Chia sẻ cho các bạn nội dung, đọc hiểu và những mẫu phân tích bài thơ Cảm Hoài (Thuật Hoài) của tác giả Đặng Dung tại bài viết sau đây.
NỘI DUNG CHÍNH
Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Cảm Hoài (Thuật Hoài)
“Cảm Hoài” có lẽ được danh tướng Đặng Dung viết vào thời điểm trước khi ông bị tướng nhà Minh Trương Phụ bắt (1413). Sống lẩn trốn trong núi rừng, cảm thấy không còn cơ hội khôi phục sự nghiệp chiến đấu chống giặc, ông bày tỏ nỗi “cảm hoài ” bi tráng của người anh hùng thất cơ lỡ vận…
Xem ngay 💛 Thuật Hoài Của Phạm Ngũ Lão 💛 Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích
Nội Dung Bài Thơ Cảm Hoài Của Đặng Dung
Chia sẻ cho bạn nội dung bài thơ Cảm Hoài của Đặng Dung tại bài viết dưới đây. Bạn xem thêm nhé.
Nguyên tác:
感懷
世事悠悠奈老何
無窮天地入酣歌
時來屠釣成功易
運去英 雄飲恨多
致主有懷扶地軸
洗兵無路挽天河
國讎未報頭先白
幾度龍泉戴月磨
Phiên âm Hán-Việt:
Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.
Dịch nghĩa
Việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào?
Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rượu hát ca.
Khi gặp thời, người làm nghề hàng thịt, kẻ câu cá cũng dễ thành công,
Lúc lỡ vận, bậc anh hùng đành phải nuốt hận nhiều.
Giúp chúa, những mong xoay trục đất lại,
Rửa vũ khí không có lối kéo tuột sông Ngân xuống.
Thù nước chưa trả được mà mái tóc đã bạc sớm,
Bao phen mang gươm báu mài dưới bóng trăng.
Dịch thơ
Việc đời man mác, tuổi già thôi!
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi.
Gặp gỡ thời cơ may những kẻ,
Tan tành sự thế luống cay ai!
Phò vua bụng những mong xoay đất,
Gột giáp sông kia khó vạch trời.
Đầu bạc giang san thù chửa trả,
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi.
Đón đọc thêm về ❤️️ Bài Thơ Ngày Em Vào Đội ❤️️
Ý Nghĩa Bài Thơ Cảm Hoài
Tác phẩm này thể hiện tinh thần kiên cường của một anh hùng, dù không gặp thời, nhưng vẫn nuôi dưỡng tâm hồn hùng tráng.
Đọc Hiểu Bài Thơ Cảm Hoài
Cùng thohay.vn tìm hiểu về cách đọc hiểu bài thơ Cảm Hoài tại bài viết sau đây.
1. Tác giả Đặng Dung (? – 1414) người huyện Thiên Lộc (nay là huyện Can Lộc), tỉnh Hà Tĩnh, con tướng quân Đặng Tất. Ông từng tham gia đánh quân Minh lớn nhỏ hơn trăm trận chưa từng nhụt khí. Năm 1414, Đặng Dung bị giặc Minh bắt đưa sang Trung Quốc, dọc đường ông nhảy xuống sông tự tử.
Sáng tác của Đặng Dung chỉ còn lại bài thơ Nỗi lòng, bài thơ từng được Tử Tấn (đời Lê) đánh giá: “phi kẻ sĩ hào kiệt thì không làm nổi”. Thơ ông toát lên vẻ đẹp bi tráng của bậc anh hùng.
2. Tác phẩm
Bài thơ này được làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mỗi bài thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ; toàn bài chỉ gieo một vần và thường là vần bằng, gieo ở chữ cuối; trừ hai câu đầu và hai câu cuối không nhất thiết đối nhau, bốn câu giữa đối với nhau từng cặ ; toàn bài chia làm bốn liên, mỗi liên gồm hai câu kề nhau, trong mỗi liên bằng trắc hai câu đối nhau, chữ thứ hai, bốn, sáu của câu hai ở liên trên và chữ thứ hai, bốn, sáu của câu thứ nhất của liên dưới bằng trắc giống nhau – tức là niêm.
