáng Kiều khiến ta liên tưởng đến hình ảnh những nàng tiên, cô Tấm trong truyện cổ dân gian Việt Nam rất mực hiền thục, có tấm lòng thơm thảo. Giáng Kiều cũng là cô gái như vậy. Lời nói của nàng toát lên vẻ đoan trang, dịu dàng:

Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường

Đoá hoa biết mặt chúa xuân từ rày”

Nàng tự nhận là thân “bồ liễu” mỏng manh, vốn là “khách thanh tiêu” trên trời, có hiệu là Tiên Thù, tên gọi là Giáng Kiều. Vì mối “tơ điều” đã gắn kết nàng và Tú Uyên nên “Ba sinh đã nặng vì duyên”. Qua lời nói của Giáng Kiều có thể thấy mối tình Uyên – Kiều là mối thiên duyên tiền định, được sự đồng thuận của trời đất. Lắng nghe lời nói của Giáng Kiều, Tú Uyên cũng bày tỏ những tâm tư đã chồng chất trong lòng bấy lâu: “ Nhắp sầu gối muộn có ngày nào nguôi? ”.

Không chỉ có dung nhan xinh đẹp, lời nói ngọt ngào, phẩm cách trang nhã mà Giáng Kiều còn là người phụ nữ có tấm lòng thủy chung, son sắt trong tình yêu và có ý thức cao độ về danh dự của mình:

Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu

Làm chi để tiếng sờ sờ lại sau!

Tác giả đã vận dụng điển tích kén rể của vua Hán Vũ Đế cho công chúa ngồi trên lầu cao ném quả cầu xuống, ai bắt được cầu thì lấy người ấy để thể hiện tấm lòng mà Giáng Kiều dành cho Tú Uyên. Hai từ “quyết” và “thề” được đặt ở hai dòng thơ liền nhau cho thấy thái độ nghiêm túc, trang trọng của Giáng Kiều khi nói về hôn nhân, hạnh phúc.

Nàng khẳng định tấm lòng trinh bạch của mình khác xa với “thói yến oanh” ham vui và ngắn ngủi. Cặp từ đối lập “mặn” – “nhạt”, “trăng gió” (hời hợt) – “lửa hương” (mặn nồng) được đặt trong cùng một câu thơ càng khẳng định vẻ đẹp phẩm chất của cô gái và tấm lòng chung thủy trong tình yêu. Những điển tích điển cố như “Gieo thoi”, “Mái Tây” thể hiện ý thức giữ gìn tình yêu của người con gái.

Thưa rằng: “Túc trái tiền nhân

Chữ duyên này trở về sau còn dài”

Giáng Kiều đã vận đến “tiền nhân” – duyên nợ từ kiếp trước để nói về lí do nàng xuống trần. Từ trong thâm tâm, Giáng Kiều đã thực sự coi Tú Uyên là “bạn tương tri”. Mối quan hệ tri âm, tri kỉ xưa nay dễ gì bị phai nhạt bởi khoảng cách nên nàng đã hứa “Chữ duyên này trở về sau còn dài”. Nét đẹp của Giáng Kiều nằm ở sự thông minh, khéo léo, tế nhị và tấm lòng trước sau như một.

Sau cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa Tú Uyên và Giáng Kiều là khung cảnh hạnh phúc của đôi uyên ương. Giáng Kiều đã “rút chiếc trâm đầu”, hóa phép tiên để thay đổi khung cảnh xung quanh:

Thảo am thoắt đã đổi ra lâu đài

Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha

Chỉ trong phút chốc, lều cỏ đã hóa thành lâu đài. Vầng dương quang bao phủ rực rỡ, sáng cả một góc trời. Kẻ vào người ra tấp nập, ai nấy cũng thanh tao, lịch lãm. Các từ láy “Nhởn nhơ”, “Lả lơi”, “Đong đưa” cùng động từ “nói, cười”, “đua”, “khoe” đã diễn tả tâm trạng vui tươi, say trong men rượu của quan khách và gia chủ.

