Văn Tế Là Gì, Cách Đọc, Cách Viết ❤️️ Những Bài Văn Tế Hay Nhất ✅ Chia Sẻ Cho Bạn Đọc Những Bài Văn Cúng Hay Nhất.
NỘI DUNG CHÍNH
Văn Tế Là Gì
Văn tế là gì? Văn tế nói chung là loại văn đọc khi tế, cúng người chết (trong một số trường hợp đặc biệt cũng dùng để tế lễ người sống). Nhưng nhìn chung, văn tế là loại văn gắn với phong tục tang lễ, nhằm bày tỏ lòng tiếc thương đối với người đã mất.
Nội dung văn tế thường xoay quanh hai ý chính : một là kể về cuộc đời người đã mất, thứ hai là bộc lộ tình cảm, thái độ của người sống trong giờ phút vĩnh biệt với người mất. Mặc dù trong văn tế có những đoạn kể lại cuộc đời của người quá cố nhưng căn bản nó vẫn là thể loại văn trữ tình.
Âm điệu chung của văn tế là bi thương. Tuy nhiên, sắc thái biểu cảm và tính chất thẩm mỹ cụ thể thì mỗi bài sẽ có sự khác nhau. Có bài mang tính chất chính luận bi tráng (như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế Phan Châu Trinh của Phan Bội Châu) ; có bài mang tính chất trào phúng nhẹ nhàng (ví dụ : bài Tế sống vợ của Tú Xương, hoặc châm biếm đả kích sâu cay (như nhiều bài văn tế nói về bọm trùm đế quốc thực dân trong văn học cách mạng thời Pháp thuộc).
Một bài văn tế thường có các phần như sau:
- Lung khởi: luận chung về lẽ sống chết, thường bắt đầu bằng mấy chữ “Than ôi”, “Than rằng”, “Thương ôi”…
- Thích thực: kể phẩm hạnh, công đức, cuộc đời của người đã chết, thường bắt đầu bằng mấy chữ ” Nhớ cha (linh, ông) xưa”…
- Ai vãn: nói lên niềm thương tiếc đối với người đã chết, thường bắt đầu bằng mấy chữ “Hỡi ôi” hoặc “Ôi”…
- Kết: bày tỏ lòng tiếc thương và lời cầu nguyện, lời mời của người đứng tế đối với linh hồn người chết, thường bắt đầu bằng mấy chữ “con (tôi, chúng tôi, bản chức…) nay” và kết lại bằng mấy chữ “Phục duy”, “Thượng hưởng”…
Tìm hiểu thêm về 👉Văn Chiêu Hồn [Nguyễn Du]👈 17 Bài Văn Tế Thập Loại Cô Hồn
Các Thể Loại Văn Tế
Có các thể loại văn tế nào? Cùng Thohay.vn tìm hiểu ngay sau đây nhé!
Về hình thức, văn tế có thể là văn vần, văn xuôi và biền văn. Sau đây là các thể loại cụ thể của văn tế:
- Song thất lục bát: Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du.
- Văn xuôi: “Văn tế chị” của Nguyễn Hữu Chỉnh.
- Tán’: “Văn tế một công chúa”‘ của Mạc Đĩnh Chi.
- Văn vần có đối: “Văn tế Trương Quỳnh Như” của Phạm Thái.
- Phú cổ thể hoặc lưu thủy: tức làm theo kiểu “Bài phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu…
Thông dụng nhất là lối văn tế làm theo thể phú, nhất là phú Đường luật như Văn tế Võ Tánh và Ngô Tùng Châu và biến thể của lối này.
Cách Viết Văn Tế
Tham khảo ngay cách viết văn tế mà Thohay.vn chia sẻ sau đây nhé!
Như đã chia sẻ thì một bài văn tế bao gồm 4 phần chính. Tuy nhiên trong phần cách viết này thì Thohay.vn sẽ hướng dẫn bạn đọc theo bố cục 3 phần, trong đó phần “Ai vãn” và “Kết” có thể gộp thành một phần với nội dung là “nói về tấm lòng đau khổ, thương tiếc, kính trọng, cầu khẩn, và ước nguyện của những người còn sống đối với người đã qua đời.” Cụ thể:
1. Phần mở bài
Phần mở bài của bài văn tế thường dùng để nói về lai lịch của người quá cố và ngày giỗ (huý nhật) của họ, ngày tháng năm và địa điểm tổ chức cúng tế, và sự liên hệ giữa người sống và người chết.
