Thohay.vn chia sẻ cho các bạn đọc về nội dung và những mẫu cảm nhận, phân tích của bài thơ Tụng Giá Hoàn Kinh Sư tại bài viết sau đây.
NỘI DUNG CHÍNH
Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Tụng Giá Hoàn Kinh Sư
Sau chiến thắng vang dội ở Chương Dương, Hàm Tử, giải phóng kinh đô năm 1285, ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về kinh. Khi đó, Trần Quang Khải đã tức cảnh làm bài thơ này.
Chia sẻ bạn 💛 Phò Giá Về Kinh 💛 Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích
Nội Dung Bài Thơ Tụng Giá Hoàn Kinh Sư
Chia sẻ cho các bạn nội dung bài thơ Tụng Giá Hoàn Kinh Sư cho những bạn nào chưa biết tại bài viết sau đây.
Tụng Giá Hoàn Kinh Sư
Tác giả: Trần Quang Khải
Nguyên văn chữ Hán
從 駕 還 京
奪 槊 章 陽 渡
擒 胡 鹹 子 關
太 平 須 努 力
萬 古 此 江 山
Phiên âm:
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
Dịch nghĩa:
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương,
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử.
Thái bình rồi nên dốc hết sức lực,
Muôn đời vẫn có non sông này.
Dịch thơ:
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
Xem thêm 💛 Thuật Hoài Của Phạm Ngũ Lão 💛 Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích
Ý Nghĩa Bài Thơ Tụng Giá Hoàn Kinh Sư
“Tụng giá hoàn kinh sư” của Trần Quang Khải là một tráng ca, vô cùng hào sảng, thể hiện “hào khí Đông A”, hào khí chiến thắng của một dân tộc anh hùng, bất khuất. Bài thơ cũng thể hiện ý chí bảo vệ Tổ quốc và tầm nhìn xa trông rộng của một nhà lãnh đạo tài giỏi, sẽ còn mãi với non sông Đại Việt.
Cập nhật cho bạn những bài 💚 Thơ Về Nhân Vật Lịch Sử 💚 hay nhất
Đọc Hiểu Bài Thơ Tụng Giá Hoàn Kinh Sư
Mời bạn tham khảo thêm đọc hiểu bài thơ Tụng Giá Hoàn Kinh Sư mà Thohay.vn chia sẻ dưới đây nhé.
👉Câu 1: Em hãy căn cứ vào lời giới thiệu sơ lược về thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt ở chú thích để nhận dạng thể thơ của bài Tụng giá hoàn kinh sư về số câu, số chữ, cách hiệp vần.
Đáp án: Thể thơ Ngũ ngôn tứ tuyệt:
- Cả bài gồm có 4 câu
- Mỗi câu có 5 từ
- Hiệp vần: Các chữ cuối cùng của câu 2 và câu 4 hiệp vần với nhau
👉Câu 2: Chữ Đoạt, Cầm trong bản phiên âm thuộc từ loại gì? Nêu hiệu quả nghệ thuật của các từ loại đó trong văn bản ?
Đáp án: Chữ Đoạt, Cầm trong bản phiên âm thuộc từ loại động từ.
→ Tác dụng: Ca ngợi sức mạnh của quân đội nhà Trần.
👉Câu 3: Nội dung đuọc thể hiện trong hai câu thơ đầu như thế nào?
Đáp án:
- Nội dung được thể hiện trong hai câu đầu khác nội dung thể hiện trong hai câu sau ở chỗ: hai câu đầu nói về những chiến tích khi có chiến tranh, hai câu sau khẳng định chí khí muốn cống hiến cho non sông khi thái bình.
- Cách biểu cảm của bài thơ không lộ rõ mà thể hiện qua những động từ mạnh (đoạt, cầm).
- Cách biểu ý của bài thơ: dùng phép đối lập giữa hai câu thơ đầu và hai câu thơ sau (đối lập về thời gian, hành động,…)
👉Câu 4: Em hiểu câu thơ “Thái bình tu trí lực” nghĩa là gì?