Như vậy, đoạn trích bao gồm nỗi nhớ của Tú Uyên với dáng Kiều, cuộc gặp gỡ của đôi uyên ương chính là biểu hiện cho khát khao hạnh phúc lứa đôi và niềm hy vọng vào tình yêu mãnh liệt. Thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, hệ thống các từ láy giàu tính biểu đạt, các điển tích điển cố, những hình ảnh thiên nhiên ước lệ tượng trưng đã góp phần làm nên thành công cho tác phẩm.

Xem thêm 👉 Viết Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Văn Học 

Phân Tích Tú Uyên Gặp Giáng Kiều Ngắn Gọn

“Bích Câu kì ngộ” của Vũ Quốc Trân là truyện Nôm xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Câu chuyện kể về một chàng thư sinh tên là Trần tú Quyên gặp nàng Giáng Kiều ở đất Bích Câu và cùng nhau se sợi tơ duyên hạnh phúc. Đoạn trích “Tú Uyên gặp dáng kiều” nói về hoàn cảnh khiến chàng và nàng gặp nhau rồi kết duyên đôi lứa.

Câu thơ đầu đã cho người đọc cảm nhận được gia cảnh nghèo khó của chàng thư sinh Trần Tú Uyên.

Mưa hoa khép cánh song hồ

Cuộc đời thật nghiệt ngã với chàng khi cha mẹ chàng mất sớm, chàng một mình lủi thủi với căn nhà giữa hồ Bích Cầu, ngày đêm miệt mài đèn sách. Trong dịp dạo chơi xuân, tình cờ chàng trông thấy một người con gái xinh đẹp như tiên nữ giáng trần, chàng luôn dõi theo sau được một quãng thì nàng biến mất không rõ tung tích. Từ đó, chàng ôm tương tư mà ngày đêm nhung nhớ.

Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa

Cho hay tình cũng là chung
Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân!

Tác giả miêu tả nỗi nhớ của chàng như “sông Tương mơ hình”, sông Tương là nơi hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh đã khóc thương chồng, nay đó là nơi trĩu nặng tương tư của nhân vật. Rồi một ngày, Tú Uyên mua được một bức tranh nàng thiếu nữ với nét đẹp tựa như người chàng đang thương nhớ, chàng mua về treo trong nhà để “sớm khuya” ôm mộng.

Chàng nghĩ về người thiếu nữ ấy đến nỗi ngỡ người trong tranh “phát phu”, tưởng tượng người thiếu nữ trong tranh là người thật. Chàng ôm nhung nhớ đến “chồn” cả người, chồn ở đây có nghĩa là ốm yếu, không còn cử động được, chàng nhớ nàng đến mất ăn mất ngủ. Đến nỗi chàng còn ao ước “bẻ khóa cung trăng” để thấy được “chị Hằng” mà chàng ngày êm mộng mị. Có thể thấy nỗi niềm tương tư, tình cảm của chàng thật sâu nặng giống như xuân Diệu đã từng viết bài thơ “Vấn vương”:

Anh chả hiểu vì sao vấn vương
Năm năm, như mấy chục năm trường
Vẫn là mắt mấy, làn môi ấy
Anh hãy còn thương, chẳng hết thương.

Một quãng thời gian sau, một hôm Tú Uyên bận công việc ở trường trở về nhà trời đã muộn thì thấy cơm nước được dọn sẵn. Không khỏi thắc mắc, chàng quyết định rình xem người bấy lâu nay chăm sóc, phục vụ bữa cơm miếng nước cho chàng là ai:

Một khi ra việc trường văn
Trở về đã thấy bát trân sẵn sàng
So xem phong vị khác thường
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngọt ngào
Bếp trời sẵn đó hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!

Cơm canh tiếp đón không chỉ là cơm canh bình thường mà đầy đủ, sung túc như “bát trân”. Bát trên là mâm cơm với 6 món ăn quý giá, chàng không tin vào mắt mình, chắc hẳn chỉ có “bếp trời” mới làm được như vậy. Chàng quyết định rình một phen thì thấy một nàng thiếu nữ từ trong tranh bước ra:

Sáng mai cứ buổi ra đi
Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi
Trong tranh sao có bóng người vào ra?


Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường
Vì mang má phấn nên vương tơ điều
Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu
Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên

Thỏa nỗi nhớ mong khi gặp được người trong mộng, mắt chàng rưng rưng “bên mừng bên lệ” thổ lộ tình cảm bấy lâu nay với thiếu nữ. Người tiên nữ e thẹn, ngại ngùng tự xưng là tiên nữ Giáng Kiều, vốn là người cõi tiên, vì có tiền duyên với chàng nên hạ phàm xuống đất:

Ba sinh đã nặng vì duyên
Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ
Nhân duyên đã định từ xưa
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân

Đã rằng: tác hợp duyên trời
Làm chi cho bận lòng người lắm nao!

“Ba sinh” ở đây chính là mối nhân duyên tiền kiếp của chàng và nàng. Mối nhân duyên vợ chồng đến bây giờ mới được “tơ trăng” nhờ ân đức của “tiên quân”, nên nàng ngỏ ý nguyện một lòng “tấm son” cùng chàng se mối nhân duyên này:

Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu”
Tấm son thề với trên đầu xanh xanh

Từ đó hai vợ chồng chung sống hạnh phúc, thấu hiểu nhau. Chim yến oanh bay theo từng đàn chúc phúc cho đôi trai tài gái sắc, trăng thanh, hoa nở mừng cho mối lương duyên này. Nàng hoa phép ra lâu đài nguy nga, lộng lẫy có đầy đủ kẻ hầu người hạ. Thiên thời địa lợi nhân hòa chung vui với đôi vợ chồng, “Vũ y”, Nghê thường” hay chính là quần áo, xiêm y lả lướt, thiết tha.

Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha.

Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” mang âm hưởng dân tộc rõ nét, bút pháp nghệ thuật tài tình trong xây dựng hình tượng nhân vật khi kết hợp tả cảnh với tả tình. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán mang nét mộng tưởng hoang đường về tình yêu. Ẩn chứa trong đó là tâm nguyện của tác giả về một vấn đề len lỏi trong xã hội. Đó là cái nhìn phê phán của tác giả về một xã hội loạn lạc, khó khăn, khiến con người ta muốn thoát ly khỏi thế giới thực tại. Mặt khác, tác phẩm cũng hướng cho con người giải tỏa, cải cách tâm hồn thoát khỏi Nho giáo, tiến đến Phật giáo và Đạo giáo.

Xem thêm cách 👉 Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Truyện Kể

Phân Tích Tú Uyên Gặp Giáng Kiều Hay Nhất

“Bích Câu kì ngộ” dịch là “Cuộc gặp gỡ kì diệu tại Bích Câu.” Tên “Bích Câu” trong tiêu đề đề cập đến một địa điểm văn hóa nổi tiếng ở kinh thành Thăng Long xưa. Đó là nơi thường xuyên được các vua và quý tộc thăm viếng, cũng là trung tâm hội tụ của các danh nhân và học giả. Tú Uyên, một người thư sinh nghèo, cũng đến Thăng Long để học tập.

Một lần, khi anh đang tham quan chùa Ngọc Hồ, Tú Uyên tình cờ gặp Giáng Kiều và ngay lập tức bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của cô, nhưng trước khi anh kịp làm quen, cô gái tuyệt đẹp này đã biến mất. Sau đó, Tú Uyên tình cờ thấy một người bán tranh tranh tố nữ, và trên một bức tranh, anh nhận ra hình ảnh giống hệt người con gái mà anh đã gặp trước đó. Từ đó, Tú Uyên bị cuốn hút bởi ký ức về Giáng Kiều và dành nhiều thời gian để ngắm nhìn bức tranh đó.

Mưa hoa khép cánh song hồ
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa

Mở đầu đoạn trích, chúng ta được đưa vào không gian tĩnh lặng của “song hồ,” nơi chàng học trò nghèo Tú Uyên đọc sách và tưởng tượng về người mình yêu. Cụm từ “Sớm khuya” thể hiện sự tuần hoàn không ngừng của thời gian, nhấn mạnh sự liên tục. Từ khi gặp Giáng Kiều, Tú Uyên không ngừng nhớ về cô và không thể quên. Anh đã quên hết mọi thứ xung quanh, chỉ tập trung vào việc ngắm nhìn bức tranh cả ngày lẫn đêm.