Phần mở bài này thường bắt đầu bằng chữ “Duy” (Duy Việt Nam Quốc Lịch… Duy Đại Nam Quốc) hay các nhóm chữ như: “Vọng tưởng Đấng Ngàn Xưa,” “Than ôi!” “Than rằng,” ,”Thưa rằng” hay “Thương ôi!” Sau đó là một đoạn thơ hay văn để mở đầu cho bài văn tế.
2. Phần nói về tính nết, công đức, sự nghiệp,và kỷ niệm của tiền nhân hay của người thân đã qua đời.
Phần này thường bắt đầu bằng các từ như “Nhớ ơn Quốc Tổ,” “Nhớ ơn xưa,” “Chúng con hằng nhớ,” “Nhớ cha (mẹ) xưa,” hay “Nhớ bạn (cụ, bác, chú, cô, hay cậu) xưa,” v.v. Sau đó là các đoạn thơ hay văn diễn tả tính nết, công đức, sự nghiệp, và kỷ niệm của người quá cố.
3. Phần nói về tấm lòng đau khổ, thương tiếc, kính trọng, cầu khẩn, và ước nguyện của những người còn sống đối với người đã qua đời.
Phần này thường bắt đầu bằng các chữ: “Nhưng nay thẹn nỗi ,” “Ôi!” “Giờ đây,” “Giờ phút này,” “Chúng con nay,” hay “Bản chức nay,” v.v. Sau đó là các đoạn văn thơ diễn tả lòng thương tiếc, kính trọng, cầu khẩn, và ước mong của người sống đối với người quá cố. Ở cuối bài văn tế thường kết thúc bằng từ “cung duy” (nghĩa là tỏ lòng kính cẩn): “Cung duy Hoàng Đế bệ hạ”) và từ “thượng hưởng” (cung kính xin hưởng).
👉 Mẫu: Văn Tế Quốc Tổ Hùng Vương
Duy Việt Nam quốc lịch, năm thứ 4881(1), kể từ đời Hùng Vương Đệ Nhất nguyên niên. Nay tiết xuân tháng ba, ngày mùng mười năm Nhâm Ngọ, húy nhật Quốc Tổ Hùng Vương.
Chúng con dòng dõi Lạc Hồng, vì loài Cộng phỉ xâm lăng phải xa nơi đất Tổ, thành tâm tụ họp nơi đây hải ngoại, lễ bạc lòng thành, muôn người như một, thành kính cung nghinh. Quốc Tổ linh thiêng chứng giám!
Nhớ ơn Quốc Tổ, gần năm ngàn năm xưa Tổ Hùng dựng nghiệp, mở nước Văn Lang, dựng nền văn hiến, thủ đô Phong Châu, quan văn Lạc Hầu, quan võ Lạc Tướng, hoàng tử Quan Lang, công chúa Mị Lương. Hùng Vương mười tám đời liền, cha truyền con nối, rừng núi sông biển đất trời, bát ngát hương hoa rạng ngời công đức, ngàn đời hưởng phước Tiên Long, đời đời hãnh diện, dân Việt từ đó hiển vinh. Chúng con hằng nhớ “vật gốc trời, người gốc tổ” (2) cây kia có gốc, nước nọ có nguồn.
Từ Tiên Long đến Đinh Lê Lý Trần xây nền tự chủ, “Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có” (3).
Phù Đổng Thiên Vương, ngựa sắt roi sắt, với tre Đằng Ngà (4), giết sạch giặc Ân, uy danh lẫy lừng, ngàn đời hiếm có.
Trưng Vương oanh liệt một cõi trời Nam, quân Hán kinh hoàng cả vùng đất Bắc.
Hưng Đạo Vương tài nghệ thật siêu quần, quân Mông Cổ chỉ thua nơi đất Việt.