Có thể dựa vào bố cục chung của bài thất ngôn bát cú nói trên để phân tích bài thơ Nỗi lòng.
3. Cách đọc
Đọc chậm, giọng trầm, vang, thể hiện tâm trạng bi tráng và khát vọng mạnh mẽ của tác giả.
Đọc thêm bài thơ 🌿Chùa Hương [Nguyễn Nhược Pháp]🌿Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích
Nghệ Thuật Bài Thơ Cảm Hoài (Thuật Hoài)
Bạn chưa biết nghệ thuật bài thơ Cảm Hoài (Thuật Hoài) là gì thì hãy xem ngay bài viết dưới đây nhé.
- Thể thơ thất ngôn bất cú.
- Bài thơ được viết theo luật trắc (chữ thứ 2 của câu 1: “sự”).
- Vần bằng (các chữ cuối của câu 1,2,4,6,8: hà, ca, đa, hà, ma).
- Sử dụng điển tích + điển cố.
Đọc hiểu tác phẩm❤️️ Tống Biệt Hành [Thâm Tâm] ❤️️ Nội Dung, Phân Tích
5+ Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Cảm Hoài
Thohay.vn cập nhật cho các bạn đọc 5+ mẫu cảm nhận, phân tích bài thơ Cảm Hoài hay nhất tại bài viết sau đây.
Phân Tích Bài Thơ Cảm Hoài Hay Nhất
Từ xưa đến nay nhân dân ta luôn có trong mình lòng yêu nước, tự hào dân tộc và muốn xây dựng quê hương đất nước dù có gặp bất cứ khó khăn gì. Tinh thần ấy càng được thể hiện rõ hơn khi đất nước có chiến tranh, tinh thần chiến đấu càng dâng cao mãnh liệt.
Và Bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung đã thể hiện rõ tinh thần ấy. Hai câu thơ mở đầu đã bày tỏ tâm sự của tác giả khi ý thức được tình huống đầy mâu thuẫn:
Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàn ca
Đó là mâu thuẫn giữa việc đời dài dằng dặc với chủ thể trữ tình đã già, biết phải làm sao? Vừa ý thức được bi kịch vừa đặt ra câu hỏi: tuổi tác là bi kịch lớn của đời người là hạn chế mà ta khó thể vượt qua. Thời gian trôi đi ta lại già đi khiến người ta cho dù còn trí hướng thì khó đạt được.
Bi kịch không đơn giản về tuổi tác mà ý thức trách nhiệm của nhà thơ với việc nước. Đó là việc bảo vệ đất nước, tiêu diệt giặc ngoại xâm. Vì thế vấn đề tuổi tác lại một lần nữa tạo nên nhân tố bi kịch khiến nhà thơ phải thốt lên câu hỏi “biết làm sao đây” là tiếc, trăn trở, một chút ngậm ngùi vì bất lực nhưng lại là cách đặt ra trách nhiệm với cuộc đời ngay khi tuổi đã già.
Đây là quan niệm sống cao đẹp, là lẽ sống cống hiến có ý nghĩa với nước với dân, là biểu hiện kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh. Nhưng câu thơ thứ hai với hình ảnh thơ kì vĩ thấy được hoài bão của con người trước thiên nhiên để xoay chuyển cục diện đã nâng tầm trí tuệ của chủ thể trữ tình vượt lên trên bi kịch tuổi tác.
Từ bi kịch đó mà làm bật lên sự băn khoăn của con người ham đấu tranh, chiếm lĩnh thế giới vượt lên giới hạn cuộc đời. Từ ý thức về hoàn cảnh của mình nhà thơ bày tỏ những suy nghĩ sâu sắc về thời và thế.