Đáp án: Câu thơ “Thái bình tu trí lực” nghĩa là Thái bình nên gắng sức.
Đón đọc thêm về ❤️️ Thơ Tố Hữu ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay
Nghệ Thuật Bài Thơ Tụng Giá Hoàn Kinh Sư
Sau đây là nghệ thuật bài thơ Tụng Giá Hoàn Kinh Sư mà có thể bạn chưa biết đến. Mời bạn tham khảo.
- Thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt cô đọng, hàm súc
- Giọng điệu sảng khoái, hân hoan, tự hào. Hình thức diễn đạt cô đúc, dồn nén cảm xúc vào bên trong ý tưởng
Tổng hợp cho bạn những bài 💛 Thơ Huy Cận 💛 Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Nổi Tiếng
5+ Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Tụng Giá Hoàn Kinh Sư
Thohay.vn tổng hợp cho các bạn đọc 5+ mẫu cảm nhận, phân tích bài thơ Tụng Giá Hoàn Kinh Sư hay nhất mà chúng tôi đã chọn lọc dưới đây.
Phân Tích Bài Thơ Tụng Giá Hoàn Kinh Sư Hay Nhất
Nói đến những chiến công hào hùng trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc, không thể không nhắc những chiến công hiển hách chống quân Mông – Nguyên của triều đại nhà Trần.
Chính niềm hân hoan chiến thắng ấy đã tạo nên hào khí Đông A chói lọi trong từng trang sử dưới thời Trần. Một trong số những tác phẩm thể hiện rõ nhất hào khí chiến thắng và khát vọng hòa bình của dân tộc, đó là bài thơ “Tụng giá hoàn kinh sư” (Trần Quang Khải).
Như chúng ta đã biết, dưới triều đại nhà Trần, nước Đại Việt ta phải đương đầu với quân Mông – Nguyên xâm lược. Đây là đội quân nổi tiếng là thiện chiến và tàn bạo nhất thời kỳ ấy, sử cũ còn ghi lại: Vó ngựa của chúng đi đến đâu đến từng cái cây, ngọn cỏ cũng không còn.
Nhưng bằng tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng đồng thuận quyết chiến đấu đến cùng, nhân dân Đại Việt đánh đuổi kẻ thù xâm lược ra khỏi bờ cõi. Một số hai vị tướng kiệt xuất thời Trần giữ quyền chỉ huy tối cao trong hai lần đánh đuổi quân Mông – Nguyên liên tiếp vào năm 1285, 1287 là Trần Quang Khải – ông cũng là tác giả bài thơ.
Bài thơ này ông viết sau ngày đại thắng lần thứ hai của dân tộc, đem lại nền thái bình cho đất nước, Trần Quang Khải nhận được lệnh đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông, về Thăng Long trong niềm vui chiến thắng hân hoan. Bài thơ đã sâu sắc thể hiện hào khí chiến thắng và khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần.
Với thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt, trước hết, bài thơ “Tụng giá hoàn kinh sư” đã thể hiện hào khí chiến thắng của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần:
Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Trong hai câu mở đầu bài thơ, tác giả đã nhắc đến hai chiến thắng lẫy lừng có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của cuộc kháng chiến là: Chương Dương và Hàm Tử, và trong trận Chương Dương Trần Quang Khải chính là vị tổng chỉ huy tối cao.
Hai câu thơ đối ngẫu rất chỉnh, nghệ thuật đảo ngữ với một loạt các động từ mạnh “đoạt”, “cầm” đưa lên đầu câu, kết hợp với nhịp thơ nhanh, gấp, nhịp 2/3 , tác giả đã phần nào tái hiện và làm nổi bật không khí chiến đấu vô cùng mạnh mẽ và quyết liệt của quân, dân ta.