Thái Tổ bền chí, quân Minh tởn vía kinh hồn.
Quang Trung trí mưu, quân Thanh không còn mảnh giáp.
Thời kháng Pháp, Hoàng Hoa Thám hùm thiêng nơi Yên Thế, Cần Vương Văn Thân quyết chí chống Tây; Nguyễn Thái Học anh hùng bất khuất, truyền lại danh ngôn thật lẫy lừng: “không thành thân thì thành nhân” (5), giúp cho hậu thế tu thân nên người.
Nhưng nay thẹn nỗi, bọn Cộng Sản xâm lăng đất Tổ, chúng con phải rời bỏ quê hương, tìm tự do chốn tha phương, trau giồi kế hoạch diệt phường Việt Minh.
Bọn Việt Minh gian manh khát máu, táng tận lương tâm, mặt người dạ thú, phá hủy nếp cũ, thờ lũ ngoại bang. Toàn dân Việt muôn vàn sầu khổ, người ở lại cuộc đời nô lệ, kẻ ra đi thân phận lạc loài!
Đất nước chúng con trải bao oan nghiệt, giặc Tàu giặc Tây giặc Nhật, nhưng giặc Việt Minh độc ác nhất đời!
Dân Việt chúng con bao nỗi điêu linh, vong quốc thống khổ ngục tù, do bọn Việt Cộng gây ra tất cả!
Mới đây, lũ Việt gian Cộng Sản cắt đất biển tổ tiên dâng cho quân Trung Cộng. Chúng bán lương dân cho bè lũ ngoại bang, chúng vùi tuổi trẻ dưới gót giầy xâm lược. Dân quốc nội chúng biến thành cầm thú, lũ ngoại bang chúng coi tựa cha ông.
Có lẽ kiếp xưa chúng con đầy nghiệp chướng, nên kiếp này phải chịu bách chiết thiên ma.
Kính cầu Quốc Tổ giúp dân Lạc Hồng, giải trừ Quỉ Đỏ, dựng cờ dân chủ, xây dựng tự do, mở trí cho kẻ ham danh tham quyền chuộng lợi, độ trì cho người yêu nước thành khẩn nhiệt tâm, giúp kẻ lạc đường quay về truyền thống, dân chủ tự do nhân bản hài hòa, đồng thuận thương yêu kính trên trọng dưới, giúp toàn dân thoát vòng nghiệp chướng và tránh khỏi bách chiết thiên ma, giúp cho đại nghĩa hình thành và Việt Nam quang phục.
Chúng con nguyện sẽ “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo” (6).
Dân trong nước quyết tâm trừ Quỉ Đỏ, thâu lại đất đai bảo toàn lãnh thổ. Người Việt tha hương trừ khử Cộng nô, dốc tâm dựng lại cơ đồ Việt Nam. Nền tự do sáng ngời đất Tổ, đức hiếu trung rạng rỡ dân Nam, khắp nơi rợp bóng cờ Vàng, con dân Quốc Tổ ngày càng hiển vinh.
Phút tôn nghiêm này, với tấm lòng thành, thắp nén hương thơm, chúng con kính cầu Quốc Tổ linh thiêng chứng giám.
Quốc Tổ thượng đẳng anh linh cung duy thượng hưởng!
Ghi chú:
- (1) 4881: 2879 (năm Hùng Vương dựng nước) + 2002
- (2) Lời Lê Thái Tổ còn truyền lại trong dân gian
- (3) Nguyễn Trãi, “Bình Ngô Đại Cáo,” (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, quyển I)
- (4) Phan Kế Bính, Nam Hải Dị Nhân: Tre Đằng Ngà là giống tre ở Làng Cháy, Huyện Gia Bình, Bắc Ninh. Trong lúc đánh giặc Ân, Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre Đằng Ngà để đánh giặc. Lửa do ngựa sắt phun ra làm cháy tre và sau vỏ tre trở thành màu ngà. Do đó dân địa phương đặt tên loại tre này là tre Đằng Ngà.
- (5) Lời Nguyễn Thái Học còn truyền trong dân gian.