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Câu thơ có nhắc đến chuyện bán thịt, câu cá của Phàm Khoái, Hàn Tín nhưng không phải nhấn mạnh kẻ phàm thường cũng có thể thành công nếu gặp thời. Vì vậy kẻ anh hùng không gặp thời lỡ vận thì cũng tất yếu. Mất thời không thế dẫu là người tài thì cũng thất bại mà thôi.
Vậy mà khi viết về Hồ Quý Li một ông vua nhà cải cách vĩ đại thế kỉ XV Nguyên Trãi nhận xét: “Anh hùng để hận mấy trăm đời” Mối hận Hồ Quý Li là không có nhân hào không có người hiền tài để chống đỡ còn Đặng Dung là mối hận người anh hùng lỡ vận không có thiên thời.
Đây là những trải nghiệm được đúc kết từ cuộc đời của nhà thơ từ những kinh nghiệm đầy máu, nước mắt từ những năm tháng cầm quân đánh giặc. Hai câu thơ không chỉ được viết bằng trải nghiệm mà bằng sự phân tích đầy lí trí, sự linh cảm về kết cục đáng buồn mà mình sắp phải gánh chịu.
Tuy biết mình tuổi cao thời vận hết nhưng không buông xuôi tuyệt vọng:
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Bày tỏ mong muốn của tác giả vọng lên trong tâm can cháy lên trong khát khao muốn được giúp vua giúp chúa muốn nâng đỡ giang sơn đang nghiêng lệch. Câu thơ thứ sáu có mượn ý của bài “Tẩy binh mã” của Đỗ Phủ để bộc lộ mong muốn chấm dứt chiến tranh lập lại hào bình cho dân cho nước.
Mong muốn ấy được gửi vào những hình ảnh thơ kì vĩ bộc lộ qua giọng điệu mạnh mẽ khiến chủ thể trữ tình trở nên lớn lao sánh ngang vũ trụ. Dù sức tài lực kiệt, dù thời vận không đến nhưng không gì có thể ngăn cản được ý chí tâm huyết và khát vọng người anh hùng trong sự nghiệp kinh bang cứu thế.
Cho dù bất cứ thời điểm nào thì tâm nguyện của Đặng Dung là mang tài năng của mình giúp vua đem thái bình cho dân tộc. Đó là tâm nguyện người anh hùng nhưng thật đáng tiếc là không thể vượt qua thực tại khắc nghiệt vẫn đối mặt với nỗi đau của sự bất lực.
Đến thời điểm này Đặng Dung vẫn chưa tìm thấy con đường nào để đi tiếp chấm dứt chiến tranh mà đều bế tắc. Vì vậy dù nói về điều kì vĩ nhưng câu thơ vẫn đọng lại sự ngậm ngùi. Như bao người nam nhi, Đặng Dung cũng có những khát vọng lớn lao muốn cứu nước nhưng không thể thực hiện được:
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỉ độ long tuyền đái nguyệt ma
Thù nước chưa trả thì mái tóc đã bạc sớm mất rồi vẫn là một tình huống đầy bi kịch ý thức tuổi tác lại là trở ngại. Trong tâm thức tác giả điều luôn canh cánh trong lòng đã hiện hữu một cách trực tiếp. Tuy có chút ngậm ngùi về giới hạn tuổi tác trên con đường cứu nước chưa có lối thoát nhưng hùng tâm tráng trí thì vẫn chưa phai nhạt.
Trong câu kết hình ảnh người anh hùng một lão tướng tóc đã bạc nhưng biết bao lần mang gươm báu mà dưới ánh trăng. Hình ảnh một con người với hành động kiên định không chịu cúi đầu không thua cuộc bền bỉ nung nấu ý nguyện được trả thù.