Nỗi nhớ của anh đối với Giáng Kiều mạnh mẽ đến mức anh cảm thấy như cô gái trong bức tranh thật sự hiện diện trước mắt. Sự tương tư này được thể hiện qua các hành động cụ thể của Tú Uyên. Cặp số “một” và “hai” cùng với các từ “chung” và “thêm” thể hiện sự quý trọng và yêu quý của Tú Uyên đối với bức tranh của Giáng Kiều. Thậm chí, khi ăn, anh cũng ngồi trước bức tranh và tưởng tượng rằng người trong mộng đang đứng trước mặt anh, thế nên anh viết thơ và mời rượu để kỷ niệm.

Tưởng gần thôi lại nghĩ xa
Có khi hình ảnh cũng là phát phu
Êm trời vừa tiết trăng thu
Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng
Chiều thu như gợi tấm thương
Lòng người trông xuống sông Tương mờ hình

Cặp từ đối lập “gần” và “xa,” cùng với hai động từ “tưởng” và “nghĩ,” thể hiện sự thấu hiểu và niềm nhớ thương dâng trào trong trái tim của Tú Uyên. Anh thú vui trong việc tiếp xúc với bức tranh nhưng mỗi lần anh nhìn vào nó, niềm nhớ về Giáng Kiều lại càng sâu sắc. Bức tranh đẹp đến mức khiến anh cảm nhận như cô gái đang ở rất gần, nhưng thực tế, khoảng cách vẫn còn rất xa.

Các hình ảnh thiên nhiên như “trăng thu,” “Ngàn sương,” và “lá khô” tạo ra bức tranh hùng vĩ về thiên nhiên, tràn đầy sự thơ mộng. Dưới ánh trăng mùa thu dịu dàng, màn sương mỏng mơ lan tỏa khắp nơi như đang rải đàn bạc xuống thế gian, tạo nên một tấm thảm đầy lá vàng bao phủ cả khoảnh sân. Sự hòa quyện giữa thiên nhiên và tâm trạng của con người được tạo nên. Trong văn học, buổi chiều thường liên quan đến nỗi nhớ, và những dòng thơ này thể hiện tình cảm niềm nhớ một cách ngọt ngào và đầy ý nghĩa.

Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai

Với Tú Uyên, chiều thu mang đến cảm giác thương và nhớ về tình yêu. Chàng thư sinh đã đánh mất mình trong dòng nước sông Tương, mê mải tưởng tượng về hình ảnh của nàng thiếu nữ đẹp đẽ. Hình tượng sông Tương liên quan đến một truyền thuyết nổi tiếng, khi Vua Thuần mất đi và hai người vợ của ông, Nga Hoàn và Nữ Anh, đã khóc thảm trên bờ sông Tương. Từ đó, sông Tương trở thành biểu tượng của sự nhớ nhung:

Sông Tương ai gọi rằng sâu
Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta
Sông Tương sâu hãy còn có đáy
Bệnh tương tư không bảy không bờ

Hướng về thiên nhiên, thiên nhiên càng khắc sâu sự thương nhớ, trông mong nên Tú Uyên lại quay về giãi bày với chính mình và tâm sự với bức tranh:

Kề bên năn nỉ bày tình
Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa
Từ phen giáp mặt đến giờ
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn
Ấy ai điểm phấn tô son
Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?

Động từ “năn nỉ” thể hiện sự cảm thấy quyết tâm và khao khát của Tú Uyên khi muốn thể hiện tình cảm sâu sắc của mình. Tú Uyên trải lòng về tình yêu của mình và hoàn cảnh cá nhân. Sự đối lập giữa “ngày” và “đêm” liên quan đến việc suy tưởng và ảo mộng về tình yêu, thể hiện nỗi nhớ không ngừng nghỉ và luôn hiện hữu trong tâm trí của anh.