- (6) Nguyễn Trãi, “Bình Ngô Đại Cáo,” (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, quyển I)
Chia sẻ thông tin về 🔰Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh [Nguyễn Du] 🔰 Chi tiết nhất
Cách Đọc Văn Tế
Cách đọc văn tế như thế nào? Bài văn Tế thường do Chủ tế đọc nhưng cũng có thể do một người nào đó trong ban Tế đã được chỉ định trước.
- Nếu bài văn được tả bằng chữ Nho thì tốt nhất người đọc cũng biết chữ Nho. Người ta thường chỉ chú trọng tới giọng đọc, cho rằng người này đọc hay, người kia đọc hay, nhưng không biết chữ, ngừng nghỉ không đúng chỗ, làm câu văn hay trở thành câu què câu cụt thì phải tội thêm. Cho nên giọng tốt là cần nhưng chưa đủ, phải đọc tròn vành rõ chữ và nhất là phải trọn vẹn câu văn.
- Khi bóc tờ văn để đem hóa, chủ văn không được lật tấm khăn phủ diện lên, thay vào đó hãy luồn tay vào lần lần tách tờ văn khỏi chúc bản xong rút ngang ra, gấp mặt có chữ ở ngoài rồi mới hóa. Cầm tờ văn cho cháy gần hết mới thả vào thau đồng, Cẩn thận không cháy tay áo.
Đừng bỏ lỡ tuyển tập 🔰Thơ Nguyễn Du 🔰Đầy đủ nhất
Những Bài Văn Tế Hay Nhất
Sưu tầm những bài văn tế hay nhất chia sẻ cho bạn đọc tham khảo.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Tác giả: Nguyễn Đình Chiểu
Hỡi ơi!
Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn;
Riêng lo nghèo khó.
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay:
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.
Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ.
Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
Đoái sông Cầm Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.
Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió?
Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi!
Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy! mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ơi!
Có linh xin hưởng.
Văn tế chị
Tác giả: Nguyễn Hữu Chỉnh
Than ôi!
Dòng nước chảy về đâu, biết có về Đông Hải vậy chăng?
Hồn phách chị ở đâu, biết có về Đông Hải vậy chăng? Hay là nơi Bồng hồ, Lãng uyển, hay là Tứ phủ, Thành Đô?
Ao vàng khơi thẳm, biết là thăng giáng ở nơi nào, bui còn một chút hình hài đưa về cố hương, muôn nước nghìn non, xa khơi cách trở.
Ôi! Kiếp nhân sinh là thế, như bóng đèn, như mây nổi, như lửa đá, như chiêm bao, giây phút nên không, dù nhẫn trăm năm cũng chăng mấy.
Thương thay chị, mới hai mươi chín tuổi, cũng là kiếp hoá sinh. Gửi mình vào tài tử mười ba năm, đã dốc một lời nguyền, song cay đắng có nhau, mà vinh hiển bao giờ chưa được thấy. Rơi máu ở nơi nhân gian năm bảy bận, chỉn còn hai chút gái, và sữa măng dường ấy, dù trưởng thành ngày khác cũng rằng không. Ôi! tạo vật làm sao, con người mà đến điều đau đớn thế! Bên trời góc bể, thân cố có ai, đất khách quê người, bui một chị một em, đã hình đơn bóng chếch.
Bát ngát thay! Cánh hoa trôi nước, chiếc nhạn về Nam.
Vậy thì chén đất vàng từ đây, nấm cỏ xanh từ đây, muôn ngìn kiếp cũng từ đây, thăm thẳm biết bao giờ lại thấy vậy chăng?
Giang Đình một lá, quải liệt đôi nơi. Chín suối là đâu? Có linh xin hưởng.
Văn tế vua Quang Trung
Tác giả: Ngọc Hân công chúa
Than rằng:
Chín từng ngọc sáng bóng trung tinh, ngoài muôn dặm vừa cùng trông vẻ thuỵ;
Một phút mây che vầng Thái Bạch, trong sáu cung thoắt đã nhạt hơi hương.
Tơ đứt tấc lòng ly biệt;
Châu sa giọt lệ cương thường.