Đồng thời cho thấy tư thế làm chủ, chủ động tiến công quân giặc của ta. Trận chiến Chương Dương vốn diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) còn trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu (1285). Theo lẽ thông thường trận chiến nào diễn ra trước sẽ được nhắc đến theo trình tự thời gian, nhưng ở đây tác giả đang sống trong tâm trạng hân hoan của chiến thắng Chương Dương mà gợi nhớ lại chiến thắng Hàm Tử cách đó hai tháng.
Không cần phải sử dụng đến quá nhiều ngôn ngữ mà chỉ bằng hai câu thơ ngũ ngôn ngắn ngủi nhưng cũng đủ để vị tướng nhà Trần giúp cho người đọc cảm nhận được hào khí chiến thắng ngất trời của quân ta, đồng thời gợi lên trong lòng người đọc niềm tự hào sâu sắc về sức mạnh của dân tộc Đại Việt ta.
Bài thơ “Tụng giá hoàn kinh sư ” không chỉ thể hiện hào khí chiến thắng mà còn thể hiện sâu sắc khát vọng hòa bình của dân tộc ta :
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san.
Vậy là, dù đang trong không khí chiến thắng hừng hực ấy, vị chủ tướng Trần Quang Khải vẫn tỉnh táo và suy nghĩ thấu đáo vô cùng! Với giọng điệu tha thiết, chân thành mang tính chất động viên khuyên nhủ, ông đã tự nhắc nhở mình và cũng là để nhắc mọi người: Không thể vì quá say sưa với niềm vui chiến thắng mà quên mất trách nhiệm xây dựng non sông đất nước. Khi đất nước đã thái bình, nhân dân ta cần tập trung hết sức vào việc xây dựng đất nước, có như vậy đất nước mới trường tồn mãi mãi.
Câu thơ vừa là lời động viên xây dựng, phát triển đất trong hòa bình vừa thể hiện niềm tin sắt đá vào sự bền vững muôn đời của đất nước.
Đọc bài thơ “Tụng giá hoàn kinh sư” của tác giả Trần Quang Khải, mỗi chúng ta không chỉ cảm thấy tự hào về truyền thống đấu tranh giữ nước bất khuất của cha ông, mà hơn thế nữa chúng ta còn tự hào bởi lịch sử ngàn xưa đã chứng minh Việt Nam luôn là một đất nước khao khát cuộc sống thái bình!
Bạn xem thêm những bài ❤️️ Thơ Hồ Chí Minh ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ
Phân Tích Tụng Giá Hoàn Kinh Sư Đặc Sắc
Trong công cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên xâm lược đời Trần, Thượng tướng Trần Quang Khải đã lập được nhiều chiến công to lớn. Sau chiến thắng Hàm Tử, rồi chiến thắng Chương Dương năm 1285, trong ngày vui đất nước được giải phóng, Trần Quang Khải vinh dự đón nhà vua về kinh đô.
Trên đường đi, ông đã hứng khởi sáng tác bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư. Bài thư nguyên văn bằng chữ Hán, theo thể Đường luật ngũ ngôn tứ tuyệt, toàn bài bốn câu, mỗi câu năm tiếng tuyệt hay.
Tuy tác phẩm thuộc loại biểu ý là chính, nhưng đằng sau những ý tưởng lớn lao vẫn dạt dào biết bao cảm xúc sâu lắng. Đây là khúc khải hoàn đầu tiên của dân tộc ta trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
Trước thời đại nhà Trần, dân tộc ta từng đã nhiều lần đánh tan bọn giặc ngoại xâm. Nhưng sau những chiến công ấy, chúng ta chưa được đọc, được nghe một tác phẩm văn chương nào viết về chiến thắng, hoan ca khúc khải hoàn.
Do đó, bài thơ Phò giá về kinh của vị thượng tướng – thi sĩ không những có tính lịch sử mà còn có giá trị văn chương. Chúng ta hãy đọc nguyên tác bài thơ phiên âm chữ Hán:
“Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.”
