Thohay.vn chia sẽ nội dung đoạn trích Quang Trung Đại Phá Quân Thanh trong Hoàng Lê nhất thống chí cũng như đọc hiểu ý nghĩa, tóm tắt, soạn bài, giáo án… chi tiết.
NỘI DUNG CHÍNH
Giới Thiệu Tác Phẩm Quang Trung Đại Phá Quân Thanh
“Quang Trung đại phá quân Thanh” là một phần trong tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí”, một cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng của Việt Nam, được viết bằng chữ Hán theo lối chương hồi. Tác phẩm này được sáng tác bởi Ngô gia văn phái, một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì.
Tác phẩm Quang Trung đại phá quân Thanh được sáng tác trong khoảng thời gian từ cuối triều Lê sang đầu triều Nguyễn, tức là cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Tác phẩm này ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê và ca ngợi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn do người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ lãnh đạo.
Hoàng Lê nhất thống chí là một cuốn tiểu thuyết lịch sử được viết bằng chữ Hán theo lối chương hồi, gồm 17 hồi. Dựa vào việc ghi chép lại các sự kiện lịch sử – xã hội có thực, nhân vật thực, địa điểm thực, tác phẩm đã phản ánh những biến động của lịch sử nước nhà từ cuối thế kỉ XVIII đến những năm đầu thế kỉ XIX.
Quang Trung Đại Phá Quân Thanh được trích phần lớn hồi mười bốn, viết về sự kiện vua Quang Trung đại phá quân Thanh.
Nội dung chính
- Tác phẩm ghi lại sự kiện lịch sử quan trọng khi vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) lãnh đạo quân Tây Sơn đánh bại quân Thanh xâm lược vào cuối thế kỷ XVIII. Sau khi Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh, quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy đã tiến vào Thăng Long. Tuy nhiên, với chiến lược tài tình và sự quyết tâm của quân Tây Sơn, Quang Trung đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, tiến quân ra Bắc và giành chiến thắng vang dội.
Điểm đặc biệt
- Thể loại: Tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi, gồm 17 hồi.
- Phương thức biểu đạt: Tự sự, kể theo ngôi thứ ba
- Ý nghĩa lịch sử: Tác phẩm không chỉ ca ngợi chiến công của Quang Trung mà còn phản ánh tinh thần yêu nước, sự đoàn kết và lòng dũng cảm của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm.
Tóm tắt
- Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh.
- Quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy tiến vào Thăng Long.
- Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung, tiến quân ra Bắc.
- Chiến thắng: Quân Tây Sơn đánh bại quân Thanh tại các trận Hạ Hồi và Ngọc Hồi, giành lại Thăng Long.
Tác phẩm “Quang Trung đại phá quân Thanh” là một minh chứng hùng hồn cho tài năng quân sự của Quang Trung và tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam.
Chia sẽ bạn bản đầy đủ 👉 Hoàng Lê Nhất Thống Chí
Nội Dung Quang Trung Đại Phá Quân Thanh
Dưới đây là nội dung tác phẩm Quang Trung Đại Phá Quân Thanh, hồi thứ 14 được trích trong Hoàng Lê nhất thống chí.
(Đoạn đầu của hồi này nói về việc Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long, thấy dễ dàng, cho là vô sự, không đề phòng gì cả. Điều đó làm cho vua tôi Lê Chiêu Thống, vốn đã biết rất rõ tài cầm quân của Nguyễn Huệ, rất lo lắng.)
Nhắc lại, Ngô Văn Sở sau khi đem các đạo quân rút lui, tức tốc sai Nguyễn Văn Tuyết chạy trạm vào Nam cáo cấp. Một mặt, chặn ngang đất Trường Yên làm giới hạn, đóng thuỷ quân ở hải phận Biện Sơn, quân bộ thì chia giữ vùng núi Tam Điệp, hai mặt thuỷ bộ liên lạc với nhau, ngăn hẳn miền Nam với miền Bắc. Vì thế, việc ở bốn trấn Đàng Ngoài không hề thấu đến hai xứ Thanh, Nghệ. Vì vậy việc quân Thanh đến Thăng Long và việc vua Lê thụ phong ngày 22 tháng 11, từ Thanh Hoá trở vào, không một người nào được biết. Ngày 20 tháng ấy, Sở lui về Tam Điệp, thì ngày 24 Tuyết đã vào đến thành Phú Xuân. Bắc Bình Vương tiếp được tin báo, giận lắm, liền họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay. Nhưng các người đến họp đều nói:
– Chúa công với vua Tây Sơn có sự hiềm khích, đối với ngôi chí tôn, lòng tôn phò của mọi người chưa thật vững bền, nay nghe quân Thanh sang đánh, càng dễ sinh ra ngờ vực hai lòng. Vậy xin trước hết hãy chính vị hiệu4, ban lệnh ân xá khắp trong ngoài, để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người, rồi sau sẽ cất quân ra đánh dẹp cõi Bắc cũng chưa là muộn.
Bắc Bình Vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân, tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi; chế ra áo cổn mũ miện, lên ngôi hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung. Lễ xong, hạ lệnh xuất quân, hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788).
Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh, cả thuỷ lẫn bộ cùng ra đi. Ngày 29 đến Nghệ An, vua Quang Trung cho vời người cống sĩ ở huyện La Sơn là Nguyễn Thiếp vào dinh và hỏi:
– Quân Thanh sang đánh, tôi sắp đem binh ra chống cự. Mưu đánh và giữ, cơ được hay thua, tiên sinh nghĩ như thế nào?
Thiếp nói:
– Bây giờ trong nước trống không, lòng người tan rã. Quân Thanh ở xa tới đây, không biết tình hình quân ta yếu hay mạnh, không hiểu rõ thế nên đánh nên giữ ra sao. Chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày, quân Thanh sẽ bị dẹp tan.
Vua Quang Trung mừng lắm, liền sai đại tướng là Hám Hổ Hầu kén lính ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một người, chưa mấy lúc, đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ. Rồi nhà vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn, đem số thân quân ở Thuận Hóa, Quảng Nam chia làm bốn donah tiền, hậu, tả, hữu, còn số lính mới tuyển ở Nghệ An thì làm trung tâm.
Vua Quang Trung cưỡi voi ra doanh yêu ủi quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe lệnh, rồi dụ họ rằng:
– Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc3 không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ; các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy, đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!
Các quân lính đều nói: “Xin vâng lệnh, không dám hai lòng!”.
Hôm sau, vua Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Các quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Khi đến núi Tam Điệp, Sở và Lân ra đón, đều mang gươm trên lưng mà xin chịu tội.
Vua Quang Trung nói:
– Các ngươi đem thân thờ ta, đã làm đến chức tướng soái. Ta giao cho toàn hạt cả 11 thừa tuyên, lại cho tuỳ tiện làm việc. Vậy mà giặc đến không đánh nổi một trận, mới nghe tiếng đã chạy trước. Binh pháp dạy rằng: “Quân thua chém tướng”. Tội của các ngươi đều đáng chết một vạn lần. Song ta nghĩ các ngươi đều là hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến như việc tuỳ cơ ứng biến thì không có tài. Cho nên, ta để Ngô Thì Nhậm ở lại đấy làm việc với các ngươi, chính là lo về điều đó. Bắc Hà mới yên, lòng người chưa phục, Thăng Long lại là nơi bị đánh cả bốn mặt, không có sông núi để nương tựa. Năm trước ta ra đánh đất ấy, chúa Trịnh quả nhiên không thể chống nổi, đó là chứng cớ rõ ràng. Các người đóng quân trơ trọi ở đấy, quân Thanh kéo sang, người trong kinh kì làm nội ứng cho chúng, thì các ngươi làm sao mà cử động được? Các ngươi đã biết nín nhịn để tránh mũi nhọn của chúng, chia ra chặn giữ các nơi hiểm yếu, bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng, kế ấy là rất đúng. Khi mới nghe nói, ta đã đoán là do Ngô Thì Nhậm chủ mưu, sau hỏi Văn Tuyết thì quả đúng như vậy…
Thì Nhậm bèn lạy hai lạy để tạ ơn. Vua Quang Trung lại nói:
– Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy, chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?
Bọn Sở, Lân đều lạy tạ và nói:
– Chúa thượng thật là lo xa, chúng tôi ngu dại không thể nghĩ tới chỗ đó. Hiện nay phương lược tiến đánh ra sao, xin chúa thượng nhất nhất chỉ rõ để chúng tôi tuân theo mà làm.
Vua Quang Trung bèn sai mở tiệc khao quân, chia quân sĩ ra làm năm đạo, hôm đó là ngày 30 tháng Chạp. Rồi nhà vua bảo kín với các tướng rằng:
– Ta với các ngươi hãy tạm sửa lễ cúng Tết trước đã. Đến tối 30 Tết lập tức lên đường, hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngươi nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác!
[…] Cả năm đạo quân đều lạy vâng mệnh lệnh, đúng ngày, gióng trống lên đường ra Bắc.
Khi quân ra đến sông Gián, nghĩa binh trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước. Lúc đến sông Thanh Quyết, toán quân Thanh đi do thám từ đằng xa trông thấy bóng cũng chạy nốt. Vua Quang Trung liền thúc quân đuổi theo, tới huyện Phú Xuyên thì bắt sống được hết, không để tên nào trốn thoát. Bởi vậy, không hề có ai chạy về báo tin, nên những đạo quân Thanh đóng ở Hà Hồi đều không biết gì cả.
Nửa đêm ngày mồng 3 tháng Giêng, năm Ki Dậu (1789), vua Quang Trung tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, lặng lẽ vây kín làng ấy, rồi bắc loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau dạ ran để hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc ấy mới biết, ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân Nam lấy hết.
Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hai mươi bức. Đoạn kén hạng lính khoẻ mạnh, cứ mười người khênh một bức, lưng giắt dao ngắn; hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ “nhất”; vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc, mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra, chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió bắc, quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa ra, khói toả mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam rối loạn. Không ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió nam, thành ra quân Thanh lại tự làm hại mình.
Vua Quang Trung liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo của hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa; những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái thú Điền Châu là Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết […]. Quân Thanh đại bại.
Trước đó, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghỉ binh ở phía đông. Đến lúc ấy, quân Thanh chạy về trông thấy, càng thêm hoảng sợ, bèn tìm lối tắt theo đường Vịnh Kiều mà trốn. Chợt lại thấy quân voi từ Đại Áng tới, quân Thanh đều hết hồn hết vía, vội trốn xuống đầm Mực, làng Quỳnh Đô, quân Tây Sơn lùa voi giày đạp, chết đến hàng vạn người. Giữa trưa hôm ấy vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo vào thành.
[…] Lại nói, Tôn Sĩ Nghị và vua Lê ở thành Thăng Long, tuyệt nhiên không nghe tin cấp báo gì cả cho nên trong ngày Tết mọi người chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng, không hề lo chỉ đến việc bất trắc. Nào hay cuộc vui chưa tàn, cơ trời đã đổi. Ngày mồng 4 bỗng thấy quân ở đồn Ngọc Hồi chạy về cáo cấp. Thật là: “Tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên”.
[….] Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kị mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng bắc mà chạy. Quân sĩ các doanh nghe tin, đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính đều rơi xuống nước, đến nỗi nước sông Nhĩ Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa.
Vua Lê ở trong điện, nghe tin có việc biến ấy, vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến đưa thái hậu ra ngoài. Cả bọn chạy đến bến sông thì thấy cầu phao đã đứt, thuyền bè cũng không, bèn gấp rút chạy đến Nghi Tàm, thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá, vội cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc. Trưa ngày mồng 6, vua Lê và những người tuỳ tòng chạy đến núi Tam Tằng, nghe nói Tôn Sĩ Nghị đã đi khỏi đó. Bấy giờ quân Thanh chạy về nước, trên đường đông nghịt như chợ, đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi. Vua đưa thái hậu cùng đi với họ đến đồn Hoà Lạc thì gặp một người thổ hào. Hồi trước vua Lê chạy ra ngoài, người ấy đã được biết mặt; lúc đó thấy vua, người ấy bất giác rơi lệ, nhân tiện mời vua vào trại trong núi tạm nghỉ. Bấy giờ, vua Lê và những người tuỳ tòng luôn mấy ngày không ăn, ai nấy đều đã mệt lử. Người thổ hào kia liền giết gà làm cơm thết đãi. Vua sai bưng một mâm lên mời thái hậu; còn mình thì cùng ăn với bọn Quýnh, Hiến ở mâm dưới.
Ăn vừa xong, chợt nghe tin quân Tây Sơn đã đuổi theo đến nơi. Vua cuống quýt bảo người thổ hào rằng:
– Muôn đội hậu tình, không có gì để báo đáp, chỉ có trời cao đất dày chứng giám tấc lòng thành của ông mà ban phúc cho thôi. Bây giờ quân giặc gần tới, trước mắt đây có con đường sống nào có thể chạy gấp lên cửa ải, xin tính kế ngay cho.
Người thổ hào vội vã sai con đưa đường, theo lối tắt trong núi mà đi. Trời nhá nhem tối thì nhà vua đến cửa ải, theo kịp chỗ nghỉ của Tôn Sĩ Nghị. Một lát các viên quan khác cũng lục tục theo đến, cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt. Tôn Sĩ Nghị cũng lấy làm xấu hổ.
Mời bạn xem thêm tác phẩm 👉 Chiếu Dời Đô
Diễn Biến Quang Trung Đại Phá Quân Thanh
Xem ngay diễn biến về sự kiện Quang Trung Đại Phá Quân Thanh qua nội dung bên dưới.
Ngày 24 tháng Giêng năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ nhận được cấp báo của Ngô Văn Sở từ Bắc Hà cho biết, đại quân Thanh đã đột nhập Thăng Long bốn ngày trước đó.
Bấy giờ Nguyễn Huệ đang đóng ở Phú Xuân, ông lập tức cho triệu các tướng soái vào thương nghị. Đất nước đang đứng trước một sự kiện trọng đại, cần phải có những quyết sách nhanh chóng. Nếu với danh nghĩa Bắc Bình Vương, ông vẫn là một tướng “ngoài cõi” có danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh”.