Từ “đã chồn” thể hiện sự mệt mỏi và nỗi nhớ của Tú Uyên đã biến anh trở thành “người bệnh tương tư”. Lời thơ gần như là một cuộc trách móc và than vãn mà anh dành cho Giáng Kiều. Tú Uyên tỏ ra quyết tâm trách móc cô gái vì tại sao cô “điểm phấn tô son” khiến người quân tử “ruột héo gan mòn”. Từ “ai” được lặp lại hai lần, chỉ rõ sự đồng nhất giữa hai con người và nỗi nhớ không dứt.

Buồng đào nửa bước chẳng rời
Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?
Rày xin bẻ khoá cung trăng
Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nao!

Tú Uyên nhớ Giáng Kiều đến mức anh tách mình hoàn toàn khỏi thế giới bên ngoài, không bước ra khỏi căn phòng nửa bước. Anh sẵn sàng đổi cả nghìn vàng chỉ để thấy nụ cười của cô. Từ “nghìn” ở đây thể hiện nỗi nhớ sâu sắc và không thể so sánh được với bất kỳ điều gì khác. Câu thơ đặt ra một câu hỏi tu từ, nhấn mạnh tình cảm mãnh liệt của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Tú Uyên còn muốn mở cung trăng để được ngắm nhìn dung mạo của cô, vượt qua giới hạn của thời gian và không gian.

Thông qua những biểu tượng và hình ảnh của thiên nhiên, sự đối lập của từ và câu hỏi tu từ, đoạn thơ đã thể hiện sự da diết của nỗi nhớ và tình yêu mạnh mẽ mà Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Tình yêu đó cũng là biểu tượng cho khát vọng của con người, mong muốn tìm kiếm hạnh phúc và thoát ra khỏi hiện thực buồn tẻ.

So xem phong vị khác thường
..
Này người khi trước đâu mà đến đây?

Một ngày, khi Tú Uyên trở về nhà sau giờ học, anh phát hiện một bữa cơm sẵn sàng trên bàn. Bữa ăn ấy mang một “hương vị khác thường,” phát ra một mùi thơm ngọt ngào như hoa. Tú Uyên cảm thấy lạ và bắt đầu nảy sinh nghi ngờ. Sáng hôm sau, anh quyết định giả vờ rời nhà và khi quay lại đột ngột, anh bắt gặp một người con gái vô cùng xinh đẹp bước ra từ bức tranh.

Trước tình huống này, Tú Uyên vô cùng hạnh phúc khi gặp được người trong mơ, và anh nhanh chóng “vội vàng đánh tiếng ra chào.” Chi tiết “Bên mừng bên lệ” cho thấy sự rối bời của cảm xúc và niềm hạnh phúc đến mức nước mắt trào ra.

Khi Tú Uyên chào đón Giáng Kiều và được cô giới thiệu về bản thân, sự xuất hiện của Giáng Kiều gợi lên hình ảnh của những nàng tiên, như cô Tấm trong truyện cổ dân gian Việt Nam, với phẩm hạnh thanh khiết và tấm lòng thơm thảo. Giáng Kiều cũng là một cô gái đầy đoan trang và dịu dàng trong lời nói của mình.

Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường

Đoá hoa biết mặt chúa xuân từ rày”

Giáng Kiều tự giới thiệu mình là một phụ nữ mong manh như “bồ liễu” và như “khách thanh tiêu” ở trên trời, được biết với danh hiệu Tiên Thù và tên gọi Giáng Kiều. Mối “tơ điều” đã nối kết cô và Tú Uyên, và họ đã “Ba sinh đã nặng vì duyên.” Từ lời nói của Giáng Kiều, có thể cảm nhận được rằng tình yêu giữa Uyên và Kiều là một sự kết nối trước định, được thế lực trời đất phê duyệt.

Khi lắng nghe Giáng Kiều nói, Tú Uyên cũng thể hiện những suy tư đã nắm chặt trong lòng từ lâu: “Nhắp sầu gối muộn có ngày nào nguôi?” Không chỉ sở hữu vẻ đẹp ngoại hình, lời nói êm đềm và phẩm cách lịch lãm, Giáng Kiều còn là một phụ nữ trung thành, kiên định trong tình yêu và có lòng tự trọng cao đối với danh dự của bản thân.

Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu

Làm chi để tiếng sờ sờ lại sau!

Tác giả đã sử dụng điển tích kén rể của vua Hán Vũ Đế, trong đó công chúa ngồi trên lầu cao ném quả cầu xuống, và người nào bắt được quả cầu sẽ trở thành người kén rể, để thể hiện tấm lòng chân thành của Giáng Kiều đối với Tú Uyên. Việc sử dụng hai từ “quyết” và “thề” trong hai dòng thơ liền nhau làm tôn thêm tính nghiêm trọng và chân thành của Giáng Kiều khi nói về hôn nhân và hạnh phúc.

Cô khẳng định tình cảm trong sáng của mình hoàn toàn khác biệt với “thói yến oanh” thoảng qua và tạp nham. Cặp từ đối lập như “mặn” và “nhạt”, “trăng gió” (nhẹ nhàng) và “lửa hương” (đam mê mãnh liệt) trong cùng một câu thơ làm nổi bật vẻ đẹp của tâm hồn và lòng chung thủy trong tình yêu của cô gái. Các điển tích truyền thống như “Gieo thoi” và “Mái Tây” thể hiện ý thức của Giáng Kiều trong việc bảo vệ tình yêu của mình.

Thưa rằng: “Túc trái tiền nhân
..
Chữ duyên này trở về sau còn dài”

Giáng Kiều đã đến gặp “tiền nhân” – những duyên nợ từ kiếp trước để giải thích về việc nàng xuống trần. Từ đáy lòng, Giáng Kiều thực sự coi Tú Uyên là “bạn tri kỉ”. Mối quan hệ tri âm, tri kỷ này không bao giờ bị phai nhạt bởi khoảng cách, vì vậy nàng đã hứa “Chữ duyên này trở về sau còn dài”. Nét đẹp của Giáng Kiều nằm ở sự thông minh, khéo léo, tế nhị và tấm lòng trung thành.

Sau cuộc gặp gỡ và cuộc trò chuyện giữa Tú Uyên và Giáng Kiều, họ bước vào hạnh phúc của tình yêu đôi, nơi mà Giáng Kiều đã sử dụng phép tiên để thay đổi khung cảnh xung quanh:

Thảo am thoắt đã đổi ra lâu đài

Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha

Trong một khoảnh khắc, lều cỏ biến thành một lâu đài huyền bí. Ánh dương ban mai lan tỏa rọi rực, chiếu sáng toàn bộ không gian. Những người tham gia vui vẻ, sôi nổi, trong trang phục lịch lãm và tươi tắn. Từ các từ như “Nhởn nhơ,” “Lả lơi,” “Đong đưa,” cùng với những động từ như “nói, cười,” “đua,” “khoe,” tạo ra một bầu không khí phấn khích, hạnh phúc do rượu và tình bạn đem lại, cả quan khách và chủ nhà đều tràn đầy niềm vui.

Do đó, đoạn văn này thể hiện nỗi nhớ của Tú Uyên về Giáng Kiều và cuộc gặp gỡ của họ, cũng như biểu tượng cho khát khao hạnh phúc của đôi tình nhân và niềm hy vọng vào tình yêu mãnh liệt. Sử dụng hình thức thơ lục bát truyền thống của dân tộc, việc sử dụng các từ láy giàu biểu đạt và các điển tích điển cố, cùng với hình ảnh thiên nhiên tượng trưng đã giúp tạo nên thành công cho tác phẩm.

Đọc thêm mẫu 👉 Giới Thiệu Về Một Tác Phẩm Nghệ Thuật

Phân Tích Tú Uyên Gặp Giáng Kiều Đầy Đủ Ý

Tú Uyên gặp Giáng Kiều là một tác phẩm thơ văn tuyệt vời của văn hóa dân gian Việt Nam. Qua câu chuyện tình yêu giữa Tú Uyên và Giáng Kiều, tác giả đã tạo nên một thế giới đầy màu sắc, mơ mộng và đầy cảm xúc.