Và đọc bản dịch thơ của Trần Trọng Kim :
“Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu”
Bố cục tác phẩm gồm hai phần khá mạch lạc. Hào khí chiến thắng được thể hiện ở hai câu đầu:
“Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù”
Tìm hiểu lịch sử, biết rằng trong công cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên đời Trần, quân dân ta đã giành nhiều chiến thắng trong nhiều chiến dịch, nổi tiếng nhất là chiến thắng trên sông Bạch Đằng.
Nhưng Trần Quang Khải chí nói tới hai chiến thắng ở Chương Dương và Hàm Tử. Tại sao? Phải chăng đây là hai chiến dịch tiêu biểu, có tính quyết định để giành thắng lợi cuối cùng?
Phải chăng nhờ hai chiến thắng này, xa giá nhà vua và cá triều đình sau thời gian sơ tán, tạm lánh về nông thôn, được trở về kinh đô, vui lắm, phấn khởi lắm, đáng làm thơ, đáng ca hát lắm? Trong thực tế, chiến thắng Hàm Tử diễn ra trước (tháng 4 năm 1285), chiến thắng Chương Dương sau (tháng 6 năm 1285).
Tại sao tác giả nêu Chương Dương trước, sau đó là Hàm Tử? Đây cũng là câu hỏi thú vị. Tìm hiểu lịch sử, ta biết rằng, ở chiến thắng trước – Hàm Tử – người chỉ huy là tướng Trần Nhật Duật, còn Trần Quang Khải chi tham gia hỗ trợ.
Còn tại Chương Dương, Thượng tướng Trần Quang Khải thống lĩnh ba quân, trực tiếp chỉ huy và giành thắng lợi giòn giã, để rồi ngay sau đó đón nhà vua về kinh. Niềm vui chiến thắng, đi liền niềm vui được “phò giá” dồn dập nối tiếp nhau lay động trí tuệ và tâm hồn.
Có lẽ vì thế trong phút ngẫu hứng, vị thượng tướng đã nhắc ngay tới Chương Dương, rồi mới hồi tưởng Hàm Tử. Trong cả hai chiến dịch Chương Dương và Hàm Tử, quân dân ta đã chiến đấu vô cùng dùng cảm, khí thế trận mạc vô cùng sôi động, thành tích chiến đấu vô cùng phong phú,… Song, tác giả chỉ đúc lại trong hai câu thơ ngắn gọn, mười âm tiết. Ở mỗi chiến thắng, thể hiện bằng hai từ : “đoạt sáo” (cướp giáo), “cầm Hồ” (bắt quân Hồ).
Cần chú ý câu thơ nguyên tác “đoạt sáo”. “Đoạt” nghĩa gốc là “lấy hẳn được về cho mình qua đấu tranh với người khác”. Như vậy, dùng từ “đoạt sáo”, nhà thơ vừa ghi chiến công vừa ngợi ca hành động chính nghĩa và dũng cảm của quân dân ta. Bản dịch dùng từ “cướp giáo” làm giảm phần nào vẻ đẹp của chiến thắng. Ở Chương Dương, ta giành được gươm giáo, vũ khí quân giặc.
Còn ở Hàm Tử, ta bắt được quân tướng của chúng. Mỗi chiến dịch một thành tích khác nhau, bổ sung cho nhau, thật hài hòa, toàn diện. Trong chiến trận, chắc có thương vong, quân giặc chắc bị ta tiêu diệt, giết chết, đuổi chạy khá nhiều. Nhưng lời thơ không nói tới cảnh máu chảy, đầu rơi, mà chỉ nhắc hai hành động “đoạt sáo”, “cầm Hồ”.