Có thể coi câu kết là điểm sáng bài thơ để nhận ra ngoài sự cảm thương cho số phận người anh hùng lỡ vận thì cảm giác hào sảng bởi hùng khí ngút trời cứ dấy lên trong người đọc niềm tin vào ý chí bất khuất của con người trước mọi hoàn cảnh để thấy rằng dù thất bại mà lòng không nản. Bài thơ vừa buồn mà như khúc tráng ca.
Bài thơ đã thể hiện rất rõ tinh thần của nhân dân ta dù có bị vấn đề tuổi tác hay ngoại cảnh tác động với lòng căm thù giặc đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi đất nước. Đó chính là bài học cho thế hệ trẻ chúng ta phải không ngừng cố gắng xây dựng đất nước.
Tìm hiểu 🍃Bài Thơ Nhớ Con Sông Quê Hương [Tế Hanh]🍃 Nội Dung, Phân Tích
Phân Tích Bài Thơ Cảm Hoài Chọn Lọc
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, chí khí của người anh hùng trước vận nước luôn là đề tài quen thuộc. “Cảm hoài” của tác giả Đặng Dung là một trong số những tác phẩm tiêu biểu mang tính chất bi hùng và để lại nhiều cảm thức về cái bi.
Ra đời trong hoàn cảnh trước khi tác giả bị tướng Minh Trương Phụ bắt và đang sống trong hoàn cảnh lẩn trốn trong rừng núi sâu và cảm thấy bế tắc trong con đường khôi phục lại sự nghiệp chống giặc Minh, bài thơ toát lên tâm trạng bi tráng của người anh hùng qua những hình ảnh kì vĩ có sức diễn tả mạnh mẽ khát vọng tình cảm của tác giả:
“Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỉ độ long tuyền đái nguyệt ma”
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã đem đến bức tranh về xã hội Việt Nam thời bấy giờ cũng như bi kịch tâm trạng của tác giả:
“Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca”
(Việc thế lôi thôi tuổi tác này
Mênh mông trời đất hát và say)
Bài thơ đã thể hiện “thế sự” rối ren của đất nước ta vào những năm giặc Minh giày xéo, xâm lược trong khi các cuộc khởi nghĩa nổi lên đều lực mỏng, thế cô. Ngày tháng qua mau, trong khi tuổi tác khiến con người sức càn lực kiệt.
Trước “thế sự du du”, tác giả muốn “gom cả trời đất rộng lớn lại mà ném vào một cuộc say”. Hai câu thơ mở đầu đã cho thấy tầm vóc tư tưởng lớn lao, vĩ đại của chủ thể trữ tình. Khi đặt bài thơ vào hoàn cảnh thực của tác giả, chúng ta càng hiểu rõ hơn về chí khí này.
Đặng Dung vốn xuất thân trong một gia đình có truyền thống yêu nước kiên cường, bất khuất. Cha ông là Đặng Tất, và ông đều là những anh hùng hào kiệt ở thời hậu Trần, nhưng đáng tiếc thay, thời cuộc rối ren khiến Đặng Tất chết oan vì sự nghi kị của kẻ cầm quyền là Giản Định Đế, còn Đặng Dung lại tử tử đầy uất hận trong tay giặc Minh. Vì thế số phận của họ là những anh hùng lỡ vận và không gặp được minh chúa.
Hai câu thơ tiếp theo nói về quan điểm của tác giả về sự thành bại ở đời chung quy là do trời quyết định:
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập giữa “đồ điếu” và “anh hùng” để thể hiện rõ quan điểm: khi gặp thời có thế, những người tầm thường cũng có thể thành công, còn khi không gặp thời, lỡ vận thì dẫu là người anh hùng cũng chỉ có thể nuốt hận.
Mặc dù thấu hiểu rõ quy luật về thời thế nhưng tác giả vẫn rơi vào bi kịch, thậm chí tâm trạng đó còn bị dồn nén và đẩy lên cao độ, trở thành niềm bi phẫn trước thời cuộc rối ren và lòng căm thù đối với giặc Minh xâm lược.