“Từ phen giáp mặt đến giờ
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn
Ấy ai điểm phấn tô son
Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?”

Tác phẩm mở đầu bằng những khung cảnh thơ mộng, như mưa hoa khép cánh và bức tranh với sớm khuya. Ngay từ đầu, chúng ta đã được giới thiệu với nhân vật chính Tú Uyên, người ngồi đọc sách và tương tư về người con gái tưởng chừng như chỉ tồn tại trong mơ. Tú Uyên cảm nhận sự nhớ nhung và tình yêu mãnh liệt dành cho Giáng Kiều, bức tranh trở thành một người bạn đồng hành và một nguồn cảm hứng cho chàng.

Nỗi nhớ da diết của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều cũng được đưa vào tác phẩm. Từ việc ngồi trước bức tranh và tưởng tượng cảnh người trong mộng, đến việc chàng ngồi một mình ngâm thơ và tưởng tượng về Giáng Kiều đang đứng trước mặt, tất cả đều thể hiện sự chiếm lĩnh tâm trí và tình yêu mãnh liệt của Tú Uyên. Từ đầu gặp mặt đến giờ, Tú Uyên không thể ngừng nghĩ về Giáng Kiều.

Cả ngày lẫn đêm, chàng ta ôm ấp mơ ước và tình yêu tương tư, đến mức mệt mỏi và cảm thấy tâm trí của mình đã “đã chồn”. Sự đối lập giữa “ngày” và “đêm”, cùng với những từ như “tưởng” và “mơ” cùng với hình ảnh ruột héo và gan mòn, tạo ra hình ảnh rõ ràng về sự chiếm lĩnh tâm trí của Tú Uyên bởi nỗi nhớ.

Khi Tú Uyên trở về từ trường văn, anh ta đã thấy bát sân sẵn sàng và cảm thấy nghi ngờ về việc có ai đó đã đến nhà trong khi anh vắng mặt. Điều này cho thấy sự bất ngờ và tò mò của Tú Uyên. Sáng hôm sau, Tú Uyên lén lút đi ra ngoài và trở về bất ngờ. Trong tranh, anh ta bắt gặp người con gái từ trong tranh bước ra. Sự xuất hiện của Giáng Kiều từ bức tranh làm cho Tú Uyên vội vàng đánh tiếng chào mừng và bày tỏ cảm xúc hạnh phúc đến mức rơi lệ. Vậy là sau bao ngày mong nhớ, chàng trai si tình ấy đã thực sự gặp được người mình mong mỏi bao đêm.

“Thảo am thoắt đã đổi ra lâu đài
Tường quang sáng một góc trời
(…)
Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha”

Trong cuộc đối thoại, Giáng Kiều tự nhận mình là “khách thanh tiêu” trên trời, là Tiên Thù với hiệu là Giáng Kiều. Cô gọi mối quan hệ giữa họ là “tơ điều” và cho rằng đây là một mối thiên duyên tiền định được sự đồng thuận của trời đất. Giáng Kiều cũng tỏ ra duyên dáng, hiền hậu và thủy chung trong lời đối thoại. Cùng với sự hấp dẫn của câu chuyện tình yêu, tác phẩm cũng thể hiện phẩm chất thanh cao và lòng trung thành của Giáng Kiều. Cô gắn kết mối tơ điều giữa mình và Tú Uyên, cho rằng đó là một thiên duyên tiền định được sự đồng thuận của trời đất. Tấm lòng thủy chung và son sắt của Giáng Kiều là điểm nhấn trong câu chuyện.

Tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều đã thành công trong việc tạo ra một thế giới tưởng tượng đầy cảm xúc và hình ảnh đẹp mắt. Qua những câu thơ và đoạn văn, chúng ta được khám phá một tình yêu mãnh liệt và những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật chính. Đó là một tác phẩm đậm chất văn hoá đáng để khám phá và thưởng thức, thể hiện được những nét đặc sắc dân tộc.

Tham khảo thêm mẫu 👉 Thuyết Minh Về Một Tác Phẩm Văn Học 

Viết một bình luận