Cách nói ấy nhẹ mà sâu, biểu hiện rõ mục đích chiến đấu của dân tộc ta không phải là chém giết mà là giành lại nền độc lập, bắt kẻ thù phải quy thuận, trả lại non sông, đất nước cho ta. Câu thơ dồn nén, biểu ý rắn khoẻ. Nhưng nhịp thơ, âm điệu vẫn toát ra niềm vui, niềm tự hào phơi phới.
Đọc thơ, ta có cảm giác vị thượng tướng ấy đang ngẩng cao đầu, vừa đi giữa đoàn quân chiến thắng vừa sang sảng cất tiếng ngâm thơ. Tiếng ngâm lan truyền và được ba quân nối tiếp, trở thành khúc ca hào hùng vang động núi sông. Đúng là khúc khải hoàn ca.
Chia sẻ bạn những bài ☑️ Thơ Hồ Xuân Hương ☑️ Tác Giả, Tác Phẩm, Tuyển Tập Thơ Nổi Tiếng
Phân Tích Tụng Giá Hoàn Kinh Sư Chọn Lọc
Trần Quang Khải (1241 – 1294) là con thứ ba của vua Trần Thánh Tông. Ông được phong chức thượng tướng vì có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông (1284 – 1287) và là một trong những anh hùng đã đem tài thao lược làm nên chiến công Chương Dương, Hàm Tử lừng lẫy muôn đời. Trần Quang Khải không chỉ là một võ tướng kiệt xuất mà còn là một thi sĩ tài hoa.
Bài thơ Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư) được sáng tác trong hoàn cảnh thượng tướng cùng đoàn tùy tùng đi đón hai vua Trần (vua cha Trần Thánh Tông và vua con Trần Nhân Tông) về Thăng Long sau khi kinh đô được giải phóng. Hình thức bài thơ tuy ngắn gọn, cô đúc nhưng đã thể hiện được hào khí chiến thắng và khát vọng lớn lao của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần. Tác giả đã ghi lại hai chiến công vang dội của quân và dân Đại Việt vào xuân – hè năm Ất Dậu 1285.
Sau chiến thắng Chương Dương và Hàm Tử, kinh đô Thăng Long được giải phóng, Trần Quang Khải đích thân đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông hồi kinh, bài thơ “phò giá về kinh” được viết trong hoàn cảnh ấy. Trong không khí chiến thắng hào hùng ấy, bài thơ cất lên như một bản anh hùng ca của đất nước. Hai câu thơ đầu, tác giả gợi lại hai trận chiến oanh liệt hào hùng của dân tộc ta với âm vang tự hào:
“Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan”
Chương Dương và Hàm Tử là hai địa danh nổi tiếng gắn với hai trận đánh lịch sử của dân tộc được tác giả trực tiếp nhắc tới trong câu thơ. Đối với quân dân nhà Trần, chỉ cần nhắc tới hai chiến công vang dội có tính chất quyết định thành bại ấy cũng đủ để cất lên âm điệu tự hào, ngợi ca. Tác giả không miêu tả diễn biến trận chiến, cũng không diễn tả cảnh binh đao trận lửa mà chỉ kể lại bằng cách liệt kê nhưng như thế cũng đủ để ta hình dung được không khí trận mạc cùng tính chất gay go, căng thẳng của cuộc chiến.
“Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san”
Sau khi đánh đuổi quân giặc, nhân dân được tự do, yên ấm. Song, để có được hoà bình ấy phải đánh đổi bao máu và nước mắt, bao người phải hy sinh thân mình nơi chiến trận, bởi vậy mà cần phải ý thức được công cuộc bảo vệ và dựng xây đất nước. Không nên ngủ quên trên chiến thắng, hãy gắng sức mình, rèn luyện quân đội, xây dựng lực lượng vững mạnh, trí và lực cùng nhau cộng tác để gây dựng cơ đồ, đất nước mới được thái bình, thịnh trị: “Non nước ấy ngàn thu”.