Nối tiếp mạch trữ tình ở những câu thơ trước, hai câu thơ thứ 5 và thứ 6 thể hiện tâm trạng phẫn uất buồn đau một cách bi tráng:
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Khát vọng lớn lao của người anh hùng đã được diễn tả thành công thông qua hình ảnh “phù địa trục”- nâng trục trời đất, là cách nói đầy hình tượng thể hiện mong muốn nâng đỡ giang sơn đang nghiêng đổ và “tẩy binh” chỉ hành động rửa binh khí sẵn sàng ra trận.
Ở hai câu thơ cuối bài thơ, tiếng lòng đau đớn xót xa của tác giả một lần nữa được nhấn mạnh với vẻ đẹp tráng lệ:
“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỉ độ long tuyền đái nguyệt ma”
(Quốc thù chưa trả già sao vội,
Dưới nguyệt mài gươm đã bấy chầy)
Chí khí quật cường và tinh thần kiên trì chiến đấu của tác giả hiện lên đầy bi tráng qua khí thơ dồn nén và nỗi niềm uất hận. Hình ảnh “dưới nguyệt mài gươm” được đặt trong bối cảnh “quốc thù” khiến hình tượng vị tướng quân với mối thù nước đau đáu trong lòng hiện lên đầy bi hùng. Chính trong cảm quan bi hùng, bi tráng đó mà sự bền bỉ và chí khí anh hùng toát lên một cách rõ nét.
Bằng ngôn ngữ thơ điêu luyện, những hình ảnh thơ kì vĩ, tác phẩm đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật trữ tình với nỗi cảm hoài tê tái và tư tưởng mang tầm vóc vũ trụ. Tiếng lòng đau đớn xót xa về thời cuộc, về vận thế, về người anh hùng và thù nước hiện lên vừa bi hùng, vừa bi tráng.
Tìm hiểu chi tiết về 🌸 Bài Thơ Có Một Nghề Như Thế 🌸 Nội Dung, Nghệ Thuật
Cảm Nhận Về Bài Thơ Cảm Hoài Tiêu Biểu
Đề cập đến văn chương Lí – Trần, không thể bỏ qua tinh thần yêu nước. Tinh thần này trải dài trong văn học hàng thế kỷ, trở thành nguồn cảm hứng trữ tình lớn nhất. Trong số nhiều tác phẩm nổi tiếng về tình yêu nước, Đặng Dung nổi bật với bài thơ độc đáo – ‘Cảm hoài’.
Bức tranh thơ phản ánh tâm hồn tác giả, là tâm hồn yêu nước, lo âu cho cuộc sống, mong muốn giúp đất nước mà không gặp được cơ hội để thực hiện. Bài thơ nổi bật với những dòng cảm xúc trữ tình và triết lý sâu sắc ngay từ những câu đầu:
Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Những dòng thơ chứa đựng nỗi buồn về cuộc đời của tác giả: ‘Việc đời dằng dặc mà ta già rồi, biết làm sao đây’. Câu thơ như là lời than, câu hỏi xót xa, cay đắng. Thời gian không ủng hộ nhà thơ, làm ông trở nên bất lực trước cuộc sống, và ông chẳng còn chờ đợi điều gì.
Tuổi già làm ông trở nên vô dụng trước thế sự, và nỗi buồn đó đưa tác giả vào những cuộc rượu hát nghêu ngao. Nhưng ông không làm như vậy để quên hết mọi thứ hoặc là để chấp nhận số phận. Ông tham gia các cuộc rượu hát với sự uất hận khi nhận ra mình bất lực, không giúp được gì cho đời.