Nhớ phen bến Nhị thuận buồm, hội bái việt chín châu lừng lẫy;
Vừa buổi cầu Ngân sẵn nhịp, đoàn ỷ la đôi nước rõ ràng.
Hôn cấu đã nên nghĩa cả;
Quan san bao quản dặm trường.
Nhờ lượng trên cũng muốn tôn Chu, tình thân hiếu đã ngăn chia đôi nước;
Song thế cả trót đà về Hán, hội hỗn đồng chi cách trở một phương?
Lòng dẫu xót thấy cơn cách chính;
Thân lại nhờ gặp hội hưng vương.
Thành Xuân theo ngọn long kỳ, đạo tề trị gần nghe tiếng ngọc;
Cung Hữu rạng mầu địch phất, tình ái ân muôn đội nhà vàng.
Danh phận ấy cậy vun trồng mọi vẻ;
Nề nếp xưa nhờ che chở trăm đường.
Ơn sâu nhuần gọi cỏ cây, chốn lăng tẩm chẳng phạm chồi du tử;
Lộc nặng thơm tho hương khói, nơi miếu đường nào khuyết lễ chưng thường.
Mọi nỗi, mọi nhờ trọn vẹn;
Một điều, một được vẻ vang.
Phép hằng gìn hạc thược, tước thoa, buồng quế rạng khuôn Nội Tắc;
Điềm sớm ứng Chung Tư, Lân Chỉ, Phái Lam thêm diễn thiên hoàng.
Mảy chút chưa đền đức cả;
Gót đầu đều trọn ơn sang.
Đền Vị Ương bóng đuốc bừng bừng, lòng cần mẫn vừa khi dóng dả.
Miền Cực Lạc xe mây vùn vụt, duyên hảo cầu sao bỗng dở dang?
Ôi!
Gió lạnh buồng đào, rơi cầm nẩy sắt;
Sương pha cung đỏ, hoen phấn mờ gương.
Tiệc vầy vui nhớ hãy rành rành, nhịp ca múa bỗng khuây chừng Thần Ngự.
Buổi chầu chực tưởng còn phảng phất, chuông điểm hồi sao vắng chốn Cảnh Dương.
Vấn vít bấy, bảy năm kết phát;
Đau đớn thay, trăm nỗi đoạn trường.
Hé nhà sương ngắm quyển cung châm, tiếng chi phất hãy mơ màng trên gối.
Nương hương nguyệt, ngẫm lời đình chỉ, bóng thuý hoa còn phấp phới bên tường.
Hang núi cũng phàn nàn đòi chốn;
Cỏ hoa đều sùi sụt mấy hàng!
Liều trâm ngọc mong theo chốn châu du, da tóc trăm thân nào có tiếc.
Ôm cưỡng bảo luống ngập ngừng di thể, sữa măng đôi chút lại thêm thương.
Tiếc thay!
Ngày thoi thắm thoắt;
Bóng khích vội vàng.
Thuyền ngự toạ đã ngang ghềnh Thái Thuỷ!
Bóng long xa thẳng trỏ lối tiên hương.
Nẻo hoàng tuyền xa cách mấy trùng, ngao ngán thêm ngừng cơn biệt duệ.
Chén hoàng thuỷ kính dâng một lễ, xét soi xin thấu cõi minh dương.
Văn tế Trương Quỳnh Như
Tác giả: Phạm Thái
Nương tử ơi! Chướng căn ấy bởi vì đâu? Oan thác ấy bởi vì đâu? Cho đến nỗi xuân tàn hoa nụ, thu lẩn trăng rằm!
Lại có điều đau đớn thế. Nhà huyên ví có năm có bảy, mà riêng mình nàng đeo phận bạc, thì lửa nguội nước vơi còn có lẽ.
Thương hại thay! Hoa có một cành, tuyết có một quãng, nguyệt có một vầng, mây có một đoá: thân là thân hiếm hoi chừng ấy, nỡ nào lấy đôi mươi năm, làm một kiếp, mà ngơm ngớm chốn non Bồng nước Nhược, chút gì không đoái đến cõi phù sinh!