Đó là trách nhiệm của mỗi người và cũng là lời gửi gắm của vị tướng sĩ tới muôn dân, muôn người lúc bấy giờ và cả những thế hệ sau. Đất nước muôn ngàn năm tồn tại vững bền phải là sự hợp lực, quyết tâm cao độ, gắng sức kiên trì. Hai câu thơ cuối thể hiện trí tuệ anh minh và tầm nhìn chiến lược của người anh hùng yêu nước. Yêu nước không chỉ có đấu tranh, yêu nước còn cần phải xây dựng phát triển nước nhà ngày một giàu mạnh hơn để nhân dân ngàn năm mãi được sống trong hoà bình, tự do. Vận mệnh đất nước luôn nằm trong tay ta, do ta quyết định, được hay mất, tồn tại hay không tồn tại đều từ sự nỗ lực, ý thức của nhân dân.
Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn Trần Quang Khải đã thể hiện được khí thế hào hùng và bày tỏ được khát vọng xây dựng đất nước, giữ gìn hòa bình. Bài thơ cũng là một lời nhắc nhở mỗi người dân Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Xem thêm 👉 Phong Trào Thơ Mới: Các Tác Giả + Những Bài Thơ Tiêu Biểu
Cảm Nhận Bài Thơ Tụng Giá Hoàn Kinh Sư Ngắn
Thượng tướng thái sư Trần Quang Khải (1241-1294), con trai thứ ba của vua Trần Thánh Tông, không những là một danh tướng kiệt xuất mà còn là một nhà thơ đã in dấu ấn trong văn chương dân tộc.
Trần Quang Khải làm thơ không nhiều, nhưng chỉ cần một bài như Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư) cũng đủ để thành một tên tuổi.
Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, giữa không khí hào hùng, ngây ngất men say của vinh quang chiến thắng. Và tác giả của nó, một vị tướng lỗi lạc, mà tên tuổi đã từng phải : 10 phen khiến quân thù phải kinh hồn bạt vía, người vừa lập công lớn trong chiến trận, nay kiêu hãnh giữ trọng trách phò giá hai vua về kinh đô trong khúc khải hoàn ca của dân tộc.
Tức cảnh sinh tình. Trong hào quang của chiến thắng, tâm hồn vị tướng- nhà thơ của chúng ta bỗng dạt dào cảm hứng thi ca, kết tinh thành những vần thơ thật đẹp:
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức.
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch)
Dường như sự xúc động quá lớn về niềm vui chiến thắng khiến nhà thơ không nói được nhiều. Bao nhiêu cảm xúc, suy tư dồn nên cả lại vào bốn dòng ngũ ngôn tứ tuyệt gân guốc, chắc nịch.
Hai câu mở đầu nóng bỏng hơi thở chiến trận và đậm chất anh hùng ca:
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Chương Dương và Hàm Tử là hai chiến thắng lẫy lừng của Đại Việt trong cuộc kháng chiến vĩ đại chống quân xâm lược Mông Cổ năm 1285. Đối với quân dân nhà Trần lúc đó, chỉ cần nhắc đến cái tên Chương Dương-Hàm Tử cũng đã đủ thấy nức lòng. Đặc biệt, đối với thượng tướng Trần Quang Khải, người trực tiếp chỉ huy và lập nên chiến công trong trận Chương Dương, cũng là người góp phần hỗ trợ đắc lực cho Trần Nhật Duật đánh trận Hàm Tử, thì càng thêm xao xuyến, bồi hồi.
Tác giả không tả lại cảnh khói lửa binh đao, cũng không tả lại cảnh quyết chiến của quân ta, mà chỉ kể lại theo cách liệt kê sự kiện, nhưng vẫn làm sống dậy cả một không khí trận mạc hào hùng bởi tiếng gươm khua, ngựa hí, tiếng binh khí, và cả tiếng thét tiến công vang dội. Sức gợi cảm của cách nói giản dị mà cương quyết, rắn rỏi là ở đó.