Thêm vào đó, lời ca của ông không chỉ là tầm thường, mà còn là sự mênh mông vô tận của trời đất. Điều đó cho thấy chí lớn của tác giả. Từ nỗi đau trong lòng, nhà thơ đúc kết ra một triết lý về sự thành bại trong cuộc sống:
Thời lai đồ điêu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Lời thơ đậm đà nỗi đắng cay, uất hận. ‘Gặp thời là anh ta bán thịt, câu cá cũng dễ có công lớn. Nhưng khi vận số đã hết, anh hùng cũng chỉ còn uống hận mà thôi’! Một triết lý đau đớn nhưng có vẻ vẫn đúng qua thời gian.
Và ở đây, chính tác giả là anh hùng đã lỡ cơ hội đó: anh hùng không gặp thời vận để có cơ hội sử dụng sức mạnh và tài trí của mình để cứu nước, giúp đời, nay thời vận đã qua, tuổi già đã đến, anh hùng (tác giả) chỉ biết nuốt hận, bó tay trước thời cuộc. Đặng Dung có những ước mơ lớn lao:
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Người mơ lớn muốn ‘nâng trục trái đất cho chúa’ và ‘rửa giáp binh’ nhưng không tìm thấy cách để kéo sông Ngân Hà xuống. Hình ảnh này thật kỳ diệu. Tác giả muốn sử dụng sức mình để làm thay đổi thời đại, giúp chúa đánh đuổi kẻ thù và đóng góp vào sự yên bình cho nhân dân và đất nước.
Ước mơ về công lao cao cả và mục đích của những người nam nhi thời bấy giờ. Nhiều lời thơ đã thể hiện khao khát đó. Có một ca dao có câu:
Làm trai cho đáng nên trai
Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên
Anh hùng Phạm Ngũ Lào trong bài thơ ‘Thuật hoài’ cũng viết:
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu
Giống như nhiều người nam nhi khác, Đặng Dung cũng có ước vọng lớn muốn cứu nước nhưng không thể thực hiện được:
Quốc thừ vị báo đầu tiên bạch
Kỉ độ long tuyền đái nguyệt ma
Câu thơ là biểu tượng của nỗi xót xa vô tận của nhà thơ vì sức mạnh không đủ. Ông buồn vì ‘thù nước chưa báo xong mà đầu tóc đã sớm bạc’. Ông cảm thấy như mình phải xin lỗi vì chưa trả xong nợ công danh và sứ mệnh cứu nước cũng không thành công, ông như trách mình vì không hoàn thành sứ mệnh của một người nam nhi đối với đất nước đang trong nguy cơ.
Có được tấm lòng như vậy đã là quý báu, dù bất lực mà anh hùng vẫn không từ bỏ, điều đó là đáng khen ngợi hơn rất nhiều. Chí khí của anh hùng muốn đối mặt với quy luật khắc nghiệt của tạo hóa. Ông không chịu đầu hàng trước hoàn cảnh, vẫn nuôi dưỡng lòng tráng chí và khao khát thực hiện ý nguyện tiêu diệt thù địch cứu nước.
Câu thơ cuối cùng đã tạo nên hình ảnh đẹp, anh hùng thức trắng đêm, gọi giao đao dưới ánh trăng. Anh hùng ấy vẫn luôn lo lắng cho sự nước bạc mái đầu. Hình ảnh của người anh hùng giữa bóng đêm rộng lớn dưới ánh trăng lung linh.
Thanh gươm quý hay tinh thần lớn lao của con người ngày càng trở nên sắc bén hơn, vững vàng hơn. Hình ảnh của anh hùng xiết bao cao đẹp đó sẽ để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn người đọc bài thơ Cảm hoài.
Về bài thơ này, Lí Tử Tấn đã nhận xét: ‘Phi hào kiệt chi sĩ bất năng’ (không phải kẻ sĩ hào kiệt thì không làm nổi). Với giọng điệu bi tráng, bài thơ đã thể hiện tấm lòng cao quý của tác giả đối với đất nước, và chỉ có người anh hùng như vậy mới dám nhảy xuống sông tự tử thay vì đầu hàng giặc Minh xâm lược. Anh hùng ấy hùng vĩ và cao quý, dù đang đối diện với thế thất thế.