Ví dụ mà tiên thù với tục, sao xưa kia vâng mệnh xuống trần chi? Nay đã nguyện một thân cho vẹn kiếp, thì ba vạn sáu ngàn ngày sống cho đủ lệ: nọ xuân huyên, này phu tử, góp với trần gian không chút hận, rồi sẽ rong chơi chín suối, cớ sao riêng bóng vội vàng chi?
Ôi! Chữ mệnh hẹp hòi, chữ duyên suồng sả, những như thân giá ấy, tình cảnh ấy, ngược xuôi kia cũng ngậm ngùi cho. Huống ta cùng nương tử, tuy chẳng thân kia thích nọ nhưng tình duyên ấy, cũng là một chút cương thường: dầu rằng kẻ ấy lạ người đây, song ân ái bấy lâu nay, đã biết bao nhiêu tâm sự. Ta hăm hở chí trai hồ thỉ, bởi đợi thời nên nấn ná nhân duyên: mình long đong thân gái liễu bồ, vì giận phận hoá buông xuôi tính mạng.
Cho đến nỗi hoa rơi lá rụng, ngọc nát châu chìm: chua xót cũng vì đâu?
Nay qua nấm cỏ xanh, tưởng người phận bạc, sùi sụt hai hàng tình lệ, giãi bày một bức khốc văn, đốt xuống tuyền đài, tỏ cùng nương tử!
Phú sông Bạch Đằng
Tác giả: Trương Hán Siêu
白藤江賦
客有:
掛汗漫之風帆,
拾浩蕩之海月。
朝嘎舷兮沅湘,
暮幽探兮禹穴。
九江五湖,
三吳百粵。
人跡所至,
靡不經閱。
胸吞雲夢者數百而,
四方壯志猶闕如也。
乃舉楫兮中流,
縱子長之遠遊。
涉大灘口,
溯東潮頭。
抵白藤江,
是泛是浮。
接鯨波於無際,
蘸繇尾之相繆。
水天一色,
風景三秋。
渚获岸蘆,
瑟瑟颼颼。
折戟沉江,
枯骨盈丘。
慘然不樂,
佇立凝眸。
念豪傑之已往,
嘆蹤跡之空留。
江邊父老,
謂我何求。
或扶黎杖,
或棹孤舟。
揖余而言曰:
此重興二聖擒烏馬兒之戰地,
與昔時吳氏破劉弘操之故洲也。
當期:
舳艫千里,
旌旗旖旎。
貔貅六軍,
兵刃蜂起。
雌雄未決,
南北對壘。
日月昏兮無光,
天地凜兮將毀。
彼:
必烈之勢強,
劉龔之計詭。
自謂投鞭,
可掃南紀。
既而:
皇天助順,
凶徒披靡。
孟德赤壁之師談笑飛灰,
符堅合淝之陣須臾送死。
至今江流,
終不雪恥。
再造之功,
千古稱美。
雖然:
自有宇宙,
故有江山。
信天塹之設險,
賴人傑以奠安。
孟津之會鷹揚箬呂,
濰水之戰國士如韓。
惟此江之大捷,
猶大王之賊閒。
英風可想,
口碑不刊。
懷古人兮隕涕,
臨江流兮厚顏。
行且歌曰:
大江兮滾滾,
洪濤巨浪兮朝宗無盡。
仁人兮聞名,
匪人兮俱泯。
客從而賡歌曰:
二聖兮並明,
就此江兮洗甲兵。
胡塵不敢動兮,千古昇平。
信知:不在關河之險兮,
惟在懿德之莫京。
Phiên âm:
Khách hữu:
Quải hạn mạn chi phong phàm,
Thập hạo đãng chi hải nguyệt.
Triêu dát huyền hề Nguyên, Tương,
Mộ u thám hề Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nhân tích sở chí,
Mị bất kinh duyệt.
Hung thôn Vân Mộng giả sổ bách nhi,
Tứ phương tráng chí do khuyết như dã.
Nãi cử tiếp hề trung lưu,
Túng Tử Trường chi viễn du.
Thiệp Đại Than khẩu,
Tố Đông Triều đầu.
Để Bạch Đằng giang,
Thị phiếm thị phù.
Tiếp kình ba ư vô tế,
Trám diêu vĩ chi tương mâu.
Thuỷ thiên nhất sắc,
Phong cảnh tam thu.
Chử địch ngạn lô,
Sắt sắt sâu sâu.
Chiết kích trầm giang,
Khô cốt doanh khâu.
Thảm nhiên bất lạc,
Trữ lập ngưng mâu.
Niệm hào kiệt chi dĩ vãng,
Thán tung tích chi không lưu.
Giang biên phụ lão,
Vị ngã hà cầu.
Hoặc phù lê trượng,
Hoặc trạo cô châu.
Ấp dư nhi ngôn viết:
“Thử Trùng Hưng nhị thánh cầm Ô Mã Nhi chi chiến địa,
Dữ tích thời Ngô thị phá Lưu Hoằng Thao chi cố châu dã.”
Đương kỳ:
Trục lô thiên lý,
Tinh kỳ ỷ nỉ.
Tỳ hưu lục quân,
Binh nhẫn phong khỉ.
Thư hùng vị quyết,
Nam Bắc đối luỹ.
Nhật nguyệt hôn hề vô quang,
Thiên địa lẫm hề tương huỷ.
Bỉ:
Tất Liệt chi thế cường,
Lưu Cung chi kế quỷ.
Tự vị đầu tiên,
Khả tảo Nam kỷ.
Ký nhi:
Hoàng thiên trợ thuận,
Hung đồ phi mỵ.
Mạnh Đức Xích Bích chi sư đàm tiếu phi hôi,
Bồ Kiên Hợp Phì chi trận tu du tống tử.
Chí kim giang lưu,
Chung bất tuyết sỉ.
Tái bạo chi công,
Thiên cổ xưng mỹ.
Tuy nhiên:
Tự hữu vũ trụ,
Cố hữu giang san.
Tín thiên tạm chi thiết hiểm,
Lại nhân kiệt dĩ điện an.
Mạnh Tân chi hội ưng dương nhược Lã,
Duy Thuỷ chi chiến quốc sĩ như Hàn.
Duy thử giang chi đại tiệp,
Do đại vương chi tặc nhàn.
Anh phong khả tưởng,
Khẩu bi bất san.
Hoài cổ nhân hề vẫn thế,
Lâm giang lưu hề hậu nhan.
Hành thả ca viết:
“Đại giang hề cổn cổn,
Hồng đào cự lãng hề triều tông vô tận.
Nhân nhân hề văn danh,
Phỉ nhân hề câu dẫn.”
Khách tòng nhi canh ca viết:
“Nhị thánh hề tịnh minh,
Tựu thử giang hề tẩy giáp binh.
Hồ trần bất cảm động hề, thiên cổ thăng bình.
Tín tri: bất tại quan hà chi hiểm hề,
Duy tại ý đức chi mạc kinh.”
Dịch thơ:
Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.
Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc, phong cảnh: ba thu.
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!
Bên sông bô lão hỏi, hỏi ý ta sở cầu?
Có kẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng:
Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.
Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội, tinh kỳ phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối,
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Thế nhưng:
Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối!
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao, Nghìn xưa ca ngợi.
Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san.
Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an!
Hội nào bằng hội Mạnh Tân: như vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ: như quốc sĩ họ Hàn.
Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
Sông Đằng một dải dài ghê,
Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.
Văn tế thập loại chúng sinh
Tác giả: Nguyễn Du
Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào là chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
Còn chi ai quí ai hèn,
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa sất phu,
Lớn sang giàu nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu than khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói,
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, một đêm một rầu.
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú,
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù du dẫu có như không,
Sống thời tiền chảy bạc ròng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm,
Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cô hồn nhờ gửi tha phương,
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khoá lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập loè ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Đâu chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?
Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái
Người thì sa nanh sói ngà voi,
Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.
Hoặc là nương thần từ, Phật tự
Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không,
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.
Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,
Gan héo khô dạ rét căm căm,
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra,
Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hoà tứ hải quần chu,
Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương,
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát cháo nén nhang,
Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sình.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Đừng bỏ qua tập 🔰Thơ Chữ Nôm Của Nguyễn Du 🔰Hay đắc sắc