Bây giờ Lê Chiêu Thống đã lộ mặt bán nước cầu vinh, danh nghĩa ấy không còn giá trị nữa. Phải lấy nước làm trọng! Để có danh chính ngôn thuận, ngay hôm sau, Bắc Bình Vương lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung.
Đứng trước 6 vạn quân sĩ uy nghiêm tập hợp trước lễ đàn vừa được dựng ở núi Bân, Nguyễn Huệ cất tiếng sang sảng đọc Chiếu lên ngôi:
“Trẫm đã dựng lại họ Lê, nhưng Lê tự quân không giữ được xã tắc, bỏ nước bôn vong. Sĩ dân Bắc Hà không còn theo về họ Lê, mà lại dựa vào trẫm.”
Với tuyên bố đó, Quang Trung Nguyễn Huệ đã tự đứng ra đảm nhận sứ mệnh cứu dân cứu nước. Và những tiếng reo hò vang dậy của quân sĩ và dân chúng tung hô “Vạn tuế!” chính là sự thừa nhận đầu tiên và cũng đầy sáng suốt của nhân dân đối với vị hoàng đế hiển hách bậc nhất trong lịch sử nước ta.
Quang Trung để lại Huế 2 vạn quân giữ thành, chỉ mang theo 4 vạn quân ra Bắc. Từ Phú Xuân ra đến Nghệ An đường dài 300 km mà chỉ đi hết có bốn ngày!
Đến Thanh Hóa, trong lễ thệ sư tại Thọ Lạc, nhà vua ứng tác một bài hiểu dụ quân sĩ, kết thúc bằng những câu nôm na:
Đánh cho để tóc dài
Đánh cho để răng đen
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ!
Về phía quân Thanh, chúng chia làm bốn đạo tiến vào nước ta. Đạo thứ nhất do Tôn Sĩ Nghị và phó tướng là Đề đốc Hứa Thế Hanh theo đường Lạng Sơn tiến vào Thăng Long.
Đạo thứ hai do Thái thú Sầm Nghi Đống chỉ huy theo đường Cao Bằng tiến xuống. Đạo thứ ba do Đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy, theo ngả Tuyên Quang tràn xuống Sơn Tây. Đạo thứ tư qua vùng Vạn Ninh, Quảng Yên kéo vào chiếm đóng Hải Dương.
Quân Thanh tiến quân như vào chỗ không người.
Tại Lạng Sơn, tướng giữ ải Phan Khải Đức đầu hàng giặc. Ở Thăng Long, Ngô Văn Sở thấy tương quan lực lượng quá chênh lệch: Quân mình vỏn vẹn có hơn một vạn, không thể “chọi” được lực lượng hùng hậu của giặc, nên đã nghe theo lời khuyên của Ngô Thì Nhậm, lui về đóng ở Tam Điệp.
Lê Chiêu Thống cùng bộ sậu lên tận Kinh Bắc đón quân Thanh rồi theo chúng vào Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị tỏ ra vô cùng tự đắc. Hằng ngày, Chiêu Thống phải đến chầu chực ngoài cửa để xin yết kiến nguyên soái thượng quốc, Tôn Sĩ Nghị có cho vào gặp mới được vào.
Quân Thanh nghênh ngang sục sạo khắp trong thành và còn ra các vùng xung quanh cướp phá. Dân tình vô cùng căm giận giặc, ai nấy đều ngóng về phương Nam trông chờ quân Tây Sơn.
Ngày 20 tháng Chạp, đại quân của Quang Trung ra đến Tam Điệp (Ninh Bình) được Ngô Văn Sở cùng các tướng sĩ ra nghênh đón.
Đại tư mã Ngô Văn Sở và nội hầu Phan Văn Lân đến quỳ trước vua Quang Trung xin chịu tội chưa đánh đã lui. Quang Trung nghiêm khắc khiển trách, nhưng khen họ đã tránh được thế giặc mạnh, kịp thời rút lui để bảo toàn lực lượng và làm cho kẻ địch chủ quan.
Nhà vua nói: “Đây là nước cờ hay, rất đúng ý ta. Thoạt nghe ta đã biết ngay đó là chủ mưu của Ngô Tiên sinh, quả không sai.”
Trên đường ra Thăng Long dẹp giặc, vua Quang Trung đã ghé Nghệ An, tìm gặp bằng được La Sơn phu tử để thỉnh ý ông, La Sơn phu tử khi đó đã tiên liệu rằng: “Chúa công ra chuyến này chẳng qua mươi ngày là giặc Thanh sẽ tan”. Quả đúng như vậy, Quang Trung đã đại phá quân Thanh mang lại cái tết trọn vẹn mùa xuân Kỷ Dậu.
Ngày 30 Tết, Quang Trung cho mở lễ khao quân. Đứng trước các tướng sĩ, nhà vua tuyên bố như đinh đóng cột:
– Hôm nay ta cùng các ngươi hãy tạm sửa lễ cúng Tết trước đã, hẹn đến ngày mùng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngươi nhớ lấy!
Đúng đêm trừ tịch, trời tối đen như mực, các đạo quân được lệnh lặng lẽ xuất phát.
Đạo quân chủ lực bao gồm bộ binh, tượng binh, kị binh đánh thẳng ra phía nam thành Thăng Long.
Đại tư mã Ngô Văn Sở, Nội hầu Phan Văn Lân chỉ huy tiền quân, Hám Hổ hầu đốc thúc hậu quân.
Trung quân do đích thân vua Quang Trung chỉ huy. Đô đốc Bảo, Đô đốc Long đem quân đi tắt đường núi phía tây tấn công vào ngả Chương Mĩ, Khương Thượng.
Đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đem thủy quân vượt biển vào sông Lục Đầu tiếp ứng phía đông Thăng Long và chặn đường rút của giặc.
Ngày Tết, quân Thanh bày trò vui chơi, rượu say túy lúy. Tôn Sĩ Nghị không thể ngờ đạo quân của Quang Trung đã mở cuộc hành công thần tốc.
Khi Lê Chiêu Thống đến chúc Tết, trước vẻ lo âu của “An Nam quốc vương”, y còn huênh hoang là đến mùng 6 Tết sẽ ra quân, bắt sống Nguyễn Huệ ở Thuận Hóa.
Trong khi đó, đại quân do đích thân Quang Trung chỉ huy đã vượt đò Gián Khẩu (giáp Hà Nam).
Quân Thanh và quân của Lê Chiêu Thống bị bất ngờ, sợ hãi bỏ chạy. Quân Tây Sơn đuổi theo bắt không sót một tên, không để cho kẻ nào chạy thoát về báo cho quân nhà biết.
Đêm mùng ba Tết, đại quân Tây Sơn vây kín đồn Hà Hồi trong khi quân Thanh vẫn mải mê ăn Tết. Quân ta xuất hiện bất ngờ như quân nhà trời, lại được dân chúng bện rơm đốt rồng lửa reo hò trợ giúp, toàn bộ quân giặc hoảng sợ đầu hàng, ta không tốn một viên đạn, một mũi tên.
Đồn Ngọc Hồi là vị trí tiền tiêu của giặc trấn giữ cửa ngõ Thăng Long. Đồn có quân số rất lớn, phòng thủ nghiêm ngặt dưới quyền chỉ huy của phó tướng Hứa Thế Hanh.
Nghe tin Hà Hồi thất thủ, Hứa Thế Hanh dẫn đầu đội kị binh nửa đêm ra khỏi đồn chặn đánh. Ngựa giặc thấy đàn voi của ta xông trận, sợ hãi chạy trở lại vào đồn, giày xéo cả lên quân của chúng.
Lúc ấy trời vừa tảng sáng, quân giặc trong đồn có hỏa lực mạnh bắn ra dữ dội, nhiều quân sĩ ta thương vong, không tiến lên được. Quang Trung sai quân lấy các mảnh ván ghép lại, bện rơm xấp nước làm khiên.
Cứ 20 người mang một tấm khiên xông lên, quân giặc bắn tên đạn ra đều vô hiệu. Quang Trung đích thân cưỡi voi đốc chiến. Quân ta tiến đến sát đồn, nhất tề bỏ khiên ào tới tiêu diệt địch. Quân giặc chống cự không nổi chạy tán loạn, Hứa Thế Hanh chết trong đám loạn quân.
Quân Thanh chạy về phía Đại Áng bị cánh quân của Đô đốc Bảo chặn đánh, dồn về phía Đầm Mực, chúng bị voi giày xéo, chết như ngả rạ.
Cánh quân của Đô đốc Long tiến đánh đồn Khương Thượng, quân Thanh bị chết vô kể, thây chất thành núi. Tướng tiên phong Trương Sĩ Lương và Tả dực Thượng Duy Thăng bị giết chết. Thái thú Sầm Nghi Đống bủn rủn chân tay, treo cổ tự tử trên gò Đống Đa.
Sáng mùng 5 Tết, Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị còn đang say ngủ thì tin thất trận từ các ngả dồn dập báo về, tiếng súng, tiếng voi gầm, ngựa hí vang động khắp nơi.
Không kịp lấy ấn tín, Tôn Sĩ Nghị vội nhảy lên ngựa bỏ chạy, thoát được qua cầu phao bắc trên sông Hồng rồi một mình một ngựa trốn lên phương Bắc.
Quân Thanh như rắn mất đầu, quân tướng các trại cũng ùa chạy theo, chen chúc tranh nhau qua cầu phao. Cầu phao bị gãy, quân giặc chết chìm dưới làn nước lạnh giá, xác lềnh bềnh cả một quãng sông.
Quân ta hùng dũng tiến vào Thăng Long giải phóng. Vua Quang Trung áo bào còn khét mùi khói súng, ngự trên bành voi dẫn đầu đoàn quân chiến thắng giữa tiếng hò reo hân hoan của dân kinh thành.
Lê Chiêu Thống trốn thoát lưu vong sang nhờ cậy nhà Thanh để sống nốt quãng đời còn lại trong tủi nhục. Năm 28 tuổi Lê Chiêu Thống uất ức mà chết trên đất Trung Hoa. Nhà Hậu Lê thời Lê Trung hưng hoàn toàn chấm dứt. Quang Trung đại phá quân Thanh trở về trong niềm hân hoan của dân chúng.
Hoa đào đỏ rực phố phường đã sạch bóng quân thù. Lời hẹn của nhà vua đã ứng đúng, võn vẹn chỉ có 5 ngày, vua Quang Trung đại phá quân Thanh, đánh đuổi không còn một tên giặc, mùa xuân năm ấy thật đẹp.
Chia sẽ thêm đến bạn tác phẩm🌿 Bạch Đằng Hải Khẩu 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật
Đôi Nét Về Tác Giả Quang Trung Đại Phá Quân Thanh
Quang Trung Đại Phá Quân Thanh được sáng tác bởi nhóm Ngô gia văn phái.
- Ngô gia văn phái là một nhóm tác giả Việt Nam thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Thanh Trì, TP Hà Nội).
- Ngô gia văn phái là một trong những dòng họ lớn có truyền thống nghiên cứu và sáng tác văn chương, gồm 20 tác giả thuộc 9 thế hệ trong đó hai tác giả chính là Ngô Thì Chí (1753 – 1788) làm quan thời Lê Chiêu Thống và Ngô Thì Du (1772-1840), làm quan dưới triều nhà Nguyễn.
- Ngô Chi Thất và Ngô Trân là người đề xướng và dựng nên Văn phái, về sau được gọi là Ngô gia văn phái.
Ý Nghĩa Tác Phẩm Quang Trung Đại Phá Quân Thanh
Tác phẩm khắc họa vẻ đẹp hào hùng của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ trong chiến công đại phá quân Thanh, sự thảm bại của bọn xâm lược và số phận bi thảm của lũ vua quan phản nước hại dân.
Qua việc mô tả chiến công huyền thoại của Quang Trung, tác phẩm truyền cảm hứng và tinh thần yêu nước cho thế hệ sau, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đoàn kết và chiến đấu vì độc lập tự do.
Bố Cục Tác Phẩm Quang Trung Đại Phá Quân Thanh
Bố cục của tác phẩm Quang Trung Đại Phá Quân Thanh được chia ra 3 phần như sau:
- Phần 1: (Từ đầu đến “…hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng cháp năm Mậu Thân 1788”): được tin báo quân Thanh chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế và thân chinh cầm quân dẹp giặc.
- Phần 2: (Tiếp theo đến “… vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo vào thành”): Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.
- Phần 3: (Còn lại): Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và tình trạng thảm bại của vua tôi Lê Chiêu Thống.
Tham khảo thêm tác phẩm🍃Nam Quốc Sơn Hà 🍃
Đọc Hiểu Tác Phẩm Quang Trung Đại Phá Quân Thanh
Giúp bạn hiểu thêm về tác phẩm Quang Trung Đại Phá Quân Thanh qua phần đọc hiểu bên dưới.
👉 Câu 1 (trang 21, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2): Nội dung nào sau đây là khái niệm của truyện lịch sử?
- A. Truyện kể bằng văn xuôi hoặc văn vần, thường mượn chuyện về loài vật, đồ vật, cây cỏ,… hoặc về chính con người để nêu lên triết lí nhân sinh và những bài học kinh nghiệm về cuộc sống
- B. Truyện có nội dung liên quan đến các nhân vật và sự kiện lịch sử; được nhà văn hư cấu, tưởng tượng, bổ sung, sáng tạo thành những hình tượng văn học sinh động
- C. Truyện kể về cuộc đời của nhân vật bất hạnh, nhân vật có tài năng kì lạ, nhân vật thông minh, nhân vật ngốc nghếch để nêu lên triết lí nhân sinh và những bài học kinh nghiệm về cuộc sống
- D. Truyện thể hiện ước mơ, niềm tin của nhân dân về chiến thắng cuối cùng của cái thiện đối với cái ác, nhằm giáo dục con người
👉 Lời giải chi tiết: Đáp án B
👉 Câu 2 (trang 21, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2): Truyện lịch sử có cốt truyện như thế nào?
- A. Là một hệ thống sự kiện liên quan đến đời sống xã hội nhằm thể hiện nội dung, ý nghĩa tác phẩm
- B. Là một hệ thống sự việc kết nối các sự kiện quan trọng trong lịch sử xã hội nhằm phản ánh kinh nghiệm và triết lí sống
- C. Là một hệ thống sự kiện liên quan đến lịch sử dân tộc được sắp xếp theo một ý đồ nhất định của tác giả nhằm thể hiện nội dung, ý nghĩa tác phẩm
- D. Là một hệ thống sự kiện chính trị, xã hội liên quan đến dân tộc được sắp xếp từ xưa đến nay nhằm phản ánh xã hội, hoặc về chính con người để nêu lên triết lí nhân sinh
👉 Lời giải chi tiết: Đáp án C
👉 Câu 3 (trang 22, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2): (Câu hỏi 4, SGK) Hãy làm sáng tỏ đặc điểm của một truyện lịch sử có cốt truyện đa tuyến qua đoạn trích (chú ý các yếu tố nhân vật và sự kiện chính).
👉 Lời giải chi tiết:
Tác giả đã trình bày một chuỗi các sự kiện từ việc quân Thanh sang xâm lược đến việc Nguyễn Huệ lên ngôi vua dẫn quân đánh bại quân Thanh, vua Lê Chiêu Thống và quần thần tháo chạy.
Đoạn trích của tái hiện những diễn biến phức tạp của nhiều nhân vật khác nhau:
- Suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật Tôn Sĩ Nghị
- Các cảm xúc, suy nghĩ, hành động của Quang Trung
- Diễn biến tâm trạng, cảm xúc, hành động của vua Lê Chiêu Thống
👉 Câu 4 (trang 22, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2): (Câu hỏi 5, SGK) Theo em, qua đoạn trích, tác giả muốn gửi gắm đến đọc thông điệp gì? Thông điệp ấy có giá trị với cuộc sống hôm nay như thế nào?
👉 Lời giải chi tiết
Theo em, qua đoạn trích, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc thông điệp về lòng yêu nước và tôn trọng lịch sử dân tộc. Đến ngày nay tinh thần yêu nước và tự hào về lịch sử của dân tộc vẫn còn được lưu giữ và phát huy, thế hệ trẻ ngày càng có ý thức trong việc xây dựng và phát triển đất nước.
👉 Câu 5 (trang 22, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2): (Câu hỏi 6, SGK) Để viết bài giới thiệu về nhân vật Quang Trung trong văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh, em sẽ nêu những ý chính nào?
👉 Lời giải chi tiết:
- Giới thiệu khái quát thông tin về nhân vật (tên, thời đại)
- Phẩm chất con người của ông. (Tính cách, tài năng)
- Những chiến công của ông.
👉 Câu 6 (trang 22, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2): Lời dụ của vua Quang Trung đối với quân lính có ý nghĩa như thế nào?
👉 Lời giải chi tiết:
- Khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc.
- Nêu truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của cha ông.
- Lời phủ dụ được xem như một bài hịch ngắn gọn, kích thích lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc.
- Có ý nghĩa củng cố, chấn chỉnh quân đội
👉 Câu 7 (trang 22, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2): Các tác giả Ngô gia văn phái là những cựu thần nhà Lê nhưng vì sao lại khắc hoạ hình ảnh vua Quang Trung đẹp đến như thế?
👉 Lời giải chi tiết:
Các tác giả trong nhóm Ngô Gia Văn phái vốn là bề tôi trung thành của nhà Lê nhưng lại xây dựng hình tượng đẹp về người anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ. Trước hết các tác giả có ý thức tôn trọng sự thật lịch sử. Sống giữa những biến động của thời đại các tác giả thấy rõ sự thối nát hèn kém của vua Lê chúa Trịnh , đồng thời cũng không thể phủ nhận được công lao cũng như tài năng của người anh hùng Quang Trung -Nguyễn Huệ.
Bên cạnh đó các tác giả là những người tiến bộ, họ đã vượt lên khỏi định kiến giai cấp, vượt ra khỏi chỗ đứng giai cấp để phản ánh về Quang Trung – Nguyễn Huệ. Cuối cùng các tác giả là những người yêu nước, họ tự hào về những chiến công vĩ đại của dân tộc, không thể không nhắc tới Quang Trung, là linh hồn và tổng chỉ huy của cuộc chiến đấu.
👉 Câu 8 (trang 22, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2): Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Đọc đoạn trích trong SBT Ngữ văn 8 CD tập 2 trang 22-23
a) Đoạn trích trên kể về sự việc gì? Sự việc ấy có liên quan đến sự kiện lịch sử nào của dân tộc?
b) Trong đoạn trích, ai là nhân vật chính? Nhân vật nào có thật trong lịch sử và nhân vật nào được hư cấu?
c) “Phá cường địch báo hoàng ân” có nghĩa là gì? Vì sao Trần Quốc Toản rất tâm đắc với sáu chữ này?
d) Trong đoạn trích trên, điều gì gây ấn tượng sâu sắc nhất đối với em? Vì sao?
👉 Lời giải chi tiết:
a) Đoạn trích kể về sự việc Trần Quốc Toản dựng cờ với sáu chữ vàng “Phá cường địch báo hoàng ân” để chiêu binh mãi mã, đánh giặc cứu nước. Sự việc ấy có liên quan đến sự kiện lịch sử của dân tộc là thời kì nhà Trần chống quân Nguyên xâm lược.
b) Nhân vật chính trong đoạn trích là Trần Quốc Toản. Nhân vật Trần Quốc Toản, Chiếu Thành Vương, phu nhân có thật trong lịch sử, còn vị tướng già là nhân vật hư cấu.
c) Sáu chữ “Phá cường địch báo hoàng ân” có nghĩa: phá giặc mạnh báo ơn vua, Trần Quốc Toản rất tâm đắc vì “sáu chữ đối nhau chan chát, lời đanh thép, ý hùng thể hiện niềm khát khao được đánh giặc cứu nước của Trần Quốc Toản.
d) Trong đoạn trích, em ấn tượng nhất với dòng chữ “Phá cường địch báo hoàng ân” của Trần Quốc Toản in trên lá cờ. Bởi lẽ, dòng chữ này mang ý nghĩa mạnh mẽ và đầy tự hào, thể hiện quyết tâm và sự kiên trì trong việc đánh bại kẻ thù và bảo vệ quê hương. Câu này cũng tạo ra một cảm giác động viên và khích lệ cho trong em, gợi lên niềm tin vào khả năng vượt qua khó khăn và chiến thắng trong cuộc sống.
Xem thêm 👉 Thơ Lý Thường Kiệt
Giá Trị Văn Bản Quang Trung Đại Phá Quân Thanh
Tham khảo thêm giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của đoạn trích Quang Trung Đại Phá Quân Thanh mà thohay.vn chia sẽ bên dưới.
👉 Giá trị nội dung đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh
Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả đã tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
👉 Giá trị nghệ thuật
Tác phẩm nổi bật là một tiểu thuyết chương hồi viết bằng chữ Hán với cách kể chuyện nhanh gọn, chọn lọc sự kiện, khắc họa nhân vật chủ yếu qua hành động, lời nói, kể chuyện xen miêu tả sinh động và cụ thể, gây ấn tượng mạnh.
Sơ Đồ Tư Duy Quang Trung Đại Phá Quân Thanh
Dựa vào bản sơ đồ tư duy tóm tắt Quang Trung Đại Phá Quân Thanh mà thohay.vn chia sẽ bên dưới sẽ giúp nắm được tổng thể đoạn trích một cách đầy đủ từ đó có thể xây dựng nên bài văn hoàn chỉnh.
Tham khảo 👉 Thơ Trần Quang Khải [Tác giả + tác phẩm]
Soạn Bài Quang Trung Đại Phá Quân Thanh Ngữ Văn 8
Soạn bài Quang Trung đại phá quân Thanh ở trang 56 trong sách Cánh diều chi tiết, đầy đủ
1. Chuẩn bị
Yêu cầu (trang 56 sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 2):
– Xem lại phần Kiến thức ngữ văn để vận dụng vào đọc hiểu văn bản này.
– Khi đọc truyện lịch sử, các em cần chú ý:
- Truyện viết về sự kiện gì? Cốt truyện, bối cảnh, nhân vật chính trong truyện liên quan như thế nào với lịch sử của dân tộc?
- Chủ đề, tư tưởng, thông điệp nội dung mà văn bản truyện muốn thể hiện.
- Một số đặc điểm hình thức nổi bật của truyện (sự kiện, nhân vật, ngôn ngữ mang không khí và dấu ấn lịch sử)
- Những tình cảm, cảm xúc, cảm hứng chủ đạo của người viết thể hiện qua văn bản truyện.
– Đọc trước văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh; tìm hiểu thêm thông tin về nhóm tác giả Ngô gia văn phái.
Trả lời:
- Truyện viết về sự kiện Quang Trung đại phá quân Thanh năm 1789. Cốt truyện, bối cảnh, nhân vật chính có liên quan trực tiếp đến sự kiện có thật trong lịch sử dân tộc.
- Chủ đề: Sự kiện lịch sử Quang Trung đại phá quân Thanh (1789)
- Tư tưởng: Ngợi ca tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm và tài lãnh đạo tài tình vua Quang Trung
- Nội dung: Chiến thắng của Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của vua Quang Trung trước quân Thanh
- – Sự kiện, nhân vật trong truyện là những sự kiện, nhân vật có thật trong lịch sử.
- Ngôn ngữ truyện mang không khí và dấu ấn lịch sử, phù hợp với bối cảnh và thời đại.
- Tác giả thể hiện sự ngợi ca, tự hào với chiến thắng của vua Quang Trung và nhà Tây Sơn trước quân Thanh.
- Nhóm tác giả Ngô gia văn phái là một nhóm tác giả Việt Nam thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam. Người đề xướng và dựng lên Văn phái (về sau được mệnh danh là Ngô gia văn phái) chính là là Ngô Chi Thất và Ngô Trân. Ngô gia văn phái bao gồm 20 tác giả thuộc 9 thế hệ trong đó hai tác giả chính là Ngô Thì Chí (1753 – 1788) làm quan thời Lê Chiêu Thống và Ngô Thì Du (1772-1840), làm quan dưới triều nhà Nguyễn.
2. Đọc hiểu:
* Nội dung chính
Qua đoạn trích, người đọc cảm nhận về vẻ đẹp hào hùng của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ trong chiến công đại phá quân Thanh, sự thảm bại của bọn xâm lược và số phận bi thảm của lũ vua quan phản nước hại dân.
* Trả lời câu hỏi giữa bài
👉 Câu 1 (trang 57 sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 2): Phần (1) kể về tuyến nhân vật nào?
Trả lời: Phần 1 kể về tướng nhà Thanh Tôn Sĩ Nghị.
👉 Câu 2 (trang 59 sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 2): Tóm tắt ý chính lời dụ của Quang Trung.
Trả lời:
– Lời phủ dụ của Quang Trung nhằm khẳng định chủ quyền dân tộc của đất nước. Đồng thời lên án tội ác của giặc, khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc. Qua đó kêu gọi binh sĩ đánh giặc, đề ra kỷ luật rất nghiêm.
👉 Câu 3 (trang 60 sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 2): Ý nào trong lời của Quang Trung thể hiện tầm nhìn, biết “lo xa”?
Trả lời:
– Quang Trung đã nhìn thấy trước việc quân Thanh sau khi thua trận ắt sẽ thẹn mà lo mưu báo thù, nhân dân lại khổ sở. Chính vì vậy, ông đã dự định để Ngô Thì Nhậm, một người khéo lời lẽ ra dẹp việc binh đao.
👉 Câu 4 (trang 61 sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 2): Cách đánh giặc của Quang Trung có gì đặc biệt?
Trả lời:
Nét độc đáo trong cách đánh giặc xủa vua Quang Trung:
* Quân sự:
– Vua Quang Trung có chiến thuật hành quân thần tốc, tiến đánh bất ngờ.
– Khác với các cuộc kháng chiến chúng ta phải giữ thế thủ và phản công khi địch còn yếu, vua Quang Trung chủ động đánh sòng phẳng ngay khi địch còn đang mạnh.
* Chính trị:
– Nhanh chóng lấy lòng nhân sĩ và nhân dân Bắc Hà.
– Lên ngôi hoàng đế sớm để thể hiện tính chính danh.
👉 Câu 5 (trang 62 sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 2): Phần (3) có thể coi là một tuyến truyện không? Vì sao?
Trả lời:
– Phần 3 có thể coi là một tuyến truyện vì trong phần này đã tái hiện những diễn biến phức tạp của nhân vật Vua Lê.
👉 Câu 6 (trang 62 sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 2): Hình dung thái độ và hành động của vua Lê.
Trả lời:
– Vua Lê lúc này trong lòng sợ hãi quân Tây Sơn sắp đuổi đến liền vội vã cùng triều thần bỏ chạy.
* Trả lời câu hỏi cuối bài:
👉 Câu 1 (trang 63 sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 2): Văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh kể về những sự kiện gì? Các sự kiện ấy liên quan đến những tuyến nhân vật nào?
Trả lời:
Văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh kể về 3 sự kiện chính:
– Tướng giặc Tôn Sĩ Nghị chủ quan, hống hách, bắt nạt triều đình vua Lê
– Quang Trung thần tốc ra Bắc đánh tan quân Thanh
– Vua Lê cùng một số triều thần chạy trốn lên biên giới phía bắc
=> Các sự kiện ấy liên quan đến những tuyến nhân vật: Quang Trung, vua Lê Chiêu Thống, Ngô Thì Nhậm, tướng nhà Thanh như Tôn Sĩ Nghị, Sầm Nghi Đống …
👉 Câu 2 (trang 63 sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 2): Đặt tên và nêu nội dung chính của mỗi phần trong đoạn trích.
Trả lời:
– Phần 1: (từ đầu đến “…hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng cháp năm Mậu Thân 1788”): được tin báo quân Thanh chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế và thân chinh cầm quân dẹp giặc.
– Phần 2: (tiếp theo đến “… vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo vào thành”): Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.
– Phần 3: (còn lại): Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và tình trạng thảm bại của vua tôi Lê Chiêu Thống.
👉 Câu 3 (trang 63 sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 2): Phân tích một số chi tiết trong văn bản để làm rõ đặc điểm tính cách của hai nhân vật Quang Trung và Lê Chiêu Thống.
Trả lời:
* Vua Quang Trung:
– Nhận được tin giặc chiếm Thăng Long, quân Tây Sơn mất cả một vùng đất rộng lớn ông không hề nao núng nhưng “giận lắm”, “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Nhờ tướng sĩ can ngăn, ông lấy lại bình tĩnh, mở cuộc luận bàn kế sách đánh giặc. Sau khi kế hoạch diệt giặc đã chu tất, ông nhanh chóng tiến hành. Chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã làm rất nhiều việc lớn: tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế để “chính vị hiệu”, “giữ lấy lòng người”, chiêu mộ nhân tài ra giúp nước. khi tiến quân, ông tự mình “đốc suất đại binh” ra Bắc.
– Đi đến đâu, ông chiêu mộ binh sĩ đến đó. Chính sách cũng hết sức hài hòa, lấy dân làm gốc, không bao giờ cưỡng bách dân chúng. Nghe tin đất Hà Tĩnh có cao nhân Nguyễn Thiếp, ông năm lần bảy lược đến thỉnh cầu, thực tâm mời Nguyễn Thiếp ra giúp sức. Trước khi tiến quân đến Bắc Hà, ông tổ chức tổng lực duyệt binh, củng cố đội hình, ra hịch chiêu dụ tướng sĩ, nâng cao tinh thần sĩ khí, quyết tâm diệt giặc xâm lăng. => Mỗi hành động của Quang Trung- Nguyễn Huệ đều rất quả quyết, mạnh mẽ phi thường khiến cho tướng sĩ tin tưởng hết sức.
– Khi Sở và Lân mang gươm đến chịu tội vì để giặc chiếm vùng Tam Điệp. Ông giận lắm nhưng vì hiểu tường tận năng lực của bề tôi, nắm được thế giặc nên khen chê đúng người đúng việc. => Nguyễn Huệ rất sáng suốt trong việc xét đoán và dùng người.
– Mới khởi binh, chưa lấy được tấc đất nào, vậy mà Quang Trung đã tuyên bố chắc nịch “phương lược tiến đánh đã có sẵn”, “Chẳng qua mươi ngay có thể đuổi được người Thanh”. => Quang Trung có tầm nhìn vượt thời đại, thật hiếm có trên đời.
– Ông nghĩ xa đến việc chính sách ngoại giao của ta sau cuộc đại chiến: phương Bắc nước “lớn gấp mười nước mình”, bị thua một trận “ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù” khiến việc binh đao không bao giờ dứt nên sau chiến thắng để có thời gian “yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng”, làm cho nước giàu quân mạnh. => Ông có trí tuệ của bậc quân vương biết lo xa, nhìn rõ toàn cục, định liệu như thần.
– Cuộc hành quân thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn do đích thân vua Quang Trung chỉ huy. Từ Thanh Hóa ra đến Bắc Hà, vừa đi, vừa nghỉ với khí giới, quân trang, quân dụng nặng nề lại vừa phải đánh giặc phá thành, chiếm đóng, thế mà Quang Trung ấn định trong bảy ngày. => Nguyễn Huệ là người có tài dụng binh như thần.
* Lê Chiêu Thống:
– Trong phần 3 của văn bản có chi tiết khắc họa nhân vật Lê Chiêu Thống là: Vua Lê ở thành Thăng Long không nghe được tin cấp báo nên trong ngày Tết mọi người chỉ chăm chú vào tiệc yến mừng, không lo chi đến việc bất trắc.
– Sau khi biết tin: Vua Lê ở trong điện, nghe tin có việc biến ấy, vội vã cùng bọn Lê Quỳnh, Trịnh hiến đưa thái hậu ra ngoài. Cả bọn chạy đến bến sông thì thấy cầu phao đã đứt, thuyền bè cũng không, bèn gấp rút chạy đến Nghi Tàm, gặp được chiếc thuyền đánh cá vội cướp lấy rồi chèo sang bờ Bắc.
=> Vua Lê Chiêu Thống là một ông vua bù nhìn, đặt lợi ích cá nhân lên trước lợi ích của đất nước, cấu kết với nhà Thanh để đất nước rơi vào tay của kẻ thù phương Bắc. Ông không xứng đáng làm vua nước Nam nên kết cục ông phải trả giá. Ông đã bán sống bán chết chạy trốn, thậm chí còn bị đói chạy đến cửa ải để tìm đường sống và “nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”.
👉 Câu 4 (trang 63 sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 2): Hãy làm sáng tỏ đặc điểm của một truyện lịch sử có cốt truyện đa tuyến qua đoạn trích (chú ý các yếu tố nhân vật và sự kiện chính).
Trả lời:
– Tác giả đã trình bày một chuỗi các sự kiện từ việc quân Thanh sang xâm lược đến việc Nguyễn Huệ lên ngôi vua dẫn quân đánh bại quân Thanh, vua Lê Chiêu Thống và quần thần tháo chạy.
– Đoạn trích của tái hiện những diễn biến phức tạp của nhiều nhân vật khác nhau:
- Suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật Tôn Sĩ Nghị
- Các cảm xúc, suy nghĩ, hành động của Quang Trung
- Diễn biến tâm trạng, cảm xúc, hành động của vua Lê Chiêu Thống
👉 Câu 5 (trang 63 sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 2): Theo em, qua đoạn trích, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc thông điệp gì? Thông điệp ấy có giá trị với cuộc sống hôm nay như thế nào?
Trả lời:
– Tác giả muốn gửi gắm đến người đọc thông điệp về lòng yêu nước và tôn trọng lịch sử dân tộc.
– Thông điệp: Luôn nêu cao tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm.
– Giá trị: Tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc vẫn còn được lưu giữ và phát huy đến ngày nay.
👉 Câu 6 (trang 63 sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 2): Để viết bài giới thiệu về nhân vật Quang Trung trong văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh, em sẽ nêu những ý chính nào?
Trả lời:
Để viết bài giới thiệu về nhân vật Quang Trung trong văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh, em sẽ nêu những ý chính sau:
- Giới thiệu khái quát thông tin về nhân vật (tên, bối cảnh lịch sử…)
- Phẩm chất con người của ông. (Tính cách, tài năng)
- Những chiến công của ông (chiến công tiêu biểu)
Thohay.vn giới thiệu đến bạn 👉 Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm [Tác giả + tác phẩm]
Giáo Án Quang Trung Đại Phá Quân Thanh Lớp 8
Thohay.vn chia sẽ mẫu giáo án tác phẩm Quang Trung Đại Phá Quân Thanh để các thầy, cô giáo có thể tham khảo cho tiết dạy học của mình.
I. MỤC TIÊU
1. Mức độ yêu cầu cần đạt
- Nhận biết và củng cố được một số yếu tố của truyện lịch sử như: cốt truyện, bối cảnh, nhân vật, ngôn ngữ.
- Nhận biết và phân tích được chủ đề, tư tưởng, thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc thông qua hình thức nghệ thuật của văn bản, phân tích được một số căn cứ để xác định chủ đề.
- HS biết kết nối VB với trải nghiệm cá nhân, từ đó bồi đắp cho mình tình yêu nước, lòng tự hào dân tộc niềm kính trọng đối với những người anh hùng của dân tộc.
2. Năng lực
2.1 Năng lực chung
– Năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác…
2.2 Năng đặc thù
– Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh
– Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh
– Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về thành tựu nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa văn bản.
– Năng lực phân tích, so sánh đặc điểm nghệ thuật của văn bản với các văn bản khác có cùng chủ đề.
3. Phẩm chất
– Tự hào về truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông, có tinh thần trách nhiệm đối với đất nước.
II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU
- Chuẩn bị của giáo viên
- Giáo án
- Phiếu bài tập, trả lời câu hỏi
- Tranh ảnh về nhà văn hình ảnh
- Bảng phân công nhiệm vụ cho HS hoạt động trên lớp
- Bảng giao nhiệm vụ học tập cho HS ở nhà
- Chuẩn bị của HS: SGK, SBT Ngữ Văn 8, soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn bài học, vở ghi.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
- KHỞI ĐỘNG
- Mục tiêu: Tạo hứng thú cho HS, thu hút HS sẵn sàng thực Quang Trung đại phá quân Thanh
- Nội dung: GV tổ chức cho HS chia sẻ về những anh hùng dân tộc mà em biết
- Sản phẩm: Câu trả lời của HS và đáp án về những vị anh hùng dân tộc mà em biết và ấn tượng
- Tổ chức thực hiện
- Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập
- GV đặt câu hỏi gợi mở: Hãy kể tên một số nhân vật anh hùng dân tộc mà em biết? Trong những nhân vật đó em thích nhất nhân vật nào? Vì sao?
- Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập
- HS lắng nghe yêu cầu của GV
- Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận
- GV mời một số HS nêu tên về các nhân vật anh hùng dân tộc và lí do vì sao em thích họ.
- Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập
- GV gợi ý: Một số vị anh hùng dân tộc mà em biết bao gồm có: Hai Bà Trưng, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Quang Trung – Nguyễn Huệ, Hồ Chí Minh.
- GV mở đoạn video về Quang Trung Nguyễn Huệ.
- GV dẫn dắt vào bài: Để nói về các vị anh hùng dân tộc thì không thể nào không nhắc đến Vua Quang Trung – Nguyễn Huệ. Một vị Vua anh minh, người đã góp công đánh tan quân Thanh xâm lược và cuộc hành quân thần tốc của ông đến nay vẫn còn là một dấu hỏi lớn cho thế hệ sau. Hãy cùng tìm hiểu về tài cầm binh của ông qua văn bản 2- Tiết 1 – Quang Trung đại phá quân Thanh
IV. HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
Hoạt động 1: Đọc văn bản
- Mục tiêu: Nắm được những thông tin về thể loại và đọc văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh
- Nội dung: HS sử dụng SGK, chắt lọc kiến thức để tiến hành trả lời câu hỏi liên quan đến văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh
- Sản phẩm học tập: Câu trả lời của HS và kiến thức HS tiếp thu được liên quan đến văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh
- Tổ chức thực hiện
HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HS | DỰ KIẾN SẢN PHẨM |
Nhiệm vụ 1: Tìm hiểu về tác giả tác phẩm Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập – GV mời đại diện các nhóm dựa vào nội dung đã đọc ở nhà: + Hãy trình bày hiểu biết của em về nhóm tác giả Ngô gia văn phái và tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống chí? + Bối cảnh lịch sử để diễn ra trận đánh lịch sử của Quang Trung Nguyễn Huệ? – HS tiếp nhận nhiệm vụ. Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập – HS đọc thông tin trong SGK, chuẩn bị trình bày trước lớp. Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận – GV mời 2 – 3 HS phát biểu, yêu cầu cả lớp nhận xét, bổ sung. Dự kiến sản phẩm: HS dựa vào SHS, tóm tắt về nêu vài nét cơ bản về tác giả, tác phẩm. Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập – GV nhận xét, đánh giá, chốt kiến thức. – GV bổ sung | I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả – Ngô gia văn phái là một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, Hà Nội ngày nay. – Đây là một dòng họ lớn có truyền thống nghiên cứu và sáng tác văn chương với những tên tuổi tiêu biểu như: Ngô Thì Ức (1709 -736), Ngô Thì Sĩ (1726 -1780), Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803), Ngô Thì Chí ( 1753 -1788), Ngô Thì Du (1772 -1840), Ngô Thì Hương (1774 -1821)…. 2. Tác phẩm – Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn tiểu thuyết lịch sử, viết bằng chữ Hán theo lối chương hồi gồm có 17 hồi. – Dựa vào việc ghi chép lại những sự kiện lịch sử – xã hội có thực, nhân vật thực, địa điểm thực và tác phẩm đã phản ánh những biến động của lịch sử nước ta từ cuối thế kỉ XVIII đến những năm đầu thế kỉ XIX trong đó tập trung phơi bày sự thối nát dẫn đến sự sụp đổ tất yếu của tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh. – Đồng thời nó góp phần ca ngợi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn do người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ lãnh đạo. 3. Bối cảnh lịch sử diễn ra trận đánh Ngày 25/11 năm Mậu Thân (22/12/1788) Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu Quang Trung, chỉ huy quân tiến ra Bắc tuyển thêm quân.Vua Quang Trung chia quân làm 5 đạo tiến ra Bắc, đạo quân do Quang Trung chỉ huy tiến thẳng vào Thăng Long. Ông đã chỉ huy quân lính đánh tan quân Thanh. |
Hoạt động 2: Khám phá văn bản
- Mục tiêu: Nhận biết và phân tích được văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh
- Nội dung: HS sử dụng SGK, chắt lọc kiến thức để tiến hành trả lời câu hỏi liên quan đến văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh
- Sản phẩm học tập: Câu trả lời của HS và kiến thức HS tiếp thu được liên quan đến văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh
- Tổ chức thực hiện:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HS | DỰ KIẾN SẢN PHẨM |
Nhiệm vụ 1: Bố cục tác phẩm và sự kiện lịch sử Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập – GV mời đại diện các nhóm dựa vào nội dung đã đọc ở nhà để trả lời các câu hỏi liên quan đến văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh + Trình bày bố cục đoạn trích và nội dung từng phần? + Có những sự kiện lịch sử nào được nhắc đến trong bài? – Các nhóm tiếp nhận nhiệm vụ. Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập – Các nhóm thảo luận để trả lời. Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận – GV mời đại diện các nhóm lên bảng yêu cầu các nhóm khác nhận xét, góp ý, bổ sung. Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập – GV nhận xét, chốt kiến thức. Nhiệm vụ 2: Nhân vật Vua Quang Trung – Nguyễn Huệ Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập – Dựa vào kiến thức và văn bản đã chuẩn bị ở nhà hãy cho biết: + Khi nghe tin quân Thanh xâm lược nước ta thái độ và hành động của Bắc Bình Vương ra sao? Điều đó cho thấy điều gì ở nhân vật này? + Hình tượng của Vua Quang Trung trong đoạn trích cho em cảm nhận gì? Người viết thể hiện cả hứng như thế nào đối với vị anh hùng dân tộc này? – HS tiếp nhận nhiệm vụ Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập – Các nhóm thảo luận để trả lời. Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận – GV mời đại diện 1 nhóm lên bảng yêu cầu các nhóm khác nhận xét, góp ý, bổ sung. Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập – GV nhận xét, chốt kiến thức Nhiệm vụ 3: Nhân vật Vua Lê Chiêu Thống Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập – Dựa vào phần chuẩn bị tại nhà em hãy trả lời các câu hỏi sau đây: + Nhân vật Lê Chiêu Thống hiện lên với những chi tiết nào? + Tác giả đã thể hiện thái độ như thế nào đối với nhân vật này? + Đặt trong sự so sánh giữa hai nhân vật Vua Quang Trung và Lê Chiêu Thống có tác dụng thế nào trong việc thể hiện chủ đề đoạn trích? – HS tiếp nhận nhiệm vụ Bước 2: HS tiếp nhận, thực hiện nhiệm vụ học tập – HS lắng yêu cầu của GV, sau đó thảo luận theo cặp để tóm tắt. Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận – GV mời 1 – 2 HS trình bày phần tóm tắt trước lớp, yêu cầu cả lớp nghe, nhận xét. Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập – GV nhận xét, đánh giá, chốt kiến thức Nhiệm vụ 4: Yếu tố đặc trưng của thể loại Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập – Dựa vào phần chuẩn bị tại nhà em hãy trả lời các câu hỏi sau đây: + Những yếu tố đặc trưng nào của truyện lịch sử đã được sử dụng? Em có nhận xét gì về nghệ thuật kể chuyện lịch sử của tác giả? – HS tiếp nhận nhiệm vụ Bước 2: HS tiếp nhận, thực hiện nhiệm vụ học tập – HS lắng yêu cầu của GV, sau đó thảo luận theo cặp để tóm tắt. Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận – GV mời 1 – 2 HS trình bày phần tóm tắt trước lớp, yêu cầu cả lớp nghe, nhận xét. Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập – GV nhận xét, đánh giá, chốt kiến thức . | I. Bố cục tác phẩm và sự kiện lịch sử – Bố cục: 3 phần + Phần 1: Từ đầu đến ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân 1788: Được tin quân Thanh chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi vua thân chinh đi dẹp giặc. + Phần 2: Tiếp theo đến tiến binh đến Thăng long rồi kéo vào thành: Chiến thắng thần tốc của quân Tây Sơn với tài thao lược của vua Quang Trung + Phần 3: Còn lại: Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và tình trạng thảm hại của Vua tôi Lê Chiêu Thống. – Sự kiện lịch sử + Ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung chỉ huy quân tiến ra Bắc tiêu diệt quân Thanh + Đêm 30 Tết bao vây tiêu diệt đồn Hà Hồi + Đêm mùng 5 Tết quân ta tấn công và hạ đồn Ngọc Hồi + Quân Thanh thảm hại, Tôn Sĩ NGhị và Lê Chiếu Thống tháo chạy. III. Nhân vật Vua Quang Trung- Nguyễn Huệ – Khi nghe Tin quân Thanh xâm lược nước ta + Bắc Bình Vương giận lắm, cho họp tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay. + Lên ngôi hoàng đế tiến quân ra Bắc dẹp giặc. + Trưng cầu ý kiến của người hiền tài + Tuyển mộ quân lính ở Nghệ An, duyệt binh, yên ủi quân lính vạch ra kế hoạch đánh giặc. Thể hiện Quang Trung là một người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén; hành động mạnh mẽ dứt khoát, tự tin, điều khiển tướng tài tình, sử dụng chiến lược, chiến thuật hợp lí, độc đáo trong kế sách đánh giặc; có ý chí tự hào, tự tôn dân tộc và tinh thần quyết chiến quyết thắng. – Cảm hứng của người viết về nhân vật Vua Quang Trung – Ở phần đầu của văn bản, Vua Quang Trung hiện lên là một người chính trực, thẳng thắn hành động quyết đoán, sáng suốt nhạy bén. – ở phần 2 Quang Trung hiện lên với vẻ đẹp của người anh hùng trong chiến trận, người có tầm nhìn chiến lược, ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc, có tài cầm quân, tiên đoán chính xác, dùng binh biến hóa, bất ngờ, đóng vai trò quyết định trong chiến thắng thần tốc đại phá quân Thanh. – Tác giả không giấu nổi giọng điệu ngợi ca khi nói về trí tuệ, chiến lược của Vua Quang Trung. Yêu nước, tự hào dân tộc – đó là nguồn cảm hứng mạnh mẽ của các tác giả khi xây dựng nhân vật người anh hùng kiệt xuất này. Mặc dù Ngô gia văn phái là những cựu thần chịu ơn sâu nặng của nhà Lê, nhưng là những tri thức có lương tâm họ đã nhìn lịch sử bằng cái nhìn khách quan, trung thực. Vì thế qua ngòi bút của tác giả, Ông Vua nhà Lê trở nên hết sức hèn hạ, nhu nhược, ngược lại, hoàng đế Quang Trung hiện ra với những phẩm chất của một anh hùng dân tộc. IV. Nhân vật Vua Lê Chiêu Thống + Chiêu Thống vội cùng bọn thân tín đưa Thái Hậu ra ngoài. + Chạy bán sống bán chết + Cướp thuyền dân + Mấy ngày không ăn đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị. + Vua tôi nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt. Thể hiện sự hèn nhát, vì lợi ích riêng của dòng họ mà đem vận mệnh dân tộc đặt vào tay kẻ thù xâm lược. Hành động “rước voi giày mả tổ” khiến Lê Chiêu Thống mất tư cách của bậc quân vương. Qua đó tác giả tỏ thái độ phê phán một cách nghiêm khắc đối với nhân vật này. – Sự đối lập giữa Vua Quang Trung và Lê Chiêu Thống + Vua Quang Trung: oai phong mạnh mẽ, giàu tinh thần tự tôn dân tộc, xông pha trận mạc là nức lòng quân sĩ, tạo niềm tin quyết chiến quyết thắng. + Lê Chiêu Thống: kẻ hèn nhát, vì sự sống của bản thân mà sẵn sàng bán nước + Quân Tây Sơn dũng mãnh trên dưới một lòng, chiến đấu xả thân vì nghiệp lớn sức mạnh vô địch chiến thắng vang dội còn quân Thanh nhục nhã giẫm đạp lên nhau chạy trốn. Thể hiện đô đậm nhấn mạnh chủ đề của đoạn trích. Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả đã ngợi ca người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ với chiến công thân tốc đại phá quân Thanh đồng thời phê phán tố cáo những kẻ bán và cướp nước. IV: Đặc trưng của thể loại – Bối cảnh: Đoạn trích đã tái hiện những sự kiện nhân vật có thật ở một thời kì, một giai đoạn lịch sử cụ thể: đó là hiện thực lịch sử hào hùng của dân tộc và hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ với chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) đánh tan 29 vạn quân Thanh. Nhờ khả năng tưởng tượng hư cấu và miêu tả của nhà văn bối cảnh của một thời đại trong quá khứ trở nên sống động như đang diễn ra trước mắt người đọc – Nhân vật: Thế giới nhân vật trong đoạn trích khá phong phú. Trong đó tác giả tập trung khắc họa các nhân vật nổi tiếng như vua chúa, anh hùng các vị tướng cầm quân – những con người có vai trò quan trọng đối với đời sống của cộng đồng dân tộc trong đó, Quang Trung, Lê Chiêu Thống là những nhân vật tiêu biểu. Được khắc họa một cách sinh động rõ nét, hai nhân vật đó thể hiện khá đầy đủ cách nhìn nhận, lí giải về lịch sử của tác giả. – Cốt truyện Cốt truyện được xây dựng trên cơ sở các sự kiện đã từng xảy ra, tuy nhiên đã được tái tạo hư cấu sắp xếp dưới dạng dụng ý nghệ thuật để thể hiện chủ đề tư tưởng. + Xâu chuỗi các sự kiện ta sẽ hình dung rõ ràng cốt truyện của đoạn trích: Được tin báo quân Thanh chiếm đóng Thăng Long => Nguyễn Huệ liền họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay=> lên ngôi Hoàng đế đốc thúc đại binh ra Bắc dẹp giặc=> Quân Thanh không chống nổi, bỏ chạy tán loạn giày xéo lên nhau mà chết=> Vua tôi nhà Lê hết hồn hết vía tìm đường bỏ trốn. + Ngôn ngữ: Ngôn ngữ của các nhân vật được miêu tả khá thành công phù hợp với đặc điểm của thời đại, vị thế xã hội và tích cách từng nhân vật. |
Chia sẽ đến bạn 👉 Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi
5+ Mẫu Tóm Tắt Quang Trung Đại Phá Quân Thanh Hay Ngắn
Tham khảo thêm một số mẫu tóm tắt Quang Trung Đại Phá Quân Thanh hay ngắn mà thohay.vn chia sẽ bên dưới.
Tóm Tắt Quang Trung Đại Phá Quân Thanh Ngắn Gọn
Trích đoạn “Quang Trung đại phá quân Thanh” tái hiện lại một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc Việt Nam: dưới sự chỉ huy của người anh hùng Quang Trung- Nguyễn Huệ, cuộc tiến công của toàn quân được diễn ra một cách nhanh chóng, làm cho địch trở tay không kịp và cuối cùng đã khiến cho chúng nhận về thất bại thảm hại ê chề.
Vua Quang Trung, một vị mua với đầu tính cách cương quyết, mạnh mẽ mỗi lần hành động. Khi nhận được tin báo rằng giặc đã kéo đến tận thành Thăng Long ông đã rất tức giận trước hành động to gan đó của giặc, ngay lập tức đã triệu tập các tướng sĩ, vì quá nóng nảy nên định “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Nhưng may thay có các tướng sĩ bên cạnh đã khuyên can, sau khi lấy lại bình tĩnh Quang Trùng cùng các đại thần họp bàn kế sách chiến đấu.
Và chỉ chưa đầy một tháng, Quang Trung đã làm nên bao việc trọng đại khiến cho ai nấy đều phải khâm phục: “Tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, “đốc suất đại binh” ra Bắc để gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, cho mở các cuộc tuyển mộ binh lính, tổ chức các cuộc duyệt binh lớn, chiêu mộ nhân tài, phủ dụ tướng sĩ, lên chiến lược về các kế hoạch hành quân để đánh giặc đồng thời đối phó với nhà Thanh sau khi đã giành được chiến thắng.
Qua đây có thể thấy Quang Trung- một con người làm việc liên tục không ngừng nghỉ, là người nhìn xa trông rộng, tính cách xông xáo, biết nắm bắt thời cơ quan trọng, xứng đáng là một chủ tướng lãnh đạo hàng vạn quân dân.
Tóm Tắt Quang Trung Đại Phá Quân Thanh Hay
Lê Chiêu Thống sợ uy danh của quân Tây Sơn, sang cầu cứu nhà Thanh. Quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu kéo quân vào Thăng Long. Ngô Văn Sở, tướng của Tây Sơn cho quân lui về núi Tam Điệp để bảo tồn lực lượng và cho quân cấp báo với Nguyễn Huệ.
Thuận theo lòng tướng sĩ Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung sau đó tiến quân ra Nghệ An. Ở Nghệ An nhà vua lấy thêm quân mở cuộc duyệt binh lớn, huấn dụ quân sĩ ai nấy đều đồng sức đồng lòng rồi tiến quân ra Bắc. Đến núi Tam Điệp gặp hai tướng Lân, Sở, Ngô Thời Nhiệm bàn kế hoạch sau khi đánh xong quân Thanh, mở tiệc khao quân.
Hẹn với tướng sĩ tối 30 lên đường, ngày 7 Tết tới Thăng Long. Giặc trấn thủ ở đó chưa đánh đã tan vỡ. Toán quân do thám bị bắt sống hết. Nửa đêm ngày mồng 3 Kỉ Dậu bắt đầu tấn công đồn Hạ Hồi quân giặc sợ hãi xin hàng. Sau đó tiếp tục dang thành chữ nhất tiến công đồn Ngọc Hồi, quân Thanh chống không nổi bỏ chạy tán loạn, rơi vào kế nghi binh của Tây Sơn, bị dồn xuống đầm vực, bị vùi giày đạp chết hàng vạn người.
Giữa trưa hôm ấy quân Tây Sơn kéo vào Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị nghe tin sợ hãi không kịp mặc áo giáp chạy trốn. Vua Lê Chiêu Thống đem hoàng thân quốc thích rời bỏ kinh thành chạy theo quân Thanh đại bại.
Tóm Tắt Quang Trung Đại Phá Quân Thanh Đơn Giản
Được tin báo quân thanh vào thăng Long, Bắc Bình Vương rất giận, liền họp các tướng sĩ rồi tế cáo trời đất, lên ngôi Hoàng đế, hạ lệnh xuất quân ra bắc, thân chinh cầm quân, vừa đi vừa tuyển quân lính. ngày ba mươi tháng chạp, đến núi Tam Điệp, vua mở tiệc khao quân, hẹn mùng bảy năm mới vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng.
Bằng tài chỉ huy thao lược của Quang Trung, đạo quân của Tây Sơn tiến lên như vũ bão, quân giặc thua chạy tán loạn. Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, chuồn thẳng về biên giới phía bắc, khiến tên vua bù nhìn Lê Chiêu Thống cũng phải chạy tháo thân.
Tóm Tắt Quang Trung Đại Phá Quân Thanh Ngắn Nhất
Nguyễn Huệ nghe tin quân Thanh đến Thăng Long giận lắm liền họp các tướng sĩ định thân chinh cầm quân đi ngay. Tướng sĩ xin Bắc Bình Vương lên ngôi để làm yên lòng người. Nguyễn Huệ cho lập đàn trên núi tế cáo trời đất lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung.
Ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân hạ lệnh xuất quân. Đến Nghệ An, Quang Trung cho tuyển thêm hơn 1 vạn lính mở cuộc duyệt binh. Đến Tam Điệp mở tiệc khao quân, chia quân sĩ làm 5 đạo. Đúng tối 30 tết lập tức lên đường. Trên đường tiến quân ra Bắc, những toán quân Thanh do thám bị bắt sống. Ngày 03 tháng giêng năm Kỉ Dậu, đồn Hà Hồi bị hạ. Mờ sáng ngày 05 tiến đánh đồn Ngọc Hồi.
Quân Thanh đại bại. Thái thú Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt cuống cuồng chạy mất mật. Quân Thanh tranh nhau qua cầu tháo chạy rơi xuống nước nhiều không kể xiết. Vua tôi Lê Chiêu Thống dìu dắt nhau chạy trốn sang đất Bắc.
Bài Tóm Tắt Quang Trung Đại Phá Quân Thanh Ngắn Hay
Lê Chiêu Thống, trong sự sợ hãi về uy danh và sức mạnh của quân Tây Sơn, đã quyết định tìm sự cứu trợ từ triều đại Thanh. Quân đội Thanh, dưới sự lãnh đạo của Tôn Sĩ Nghị, đã tiến vào Thăng Long. Ngô Văn Sở, một tướng quân của Tây Sơn, đã rút quân về núi Tam Điệp để bảo tồn lực lượng và thông báo vụ việc cho Nguyễn Huệ, người đang giữ vai trò quan trọng trong quân đội.
Theo ý kiến của tướng sĩ Nguyễn Huệ, ông đã lên ngôi hoàng đế với niên hiệu là Quang Trung và tiến quân vào Nghệ An. Ở Nghệ An, vua đã tập hợp thêm quân lính và tổ chức một cuộc duyệt binh lớn. Quân sĩ đã được huấn đạo để đoàn kết và đồng lòng, sau đó tiến quân về phía Bắc. Khi đến núi Tam Điệp, Quang Trung đã gặp hai tướng quân là Lân, Sở và Ngô Thời Nhiệm để bàn kế hoạch chiến lược.
Sau khi đánh bại quân Thanh, họ đã hẹn ngày tổ chức một buổi tiệc khao quân. Dự kiến, vào đêm 30 Tết, quân đội sẽ khởi hành và vào ngày 7 Tết, họ sẽ đến Thăng Long. Khi giặc địch trú ngụ tại đó, chưa kịp bị tấn công đã tan tác. Các quân điều tra đã bị bắt sống hết. Vào nửa đêm ngày mồng 3 Tết, quân Tây Sơn đã tiến công đồn Hạ Hồi. Quân địch, sợ hãi, đã đầu hàng.
Tiếp theo, họ tiến công vào đồn Ngọc Hồi theo chiến thuật chữ nhất. Quân Thanh không thể chống đỡ và bỏ chạy tán loạn. Họ đã rơi vào kế nghị binh của Tây Sơn và bị dồn xuống đầm vực, hàng vạn người đã chết vì bị vùi giày đạp. Giữa trưa của ngày đó, quân Tây Sơn đã tiến vào Thăng Long.
Tôn Sĩ Nghị, sau khi nghe tin, sợ hãi không kịp mặc áo giáp và chạy trốn. Vua Lê Chiêu Thống đã đưa hoàng thân quốc thích rời khỏi kinh thành và theo quân Thanh đại bại.
Xem thêm tác phẩm 👉 Nước Đại Việt Ta Của Nguyễn Trãi
5+ Mẫu Phân Tích Quang Trung Đại Phá Quân Thanh Hay Nhất
Thohay.vn chia sẽ đến bạn top những bài văn mẫu phân tích Quang Trung Đại Phá Quân Thanh hay nhất giúp bạn có trao dồi thêm trong cách hành văn.
Phân Tích Quang Trung Đại Phá Quân Thanh Ngắn Gọn
Ngô gia văn phái là một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), làm quan dưới triều Lê Chiêu Thống và triều Nguyễn. Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm tiêu biểu của các ông được viết bằng chữ Hán, ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh nằm trong hồi thứ 14 của tác phẩm, kể về chuyện vua Quang Trung mang quân ra Bắc đánh tan quân Thanh và chuyện Lê Chiêu Thống cùng Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy sang Trung Quốc.
Quang Trung – Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự, một vị anh hùng dân tộc kiệt xuất. Hình ảnh vua Quang Trung tiêu biểu cho tinh thần quật cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Chỉ với 39 tuổi xuân, Quang Trung đã có 22 năm đánh Nam dẹp Bắc – tạo cơ sở cho quá trình thống nhất đất nước; đuổi Xiêm diệt Thanh – góp phần bảo vệ vững chắc nền độc lập nước nhà. Mỗi chiến công trong cuộc đời Quang Trung đánh dấu một mốc son trong lịch sử hào hùng của cả dân tộc.
Nói đến vua Quang Trung, trước hết nói đến một anh hùng với tính cách mạnh mẽ quyết đoán mỗi lần ông hành động. Nghe tin giặc đã kéo đến tận Thăng Long ông đã rất tức giận, đã họp các tướng sĩ, “định thân chinh cầm quân đi ngay”.
Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: “Tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, “đốc suất đại binh” ra Bắc, gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. Là con người hành động liên tục, không ngừng làm việc, có tính cách xông xáo, mọi quyết định đều nhanh gọn và rất dứt khoát, xứng đáng là vị chủ tướng trên vạn quân.
Vua Quang Trung còn nổi tiếng là con người có trí tuệ sáng suốt, rất nhạy bén trong mọi trường hợp. Ông có một tầm nhìn xa trông rộng, mưu cao trí lược, hơn nữa cái nhìn khái quát ấy còn giúp ông định hình về tình thế và về thời cuộc ông lên ngôi với mục đích có thể “để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”.
Vì vậy, ông đưa ra mọi quyết định đều cân nhắc trước hết, làm thế nào để yên bề tình hình, giúp cho mục đích cuối cùng. Ông phân tích tình hình quân địch, nhận định được thế lực hai bên để phán đoán trong từng bước đi của mình. Ông đưa vào trong bài hịch những tội ác của giặc, chúng đã gây nên tội ác với nhân dân ta, phá huỷ nhiều nếp nhà, khiến cho quân sĩ được khích lệ tinh thần, đồng thời ông cũng nhắc đến nhiều tên tuổi anh hùng bảo vệ dân tộc như: Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng…
Ông dùng những lời lẽ mềm mỏng để thuyết phục những kẻ “mềm lòng” dễ thay lòng đổi dạ, lạt mềm buộc chặt, nhưng vẫn không mất cái uy. Quang Trung hiểu rõ sở trường và sở đoản các tướng lĩnh dưới trướng mình bởi vậy ông vẫn trách mắng để họ nhận ra khuyết điểm đồng thời tha cho họ. Việc làm của ông là hành động sáng suốt, giúp thu phục nhân tâm, ai nấy đều phải tâm phục, khẩu phục.
Với Quang Trung, tư tưởng quyết chiến, quyết thắng, tầm nhìn xa, trông rộng rất quan trọng. Ông đã kiên quyết khẳng định chỉ trong vòng mười ngày có thể lấy lại kinh thành Thăng Long, nói được làm được, đây chính là một trong những trận chiến anh hùng nhất trong suốt những năm tháng chống quân xâm lăng của dân tộc ta. Ông đã mềm mỏng dùng ngoại giao để giữ hoà bình và cuộc sống cho nhân dân.
Trên chiến trường, ông tổ chức trận đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, với nhiều kế binh hiểm hóc kết hợp nhuần nhuyễn nhiều cánh quân, cách đánh luôn giữ thế chủ động, lúc cần thì phòng thủ, luôn lợi dụng được điểm yếu của quân địch khiến kẻ địch không kịp trở tay. Tài dùng trận thì khỏi bàn cãi: trận Hà Hồi, trống rong cờ mở bắc loa đàn áp tinh thần quân giặc, trận Ngọc Hồi bện rơm tránh lửa, dùng kế gậy ông đập lưng ông, đồng thời đánh chặn chốt giặc khiến chúng hồn xiêu phách lạc.
Từ những đoạn trích trên ta thấy hiện về trong lịch sử một nhân vật xuất chúng: Lẫm liệt oai phong, văn võ song toàn đã ghi vào trang lịch sử vẻ vang của dân tộc, làm sáng ngời truyền thống dân tộc, ngàn đời sau vẫn nhắc tên người anh hùng áo vải Quang Trung.
Phân Tích Quang Trung Đại Phá Quân Thanh Độc Đáo
Chuyện vua Quang Trung đại phá quân Thanh, ngày nay, hẳn chẳng mấy ai còn không biết. Người dân Việt từ lâu đã từng thân thiết và tự hào với những cái tên Hà Nội, Ngọc Hồi, Khương Thượng, Đống Đa … Nhưng hình như không phải ai cũng biết rằng, phần lớn những gì vẫn được truyền tụng về chiến công oai hùng đó lại không được lấy trực tiếp từ chính sử.
Phải đâu ai cũng tỏ tường rằng những hiểu biết lâu nay về sự kiện đại phá quân Thanh chính ra lại chứa đựng nhiều nhất trong một tác phẩm vẫn được coi là tiểu thuyết, cuốn sách mang tên Hoàng Lê Nhất Thống Chí của dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai (nay thuộc về Hà Nội, chứ không phải Hà Tây như nhiều sách đã ghi lầm). Quả thế, nếu muốn được thở hít lại bầu không khí như của những tháng ngày có chiến thắng tưng bừng đó thì không gì hơn là cùng đọc lại Hồi thứ mười bốn trong thiên tiểu thuyết lịch sử của văn phái họ Ngô.
Thế nhưng trong chủ đích của người viết Hoàng Lê Nhất Thống Chí thì Hồi thứ mười bốn này được soạn ra không cốt để ngợi ca chiến thắng của Quang Trung. Ai còn hồ nghi xin đọc lại hai vế đối mở đầu, người làm sách, theo thường lệ của tiểu thuyết chương hồi, vẫn muốn qua đó để tự tóm tắt nội dung của toàn hồi truyện:
Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài.
Rõ ràng, theo tác giả, đây là một đoạn truyện kể về vua Lê, ông nhìn từ phía vua Lê, theo đúng tinh thần “Hoàng Lê thống nhất”. Nên trong đoạn trích này của thiên tiểu thuyết, nếu có ai được gọi chỉ bằng một chữ “vua” thì kẻ đó nhất định phải là Lê Chiêu Thống, nếu có quân đội nào được gọi là “nghĩa binh” (quân chính nghĩa) thì đó cũng chỉ có thể là “quân đội nhà Lê (trong khi lực lượng thực đáng gọi là nghĩa quân, nghĩa binh, quân đội Tây Sơn lại chỉ được gọi chung là “quân lính”, “quân sĩ”, không hề có chữ “nghĩa” nào bên cạnh).
Vào khoảng cuối đoạn trích, người viết còn ghi lại chi tiết kể về cuộc gặp gỡ giữa mẹ con vua Lê với người thổ hào tại một sơn trại thuộc vùng Hòa Lạc. Đấy không phải một sự cố ý tạo ra tình huống hài hước, để người đọc có dịp nhạo cười một kẻ ngu trung. Trái lại, tác giả dường như đã gắng công để cuộc gặp gỡ có ánh lên vẻ cao đẹp của một tấm lòng thần tử tận tụy, trung trinh, ngay cả khi đấng quân vương của mình đang cơn khốn khó.
Trong chi tiết này, thấy có cả mừng tủi lệ rơi, cả cơm gà vội vàng thết đãi, cả lối tắt đưa vua chạy loạn … tác giả như cố nhắn rằng: đối với cái triều đại đã tàn kia, lòng người còn chưa nỡ bỏ, và dẫu vua Lê có lâm vào hoạn nạn thì trong đời vẫn chưa hết mối cô trung …
Có nghĩa là, xét về mặt lập trường chính trị, tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí đứng về phía đối địch với phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. Song may mắn làm sao họ Ngô đã không thể thắng chính mình. Mối tình cảm chính trị ấy không thắng nổi tình yêu sự thật, không thắng nổi lương tri, lương tâm của người biết nhận ra sự thật và tha thiết muốn nói lên sự thật. Tình cảm chính trị ấy đã không thể chuyển hóa thành sức mạnh văn chương, không đủ sức chi phối nội dung của văn chương.
Không biết người viết Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí có ngờ rằng, với công trình nghệ thuật này, mình đang viết bản án dành cho chính cái chế độ mình vẫn hằng tôn kính? Và con người phù Lê ấy liệu có tự giác nhận ra rằng mình đang tấu lên khúc ca dành cho những người đang kết thúc số mệnh lịch sử của chính nhà Lê.
Nhưng đấy chính là sự thật. Một sự thật vô cùng thú vị khi ta tiếp nhận, thưởng thức và suy ngẫm về tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Tuy nhiên tác giả của những trang viết ta đang nói tới là một nhà văn, một người làm nghệ thuật. Tư cách nghệ sĩ không cho phép ông kể sự thật một cách phiến diện, giản đơn. Hồi chuyện được bắt đầu từ phía có vẻ như ngược lại.
Đội quân xâm lược nhà Thanh thoạt nhiên được nói tới cứ y như một đạo hung binh, với sức mạnh lay thành phá ải, không gì có thể đương đầu: “Lại nói Tôn Sĩ Nghị sau khi đem quân ra cửa ải, xuyên rừng vượt núi như giẫm đất bằng, ngày đi đêm nghỉ, không phải lo lắng gì, kéo thẳng một mạch đến thành Thăng Long, không mất một mũi tên, như vào chỗ không người”. Cứ xem đây thì chống chọi lại một đạo binh như thế này khác nào đem trứng chọi đá? Chưa hết, ngay liền sau đó, tác giả lại bồi thêm: “Từ xưa các nhà cầm quân chưa có khi nào được dễ dàng như thế”.
Nhưng sự dễ dàng chưa từng có đó, chính nó lại khiến cho những người từng trải, biết suy nghĩ có lý để mà ngờ vực. Từ rất lâu trước đấy, người xưa đã hiểu rằng cái gì đến độ thái quá, đến tột cùng thì thế nào cũng gặp phải sự biến. “Cùng tắc biến” (đến tận cùng thì phải thay đổi). Nhưng mà biến theo chiều trái lại.
Và cái mầm mống của sự biến ấy, tác giả đã không để cho người đọc phải chờ đợi lâu. Cổ nhân từ xưa đã dạy: “thắng không kiêu”, Nhưng đạo quân của Tôn Sĩ Nghị chưa kịp thắng trận nào cho ra thắng đã quá vội kiêu: “quân lính các đồn tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không có kỷ luật gì cả … Bọn tướng tá cũng ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân”. Mầm mống của bại vong đã được nứt nanh từ đây
Chuyện trở nên rõ ràng hơn qua lời của người cung nhân cũ đến từ phủ Trường Yên. Không rõ những lời nói ấy về mặt sử học thì chính xác và sâu xa tới mức nào, chứ về mặt văn chương thì chi tiết này cực thú. Không hẳn chỉ về những lời nói của người từng là cung nữ ấy đã phác họa ra đại cục, thắng lợi của vua Lê, nếu có, cũng chưa mang ý nghĩa gì lớn, mà mối nguy cho triều Lê thì quả đã như mồi lửa âm ỉ bên trong trường vách.
Cũng không hẳn chỉ vì những câu nói ấy đã sớm đem lại ấn tượng về một Nguyễn Huệ bách thắng, một Nguyễn Huệ kiêu hùng, từ trước khi Nguyễn Huệ bằng thịt bằng xương xuất hiện trên chương truyện: Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn …
Thấy hắn trở tay, đưa mắt là ai nấy đều phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét. E rằng chẳng mấy lâu nữa hắn lại trở ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống lại, thì địch sao cho nổi”? Âm vang của một chiến thắng hào hùng nghe như đã văng vẳng dần lên từ lời cảnh báo của cung nhân.
Cái thú văn chương trong chi tiết về người cung nhân còn có thể nhìn ra từ chỗ; nó cho thấy, hóa ra, một phụ nữ tầm thường, hèn mọn, bị vua ruồng bỏ, xa cung cấm đã lâu, thế mà còn thông hiểu binh tình gấp bội phần so với một Thái hậu “mẫu nghi thiên hạ” cao sang, quyền quý. Rồi đến khi bà Thái hậu đem chuyện ấy nói với vua, vua nói lại với Tôn Sĩ Nghĩ thì ta còn vỡ lẽ: những kẻ nắm binh quyền dương dương tự đắc kia, còn không có nổi một kiến thức đàn bà!
Vậy là một người phụ nữ vô danh cũng đã thừa khả năng mở mắt cho cả một bộ sâu triều đình, vua quan, tướng tá về cách đánh, tình thế, cách cầm quân. Lời nói của cung nữ xưa quả đã khiến Thái hậu phải “giật mình” và vua Lê “hoảng sợ”. Nhưng cũng chỉ đến thế thôi. Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí nhận ra và đã muốn chúng ta cùng thấu hiểu: Không gì có thể đem lại cho bè lũ bạc nhược kia sức mạnh trong ý chí và hành động.
Bọn chúng đã không hành động, dù cho có lo lắng có giận dữ trách mắng nhau. Bởi vì nỗi lo âu, lời quát nạt rồi cũng chóng qua đi. Và bọn người đó lại tiếp tục nằm ườn ra trên lạc thú, lười nhác tự dối lừa mình trong ý nghĩ: “Cần phải tính toán cho chu đáo không thể hấp tấp và uể oải đợi chờ đến sang xuân, vào ngày mùng sáu thì sẽ xuất quân, như vậy cũng không còn xa gì nữa”…
Nhà văn đã cho ta thấy một mầm mống bại vong nữa của bè lũ Lê Chiêu Thống. Nó nằm trong bản chất của một chế độ đã không còn khả năng hành động, không còn đủ sức mạnh, ý chí, quyết tâm để mà hành động. Và trong khi bọn cướp nước bán nước cứ đờ đẫn đi, rã rời ra trong kiêu căng và trễ nải thì người anh hùng áo vải Tây Sơn lại khẩn trương làm được một núi việc khổng lồ.
Quả thế, nếu quân Thanh không làm gì khác ngoài việc ăn chơi thì quân Tây Sơn lúc nào cũng ráo riết trong chuẩn bị. Phía quân Thanh im lìm bất động : Ngược lại, phía bên Tây Sơn, tình hình chuyển biến từng ngày. Hẳn chẳng phải là tình cờ, khi chuyển mạch truyện sang phía thời gian nối tiếp nhau, dồn dập: “Ngày 20 tháng ấy (tháng 11 âm lịch, năm Mậu Thân 1788). Sớ lui về Tam Điệp thì ngày 24 Tuyết đã vào đến Phú Xuân”.
Chỉ một tháng sau, Nguyễn Huệ đã làm xong mọi việc đắp khắp trong ngoài” và “hạ lệnh xuất quân, hôm ấy, nhằm ngày 25 tháng chạp”. Bốn ngày sau “ngày 29 đến Nghệ An”. Hơn một vạn quân được quân kén ngay sau đó, lập tức được đưa vào cơ ngũ chỉnh tề. Để rồi ngày 30. Quân đến Tam Điệp và ngay tối hôm ấy, năm cánh hùng binh tràn ngập Bắc Hà, sau khi đã kịp mở tiệc khao quân, ăn Tết trước.
Ta đang được chứng kiến văn chương của Hoàng Lê Nhất Thống Chí một cỗ máy vận hành hết công suất, một hơi thở mạnh mẽ, gấp gáp, một dòng máu chảy sục sôi trong huyết quản, một sức sống rạo rực, bừng bừng, đầy phấn chấn. Tác giả Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí thuộc về một dòng họ danh vọng bậc nhất trên đất Bắc. Còn Nguyễn Huệ xuất thân từ một người áo vải miền Trung.
Song không vì thế mà văn phái Ngô gia đã vội nhìn lãnh tụ Tây Sơn chỉ như một kẻ võ biền, một kẻ nông phu ít học. Ngược lại, người con của dòng họ Ngô Thì đã vượt qua rất nhiều thành kiến để đem lại cho người đọc sự thật về một Quang Trung giàu tri thức và am hiểu lòng người. Hãy lắng nghe lại một lời hiếu dụ của Hoàng đế Quang Trung trong cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn tại Nghệ An.
Có phải là ta đã nhận ra, từ bên dưới lời van, cái hồn phách thiêng liêng của một Nam quốc sơn hà, cái giọng khích lệ nghiêm nghị của một Hịch tướng sĩ, và nhất là cái âm hưởng dõng dạc, chứa đầy căng một niềm bất khuất, tự hào ở những dòng đầu tiên của áng thiên cổ hùng văn Bình ngô đại cáo? Chắc chắn phải là một trí tuệ, một tâm hồn cao rộng lắm mới có thẻ bao gồm và chung đúc được chừng ấy tinh hoa trong một bài nói làm lay động lòng người.
Nhưng tác giả sẽ dần dần cho ta hiểu hai khối tự tin kia nặng nhẹ rất khác nhau. Sự tự tin của quân Thanh là sự tự tin kiêu ngạo và mù quáng, tự tin trong ảo tưởng, không biết gì về đối phương, không biết gì về tình thế. Trong khi niềm tự tin bên phía Tây Sơn được bảo đảm chắc nịch rằng bằng cả một công phu chuẩn bị, từ lực lượng phương tiện chiến đấu đến việc nuôi dưỡng, hun đúc chí quyết tâm. Vì thế, khi chiến dịch thực sự diễn ra thì đó là trận đánh giữa một bên là anh dũng, là hào khí ngất trời với bên kia chỉ thấy hoảng loạn đớn hèn, khiếp nhược.
Cái chiến dịch phi thường ấy, trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, chỉ được kể lại bằng thứ ngôn ngữ rất bình thường của truyện, của văn xuôi. Và kể không dài, khi in vào sách giáo khoa thì cũng còn chưa đầy nổi hai trang giấy. Nhưng đó là hai trang giấy vô cùng quý giá, vì nó đã ghi lại không chỉ thật chân thực mà còn thật sống động, thật có không khí một chiến thắng cho hôm nay vẫn là thần tốc nhất trong lịch sử Việt Nam.
Người đọc truyện có thể qua đây mà hình dung ra một chuỗi trận đánh nối tiếp nhau, trận nào cũng hùng tráng, trận nào cũng như chớp nhoáng, mà không trận nào giống trận nào. Có trận đánh ở hai sông, sông Gián và sông Thanh Quyết, hết cái gọi là “Nghĩa binh” của Lê Chiêu Thống, lại đến quân Thanh mới trông thấy bóng quân Tây Sơn từ xa đã sợ mất mật mà tự tan, mà tháo chạy, để rồi bị bắt sống không thoát một tên.
Rồi tới trận Hà Hồi, binh uy của vua Quang Trung đúng là như sấm động, chỉ cần dạ ran lên cũng lấy được đồn. Chỉ thấy quân Thanh chống cự một lần duy nhất ở Ngọc Hồi, nhưng sự chống cự mới yếu ớt và ngắn ngủi làm sao! Chúng bắn ra để chẳng trúng người nào. Chúng dùng ống phun khói lửa ra, để tự chịu một trận hỏa công khi trời trở gió.
Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí càng viết lại càng cho ta thấy rõ sự khác nhau một vực một trời một vực giữa bè lũ Tôn Sĩ Nghị – Lê Chiêu Thống với quân tướng của Quang Trung. Với quân Thanh, súng đạn và ống phun lửa cũng chẳng có nghĩa gì, chẳng làm được việc gì ngoại trừ việc tự đốt mình.
Còn với quân Tây Sơn, những vật dụng sinh hoạt thường ngày như ván, như rơm cũng đã đủ khiến họ trở nên vô địch. Quân Thanh chỉ chạy thôi cũng đã chết hàng vạn đứa, như Mực, Quỳnh Đô. Còn đội quân xung kích của Quang Trung trong trận Ngọc Hồi tính ra chỉ khoảng sáu trăm, vậy mà vẫn phá xong một tuyến phòng thủ kiên cố nhất.
Cái có của lũ cướp nước và bán nước, như người viết tác phẩm này cho thấy, là quân đông, vũ khí nhiều. Nhưng ý chí chiến đấu, tinh thần chiến đấu, sự sẵn sàng cho chiến đấu lại là cái chúng không hề có. Tuyệt nhiên không thấy ở bọn này, dù chỉ một chút cái ý thức mà Trần Quốc Tuấn trước đây đã ghi tạc vào lòng dạ của các tướng dưới quyền mình: “nên nhớ câu “đặt mồi lửa vào dưới đống củi” làm nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” làm răn sợ”.
Tác giả hồi truyện này cho thấy rõ : bọn chúng cứ yên tâm kề cà, dềnh dàng yến ẩm trên đống lửa, không hề lo chi đến việc bất trắc”. Để rồi khi lửa cháy lên thì việc độc nhất chúng thật khẩn trương làm không phải là cứu hỏa, mà là bỏ chạy cho nhanh. Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí thực tế đã thành tấm bia miệng còn vững bền gấp hàng chục, hàng trăm lần bia đá, để ghi lại cho muôn đời sau chê cười sự hèn nhát của một lũ vua quan tướng tá.
Những chi tiết cụ thể, sinh động được nêu ra ở đây, quả thật hùng hồn hơn mọi lời nghị luận. Quang Trung là vua, nhưng vẫn tự mình cưỡi voi đốc chiến. Còn Tôn Sĩ Nghị, thân làm tổng chỉ huy, nhưng chưa xung trận đã sợ hãi tháo chạy, vội vã tới mức “Ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp”.
Quân lính dưới quyền cũng không hề chiến đấu mà chỉ biết chạy theo, để rồi sự hèn nhát chịu đòn trừng phạt cuối cùng: không ai đánh mà quân chết đuổi nhiều tới mức một dòng sông lớn như Nhị Hà mà nước cũng phải tắc nghẽn, không chảy nổi.. Mẹ con vua Lê thì bị bỏ rơi, phải qua sông bằng thuyền đánh cá, leo đào mãi mới gặp được Tôn Sĩ Nghị, thế mà vẫn phải chịu nhục nhã tỏ ra sự tri ân: “Đội ơn tướng quân … Đều là ơn của tướng quân ban cho!”.
Người viết Hoàng Lê Nhất Thống Chí, dù muốn dù không, thì vẫn phải nhận rằng: sức mạnh duy nhất trong trận chiến chỉ có thể tìm thấy từ phía của quân đội Tây Sơn.. Sức mạnh ấy có nguồn gốc ở nhân dân. Dùng ván phủ rơm dấp nước kết lại thành lá chắn, thành tường chống đạn để xung phong, một sự khôn ngoan kì lạ thế không thể được sinh ra từ bọn người hoa xa hoa, quyền quý.
Và sự phấn khích, đồng lòng muôn người như một, không ngại khó nhọc, không quản hi sinh, tình cảm ấy chính là ánh lửa rực rỡ cháy lên từ tinh thần yêu nước của khối quần chúng nhân dân vĩ đại. Sức mạnh vô địch của nhân dân cộng với tài trí vô song của người lãnh đạo đã làm cho đội quân của những người áo vải bình thường phút chốc lớn vụt lên sánh ngang thần thánh, uy thế chấn động trời đất, ẩn hiện, biến hóa xuất quỷ nhập thần, “tướng ở trên trời xuống, quân dưới đất chui lên”.
Và Hồi thứ mười bốn này của Hoàng Lê Nhất Thống Chí sẽ được thực sự trở thành một khúc ca, với những câu văn cứ làm như ta phải nhớ không nguôi tới Bình Ngô Đại Cáo.
Rồi trong hồi truyện ấy, tác giả sẽ còn cám cảnh cho Lê Chiêu Thống khi phải chạy khỏi Thăng Long. Rồi tác giả sẽ còn khép hồi truyện này bằng hai dòng thơ, như muốn gợi rất nhiều lâm li, ai oán:
Bờ cõi xong bề tính liệu
Nước non buồn nỗi lúc chia ly
Nhưng có lẽ họ Ngô đã hoài công. Tình cảm xót xa có lẽ đã không thể truyền vào lòng của số đông người đọc truyện. Bởi trước đó, người viết đã quá thành công trong việc dựng lên chân dung của một triều đại không còn sức sống: một triều đại cần phải chia tay, phải đưa tiễn xuống mồ một cách vui vẻ chứ không phải một cách buồn đau. Người viết cũng đã quá thành công trong việc tạo ra cảm giác: chiến thắng oai hùng này quả thật là thuộc về người xứng đáng, quân khởi nghĩa Tây Sơn dưới sự dẫn dắt của vị anh hùng dân tộc Quang Trung.
Tham khảo thêm 👉 Bài Thơ Hịch Tướng Sĩ
Bài Văn Phân Tích Quang Trung Đại Phá Quân Thanh Hay
Quang Trung – Nguyễn Huệ, một thiên tài quân sự, một anh hùng dân tộc xuất sắc. Hình ảnh vua Quang Trung trở thành biểu tượng tinh thần quyết tâm và bất khuất của dân tộc Việt Nam. Dù chỉ mới 39 tuổi, Quang Trung đã dành 22 năm đánh Nam dẹp Bắc, tạo nền móng cho quá trình thống nhất đất nước và đẩy lùi thế lực xâm lược. Ông đuổi quân Xiêm, diệt quân Thanh, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập của nước nhà. Mỗi chiến công của Quang Trung đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử hào hùng của cả dân tộc.
Khi nhắc đến vua Quang Trung, ta không thể không nói đến một anh hùng với tính cách mạnh mẽ và quyết đoán. Ngay khi nghe tin giặc đang tiến đến Thăng Long, ông đã tức giận và họp các tướng sĩ, quyết định tự thân dẫn quân đi ngay. Trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã thực hiện hàng loạt công việc lớn: “Tế cáo trời đất”, lên ngôi hoàng đế, ra Bắc đốc suất đại binh, gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ binh lính và tổ chức các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An.
Ông phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và lập kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. Quang Trung là một con người luôn hành động liên tục, không ngừng lao động, tích cách mạnh mẽ và quyết đoán. Mọi quyết định của ông đều nhanh gọn và dứt khoát, xứng đáng là một vị chủ tướng tài ba trên vạn quân.
Vua Quang Trung là một nhà lãnh đạo sáng tạo với tầm nhìn chiến lược sâu rộng và trí tuệ sắc bén. Ông không chỉ biết cân nhắc kỹ lưỡng mỗi quyết định mà còn hiểu rõ về tình hình quân sự và địch thủ. Bằng sự linh hoạt của mình, Quang Trung đã đánh lừa quân địch, luôn giữ thế chủ động trên chiến trường. Ngoài ra, ông cũng sử dụng sự mềm mỏng và lý luận để thuyết phục những tâm hồn dao động và giữ vững lòng yêu nước.
Quang Trung không chỉ là một vị vua quyết đoán, mà còn là một nhà quân lược xuất sắc. Ông khẳng định rằng trong vòng mười ngày, ông có thể giành lại kinh thành Thăng Long. Ông đã chứng minh điều này bằng những trận chiến anh hùng và bằng sự sáng tạo trong chiến thuật. Với tư tưởng quyết chiến và quyết thắng, Quang Trung đã ghi dấu ấn sâu trong lịch sử kháng chiến của dân tộc Việt Nam.
Từ những đoạn trích trên, ta rõ thấy một nhân vật vĩ đại: Vị anh hùng áo vải Quang Trung, với oai phong lẫm liệt, văn võ song toàn. Ông đã ghi dấu vết sáng ngời vào trang lịch sử của dân tộc Việt Nam, để truyền thống ngàn đời sau vẫn ghi nhớ.
Trong đoạn trích mà Quang Trung đại phá quân Thanh, tôi ấn tượng với sự miêu tả của việc vua Lê Chiêu Thống cùng bầy tôi phải chạy trốn. Khi nghe tin quân Thanh thất bại, vua Lê Chiêu Thống cùng đám tôi đã tìm mọi cách để thoát khỏi tình thế bất lợi. Điều này thể hiện hành động thông thường của một kẻ bán nước. Tôi cảm nhận được sự thất vọng, sự lo lắng, và cả sự trăn trở của vua Lê trong từng câu miêu tả. Vị vua của một triều đình đã phải cướp thuyền của ngư dân để cứu mình, điều này cho thấy sự mất mát về tôn nghiêm và quyền uy của ông.
Tác giả đã tạo ra một khung cảnh dày đặc cảm xúc, với những âm hưởng chậm rãi, nhẹ nhàng. Điều này nhấn mạnh sự chua xót, tiếc nuối trong tình huống khó khăn của vua Lê. Từng đoạn văn đã kể điều này một cách rõ ràng và đầy sâu sắc.
Mẫu Văn Phân Tích Quang Trung Đại Phá Quân Thanh Xuất Sắc
Nguyễn Huệ – người anh hùng áo vải ở đất Tây Sơn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Người anh hùng áo vải ấy với thiên tài quân sự của mình đã đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh xâm lược, khiến cho bọn bán nước cầu vinh ê chề nhục nhã. Có thể nói Hồi thứ mười bốn trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm tác giả Ngô gia văn phái đã phản ánh khá đầy đủ chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ. Càng đọc chúng ta càng khâm phục tài năng xuất chúng của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn ấy.
Chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ, trước hết được miêu tả gián tiếp qua lời người con gái hầu hạ trong cung vua, tâu với bà hoàng thái hậu. Mặc dù vẫn xem Nguyễn Huệ là “giặc”, gọi Nguyễn Huệ bằng “hắn”’ nhưng người cung nhân ấy cũng không giấu được sự thán phục của mình trước tài năng xuất chúng của Nguyễn Huệ.
Đây là một đoạn trong lời tâu của cung nhân:” Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường hết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn…”. Trong khi nói những lời ấy chắc người cung nhân đã chọn lời lẽ vừa phải, thích hợp, chưa dám bộc lộ hết ý nghĩ của mình về Nguyễn Huệ, nhưng một người vốn xem Nguyễn Huệ là “giặc” thán phục đến như thế đủ biết Nguyễn Huệ tài năng đến mức nào.
Ngay những người thuộc nhóm Ngô gia văn phái vốn theo “chính thống” phần nào bị quan điểm “chính thống” chi phối, trước thiên tài của Nguyễn Huệ vẫn phải ca ngợi Nguyễn Huệ một cách trung thực, khách quan. Qua việc miêu tả trực tiếp cuộc hành quân thần tốc, tác giả đã cho mọi người thấy tài năng quân sự xuất chúng của người anh hùng áo vải Tây Sơn.
Được tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, Nguyễn Huệ giận lắm, định cầm quân đi ngay. Nhưng Nguyễn Huệ đã biết nghe theo lời khuyên của mọi người, cho đắp đàn ở núi Bân tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung. Lễ xong mới hạ lệnh xuất quân. Điều này chứng tỏ mặc dù tài năng hơn người nhưng Nguyễn Huệ rất biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác.
Riêng phẩm chất ấy của ông cũng đáng để chúng ta kính nể, học tập. Việc Nguyễn Huệ tự mình đốc suất đại binh tiến ra Thăng Long vào đúng thời điểm Tết Nguyên đán cũng chứng tỏ phần nào tài năng quân sự của ông. Bời vì đó là thời điểm kẻ thù ít đề phòng nhất, dễ lơ là cảnh giác nhất. Nguyễn Huệ rất hiểu sức mạnh tinh thần, ông không chỉ có tài cầm quân mà còn có tài hùng biện.
Trong lời dụ của mình, ông đã khích lệ được lòng yêu nước, căm thù giặc, truyền thống chống ngoại xâm cho tướng sĩ:” Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long các ngươi đã biết chưa?… Người phương Bắc không phải giống nòi nước ta bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi.
Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc…”. Lời dụ của Quang Trung có sức thuyết phục không kém Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn.
Một điều mà các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí hết sức khâm phục Nguyễn Huệ là tài dùng người. Tiêu biểu là việc cài Ngô Thời Nhậm ở lại làm việc với các tướng Sở và Lân. Sự việc diễn ra đúng như dự đoán của Nguyễn Huệ. Ngô Thời Nhậm đã phát huy vai trò của mình “Biết nín nhịn để tránh mũi nhọn”, “bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng”.
Nguyễn Huệ còn dự đoán chính xác những sự việc sắp xảy ra. Ông là một người đầy tự tin: “Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh”. Nhưng ông cũng luôn luôn để phòng hậu hoạ: “ Quân Thanh thua trận ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế việc binh đao không bao giờ dứt”. Và ông đã dự định chọn người “khéo lời lẽ’ để “dẹp việc binh đao” đó cũng là Ngô Thời Nhậm. Qua cách nghĩ của vua Quang Trung thấy ông không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn hết lòng vì dân.
Ông không muốn dân phải luôn luôn chịu cảnh binh đao xương rơi máu chảy. Trong khi tiến quân ông cũng chọn cách tránh cho quân sĩ đỡ phải tổn thất: “Vua truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín. Quân thanh nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả”. Đó là cái giỏi cũng là cái tâm của người cầm quân.
Share thêm bạn ❣️ Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh Của Nguyễn Du ❣️ [Nội Dung + Ý Nghĩa]
Văn Phân Tích Quang Trung Đại Phá Quân Thanh Sinh Động
“Hoàng lê nhất thống chí” được coi là bộ tiểu thuyết lịch sử vĩ đại nhất của gia tộc họ Ngô. Bằng văn bản chữ Hán, tác phẩm này khắc họa một tác phẩm có sức lôi cuốn mênh mông và đã thu hút sự kính ngưỡng của độc giả, thu hoạch nhiều thành công cả về nội dung và kỹ thuật biểu đạt. Trong đó, “Quang Trung Đại Phá Quân Thanh” là một đoạn trích nổi bật, tái hiện sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc ta: dưới chỉ huy của anh hùng Quang Trung, cuộc tiến quân vào Thăng Long diễn ra một cách bất ngờ, khiến kẻ địch không còn khả năng chống cự và phải nhận một thất bại thảm hại.
Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải nằm trong vùng đất Tây Sơn, là nguồn cảm hứng và tự hào của toàn dân Việt Nam. Với tài năng và phẩm chất đặc biệt của mình, người anh hùng áo vải này đã lãnh đạo quân ta và đánh bại không dưới hai mươi chín vạn quân Thanh xâm lược, mang về một chiến thắng oanh liệt, khiến kẻ thù và những kẻ phản bội quốc gia phải chịu trận vinh nhục.”
Nhắc tới vua Quang Trung, ta không thể không kể về một con người mạnh mẽ và quyết đoán trong mọi hành động. Khi tin giặc tiến đến Thăng Long, ông phẫn nộ với sự cả gan của địch. Ngay lập tức, ông triệu tập các tướng sĩ, xem xét kế sách chiến đấu. Nhờ lời khuyên khôn ngoan của các tướng sĩ, ông lấy lại bình tĩnh.
Chỉ trong vòng một tháng, Nguyễn Huệ đã làm nên nhiều việc trọng đại: “Tế cáo trời đất”, ký danh “hoàng đế”, gặp “người cống sự ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính, chiêu mộ nhân tài, tổ chức duyệt binh, phối hợp tướng sĩ, xây dựng kế hoạch hành quân, đánh giặc và lập chiến lược đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. Quang Trung – người không ngừng hành động và làm việc, tính kiên quyết, nhạy bén về thời cơ, quyết định nhanh gọn và dứt khoát, xứng danh là vị lãnh đạo tài ba của hàng vạn quân.
Khi nhắc đến vua Quang Trung – Nguyễn Huệ, ta không thể không nói đến một người mang trong mình sự thông minh, cái nhìn sáng suốt và trí tuệ tinh tế. Ông được biết đến với tài năng chiến lược cao và khả năng phán đoán xuất sắc, luôn nhạy bén đối với tình hình thời cuộc. Trước khi ra quyết định quan trọng, ông luôn cân nhắc một cách kỹ lưỡng để đảm bảo phù hợp với tình hình và mục tiêu cuối cùng.
Ông phân tích một cách tỉ mỉ và chi tiết về tình hình quân địch, từ đó đưa ra những nhận định sắc bén và lên kế hoạch tinh tế cho quân đội của mình. Trong các bài diễn thuyết của mình, ông đã phê phán những tội ác mà kẻ thù gây ra với nhân dân, vạch trần sự tàn bạo của họ, từ việc xâm lăng đến việc phá hoại tài sản và đàn áp nhân dân vô tội. Những lời của ông đã truyền đạt tinh thần chiến đấu, khích lệ lòng dũng cảm của quân dân ta.
Với Quang Trung, tư tưởng quyết chiến, quyết thắng và cái nhìn xa trông rộng là điều vô cùng quan trọng. Ông đã tuyên bố một cách mạnh mẽ rằng chỉ trong vòng mười ngày, ông sẽ giành lại kinh thành Thăng Long. Và ông đã thực hiện lời hứa đó, tạo nên một chiến thắng oanh liệt và vĩ đại trong cuộc kháng tháng chống lại sự xâm lược của quân địch.
Mời bạn xem thêm ❣️ Văn Tế Nghĩa Sĩ Trận Vong Lục Tỉnh ❣️