Tặng bạn trọn bộ🍃Thơ Xuân Quỳnh 🍃Tuyển tập thơ
Cảm Nhận Về Bài Thơ Cảm Hoài Ấn Tượng
Đặng Dung là một danh tướng dưới thời Hậu Trần, khi còn trẻ ông đã lập được rất nhiều chiến công trong cuộc đấu tranh chống giặc Minh.
Về sau Đặng Dung bị giắc bắt, không chịu khuất phục trước kẻ thù, trên đường đi ông đã nhảy xuống sông để tự vẫn. Bài thơ Cảm hoài là bài thơ tiêu biểu của ông viết về những tâm sự của bản thân về khát vọng lập công và sự day dứt trong thực tại.
Mở đầu bài thơ, tác giả Đặng Dung đã gợi mở khung cảnh đất nước ta vào những năm 1407 – 1409 khi quân Minh kéo vào nước ta:
Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
(Dịch: Việc đời bối rỗi tuổi già vay
Trời đất vô cùng một cuộc say
Trước thế sự rối loạn, giặc Minh tràn vào Đại Việt với âm mưu xâm lược thâm độc, tác giả Đặng Hoài đã thể hiện niềm đau xót khôn nguôi qua tiếng than đầy bất lực, thế sự căng thẳng, người anh hùng sôi sục khát khao lập công, cứu nước nhưng tuổi già đến, ước nguyện chẳng thể nào thực hiện được.
Đây thực sự là một bi kịch đầy đau khổ đối với một người anh hùng như Đặng Dung. “Vô cùng thiên địa nhập hòa ca” thể hiện được thái độ của nhà thơ trước tình thế đảo điên của thời cuộc. Câu thơ thứ nhất và thứ hai tuy có sự đối lập về ý nghĩa nhưng đều góp phần thể hiện được tâm trạng của nhà thơ.
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
( Dịch: Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay )
“Đồ điếu” chỉ người mổ thịt và người câu cá. Câu thơ có ý nghĩa, nếu như gặp thời thì những người câu cá cũng có thể đạt được thành công dễ dàng, câu thơ cũng gợi cho chúng ta liên tưởng đến một nhân vật trong lịch sử Trung Hoa, đó là Phàn Khoái, từng làm nghề bán thịt chó, Hàn Tín thuở hang vi cũng từng câu cá nhưng cuối cùng đi theo Lưu Bang và lập nên được sự nghiệp lớn. Đối với những người thất thế thì lại phải chịu nhiều ẩn hận. Đây là nỗi đau của người anh hùng thất thế khi thời thế đổi xoay.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
(Dịch:
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây. )
Hai câu luận lại hướng đến hình tượng mang tính kì vĩ, tráng lệ. Trong cuộc đời của mình, Đặng Dung luôn đặt trách nhiệm với đất nước lên trên hết, ông không quản những gian khó mà xông pha trận mạc, phò vua, cứu nước. Những hình ảnh “phù địa trục”, “vãn thiên hà” là những hình ảnh mang tính kì vĩ, lớn lao, thể hiện được khát vọng của người anh hùng trong thời loạn. Hai câu thơ cuối đối nhau tạo nên giọng điệu hào sảng đầy ấn tượng.
“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma”
(Dịch: Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.)
Hai câu thơ cuối đã gợi ra hình ảnh của người anh hùng mài gươm dưới ánh trăng sáng, trải qua nhiều năm tháng thì mái đầu cũng đã bạc dần, câu thơ gợi ra màu sắc hào hùng , bi tráng.