Nên như mạch cảm xúc của hai câu đầu hướng về chiến trận, về hào quang chiến thắng, thì ở hai câu sau, mạch cảm xúc lại mở ra một hướng khác:
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
Vẫn với hai câu thơ ngắn gọn, chắc nịch mà lại chất chứa cảm xúc, tâm trạng và bao nỗi niềm suy tư. Vị tướng thắng trận mới đang trên đường trở về kinh đô, chưa kịp nghỉ ngơi (chứ đừng nói tới việc hưởng thụ chiến công), đã lo nghĩ cho đất nước, những mong một nền thái bình muôn thuở cho ngàn đời con cháu mai sau. Thật cảm động và đáng kính phục!
Tuy nhiên, Trần Quang Khải cảm nhận sâu sắc nền thái bình ấy đâu phải cứ mong là có. Để có nó, cần có sự chung lòng, chung sức, với bao tâm huyết (tu trí lực) của triều đình và trăm họ, trong đó có sự gắng sức của chính bản thân ông.
Niềm mong mỏi của nhà thơ chính là khát vọng của cả một dân tộc, của muôn triệu trái tim Đại Việt xưa và nay. Vì thế hai câu kết với cảm hứng hoà bình đậm chất nhân văn đã đem lại cho bài thơ một vẻ đẹp mới, lấp lánh đến muôn đời.
Đừng bỏ lỡ tác phẩm 🔰Thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường 🔰 Tác Giả, Tác Phẩm
Cảm Nhận Bài Thơ Tụng Giá Hoàn Kinh Sư Ấn Tượng
Thượng tướng Trần Quang Khải là một vị tướng văn võ song toàn, từng có công rất lớn trong hai cuộc chiến chống quân Mông- Nguyên. Sau chiến thắng vang dội ở Chương Dương, Hàm Tử, chiến thắng giải phóng kinh đô năm 1285, ông được cử đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về kinh.
Trên đường đi, ông đã sáng tác bài thơ “Tụng giá hoàn kinh sư”. Đây là khúc khải hoàn đầu tiên của dân tộc ta trong công cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm.
Hai câu đầu của bài thơ thể hiện chiến thắng hào hùng vang dội của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông xâm lược.
“Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan”
(Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù)
Như chúng ta đã biết, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông thời vua Trần, nhân dân ta đã giành nhiều chiến thắng trong nhiều chiến dịch, nổi tiếng nhất là chiến thắng trên sông Bạch Đằng.
Nhưng tại sao Trần Quang Khải chỉ nói đến chiến thắng ở Chương Dương và Hàm Tử mà không hề nhắc đến trận Bạch Đằng? Phải chăng đây là hai chiến thắng tiêu biểu, có tính quyết định dứt khoát để giành thắng lợi cuối cùng? Phải chăng nhờ hai chiến thắng này, nhà vua và cả triều đình sau thời gian sơ tán, được trở về kinh đô, trở về nhà trong niềm vui sướng?
Trong thực tế lịch sử, chiến thắng Hàm Tử diễn ra trước, chiến thắng Chương Dương sau. Tại sao tác giả lại nói ngược lại, nêu Chương dương trước, sau đó là Hàm Tử? Tìm hiểu lịch sử, ta thấy rằng, người chỉ huy trận Hàm Tử là tướng Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải chỉ tham gia hỗ trợ.
Còn ở trận Chương Dương, Trần Quang Khải thống lĩnh ba quân, trực tiếp chỉ huy và giành thắng lợi giòn giã, để rồi ngay sau đó được cử hộ giá nhà vua về kinh. Niềm vui chiến thắng, đi liền với niềm vui được “phò giá” dồn dập nối tiếp cộng hưởng cho nhau.
Có lẽ vì thế mà trong phút ngẫu hứng, vị tướng đã nhắc ngay đến chiến thắng Chương Dương, rồi mới hồi tưởng Hàm Tử. Trong cả hai chiến dịch, quân ta đã chiến đấu rất dũng cảm, khí thế, quyết đoán. Song, tác giả chỉ đúc lại trong hai câu thơ ngắn gọn với hai động từ mạnh đó là “đoạt” và “cầm”. “Đoạt” nghĩa là “lấy hẳn được về cho mình qua đấu tranh với người khác”.
Như vậy, dùng từ “đoạt sáo”, nhà thơ vừa ghi nhận chiến công vừa ngợi ca hành động chính nghĩa, dũng cảm của quân ta. Ở Chương Dương, ta giành được gươm giáo, vũ khí của giặc thì ở Hàm Tử, ta bắt sống được tướng giặc ngay tại trận.
Trong chiến trận chắc chắn có thương vong, tổn hại lực lượng của cả bên ta lẫn bên địch. Nhưng lời thơ không đề cập đến, vì mục đích chiến đấu của dân tộc ta không phải là giết kẻ thù mà là giành lại nền độc lập, bắt kẻ thù phải trả lại đất nước cho ta. Giọng thơ khỏe khoắn, hùng tráng, âm điệu tươi vui, rộn ràng làm ta có cảm giác vị tướng ấy đang ngẩng cao đầu, vừa đi vừa cất tiếng ngâm thơ.
Có thể nói, hai câu thơ trên đã tái hiện không khí chiến thắng oanh liệt, tình cảm phấn chấn, tự hào của nhà thơ trên đường hộ tống nhà vua về kinh.
Dời xuống hai câu sau, âm điệu thơ như lắng lại. Nhà thơ dường như đang suy nghĩ về tương lai đất nước:
“Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.”
(Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.)
Đây là lời tự nhủ của vị thượng tướng về tương lai của đất nước, cũng là lời nhắn nhủ toàn thể quân dân ta bấy giờ. Tiếng nói, khát vọng của một người đã trở thành động lực, quyết tâm của toàn dân tộc.
Trần Quang Khải tự nhắc mình nêu cao tinh thần trách nhiệm, cố gắng “tu trí lực”, bởi tu dưỡng trí tuệ, rèn luyện sức lực là hai yếu tố tiên quyết của một con người và một dân tộc nếu muốn làm nên chiến thắng, muốn xây dựng hòa bình.
Đồng thời, ông động viên quân dân gắng sức, đồng lòng phát huy thành quả chiến thắng để xây dựng đất nước thanh bình, bền vững dài lâu chứ không được ngủ quên trên chiến thắng.
Câu thơ cuối vừa chỉ ra cái chặng đường đi tiếp của đất nước vừa bày tỏ lòng mong muốn, niềm khát khao mãnh liệt về một tương lai tươi sáng muôn đời của dân tộc. Nghĩa của thơ biểu ý, nhưng nhạc của thơ lại mang tính biểu cảm. Lời răn dạy hài hòa với niềm tin, niềm hi vọng của quân dân ta.
Hai câu thơ sau là khát vọng hòa bình sau khi giành được chiến thắng vang dội và sự mong muốn xây dựng nền hòa bình cho đất nước lâu dài. Đây là lời tự nhủ của vị thượng tướng, đồng thời cũng là lời nhắn nhủ với quân dân: chúng ta không được phép ngủ quên trên chiến thắng.
Điều đó thể hiện trí tuệ, biết lường trước được mọi việc, tầm nhìn xa trông rộng của một vị lãnh đạo tài ba biết lo cho dân cho nước. Để cho non nước được nghìn thu, hòa bình bền vững, thì khát vọng hòa bình không chỉ là khát vọng của riêng của người lãnh đạo mà còn là khát vọng chung của cả dân tộc.
Bằng cách nói chân thành, với câu chữ giản dị, mộc mạc, “Tụng giá hoàn kinh sư” đã thể hiện hào khí chiến thắng vang dội và khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc ta trong thời đại nhà Trần.
Khám phá những thông tin thú vị về 🌿Thơ Chính Hữu 🌿Tác giả, tác phẩm