Tuy tuổi đã già nhưng việc nước chưa hoàn thành nên nhà thơ vẫn nặng trĩu những trăn trở, suy tư. “Long Tuyền” ở đây là thanh gươm báu dùng để giết giặc, lập công, mang lại độc lập, hòa bình cho dân tộc. Hai câu thơ cuối của bài Cảm hoài được coi là hai câu thơ đẹp nhất, thể hiện rõ nét hào khí Đông A dưới thời nhà Trần.
Qua bài thơ ta có thể thấy được Đặng Dung là một người anh hùng luôn nặng lòng với nước,với dân, bài thơ thấm được được tình yêu nước, sự day dứt, đau khổ của người anh hùng lỡ bước. Nguyễn Trãi trong bài thơ Quan Hải cũng đã gặp gỡ với tư tưởng của Đặng Dung:
“Họa phúc hữu môi phi nhất nhật
Anh hùng di hận kỉ thiên niên”
Dịch:
Họa phúc có manh mối, đâu phải một ngày
Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau”
Như vậy, ta có thể thấy Cảm hoài là bài ca về tình yêu nước đầy bi tráng của người anh hùng cả đời dâng hiến công sức cho dân cho nước.
Tìm hiểu thêm 🔰Tự Thán [Nguyễn Trãi]🔰 Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích
Cảm Nhận Về Bài Thơ Cảm Hoài Ngắn Gọn
Từ thời xưa, lòng yêu nước, tự hào dân tộc luôn hiện hữu trong trái tim nhân dân Việt Nam. Bài thơ ‘Cảm hoài’ của Đặng Dung là biểu tượng của tinh thần ấy. Tác giả thể hiện mâu thuẫn của mình qua hai câu thơ mở đầu:
Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàn ca
Trong sự mâu thuẫn giữa sự già dằng của cuộc sống và ý chí trữ tình, tác giả đặt câu hỏi về tuổi tác làm hạn chế cho ý chí cống hiến. Đồng thời, ông bày tỏ trách nhiệm với việc bảo vệ đất nước, tiêu diệt giặc ngoại xâm. Mâu thuẫn về tuổi tác là bi kịch, nhưng cũng là cơ hội để tác giả đặt ra trách nhiệm của mình.
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Câu thơ này nhắc nhở về sự thành công của những người bình thường khi gặp thời cơ. Đồng thời, nó cũng chỉ ra rằng người anh hùng nếu không đúng thời điểm, cũng sẽ đối mặt với thất bại. Sự mâu thuẫn giữa thời cơ và hận thù trong câu thơ tạo nên những trải nghiệm đắng ngắt từ những năm cầm quân đánh giặc.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Ý muốn của tác giả là giúp đỡ vua chúa, nâng đỡ giang sơn. Mặc dù sức tài có hạn, nhưng ý chí và khát vọng của người anh hùng không bao giờ khuất phục. Câu thơ cuối cùng với hình ảnh người anh hùng già mà vẫn mang theo gươm báu dưới ánh trăng là điểm sáng của bài thơ, cho thấy lòng bất khuất trước mọi thách thức.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỉ độ long tuyền đái nguyệt ma
Trong cảm giác bi kịch, tác giả vẫn giữ cho lòng hùng khí và niềm tin vào ý chí bất khuất. Hình ảnh lão tướng với mái tóc bạc dưới ánh trăng là biểu tượng của lòng kiên định và mong muốn trả thù, ngay cả khi tuổi tác đã làm cho mái tóc bạc đi.
Bài thơ không chỉ là lời kể về bi kịch mà còn là hình ảnh của lòng yêu nước và sự kiên cường trước mọi khó khăn. Mỗi nhịp thơ đều là một dấu chấm cho thế hệ trẻ, nhắc nhở họ phải không ngừng xây dựng đất nước, vươn lên với tinh thần bất khuất.
Chia sẻ thêm cho bạn 🌿Bảo Kính Cảnh Giới [Nguyễn Trãi] 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật