Thơ Cổ Phong Hay: Chùm Thơ Cổ Đại Việt Nam, Trung Quốc

Thơ Cổ Phong Hay ❤️️ Chùm Thơ Cổ Đại Việt Nam, Trung Quốc ✅ Tổng Hợp Những Bài Thơ Mang Phong Cách Cổ Điển Hay Nhất.

Thơ Cổ Phong Là Gì

Thơ cổ phong là gì? Thơ cổ phong còn gọi là cổ thi, thơ cổ thể hay cổ thể thi. Đây là một thể thơ có từ trước thời Đường. Về sau, thơ cổ phong trở thành một thuật ngữ mang bao quát rộng hơn, chỉ tất cả những bài thơ cổ được sáng tác từ thời Đường trở về sau mà không theo luật thơ Đường (không kể từ và khúc).

Sau này thơ cổ phong lại trở thành tên gọi chung của tất cả thơ ngũ ngôn, thất ngôn mà không theo luật, gồm ngũ ngôn cổ thi, thất ngôn cổ thi, tam ngôn thi, tứ ngôn thi, lục ngôn thi…, không theo niêm luật, không hạn chế số câu, chữ như thơ Đường luật.

Thơ Cổ Phong có thể dùng một vần hay nhiều vần nhưng vần vẫn phải thích ứng với quy luật âm thanh, có nhịp bằng trắc xen nhau giúp dễ đọc.

Một mặt thơ cổ phong mô phỏng cổ thi, không cần tuân theo niêm luật, số chữ, số câu gò bó nên vẫn có được màu sắc tự do, phóng khoáng. Mặt khác, vì thể thơ này ra đời lúc thơ Đường luật đã chiếm vị trí thống trị trên thi đàn nên người viết theo thể thơ này dù ít hoặc nhiều, có ý thức hay không có ý thức thì đều chịu sự chi phối của thơ Đường luật.

Đón đọc thêm 🍃Thơ Cổ Trang, Thơ Kiếm Hiệp Hay🍃Ngoài Chùm Thơ Cổ Phong Hay

Thơ Cổ Điển, Cổ Đại Là Gì

Thơ cổ điển, cổ đại là gì? Cùng Thohay.vn đi tìm hiểu chi tiết trong phần dưới đây.

Thơ cổ điển là thơ bắt nguồn từ Chủ nghĩa cổ điển, đề cao sự đơn giản và rõ ràng trong khi hạn chế việc phô bày cảm xúc. Nó nhấn mạnh tâm lý “ít là nhiều” coi trọng những thứ đẹp về mặt thẩm mỹ và có hình thức bên ngoài của sự hoàn hảo.

Thơ cổ điển Việt Nam là sự giao hoà tâm vật, tương sinh, tương thành, hô ứng. Bài thơ bắt đầu từ cảnh, vật, đến tâm cảnh, đến chí thì kết thúc. Hoặc ngược lại, bắt đầu từ tình, chí, qua tâm cảnh, tới cảnh vật trước mắt thì kết. Do tâm vật (cảnh) giao hoà nên thời gian vô hạn có thể kết hợp với thời gian hữu hạn, từ cái này chiếu vào cái kia hoặc mở ra cái kia. Cũng có thể nói như vậy về không gian. Ví dụ bài Chiều hôm nhớ nhà, Qua Đèo Ngang,….

Còn về thơ cổ cổ đại, đây là thể loại thơ thường được sử dụng để chỉ các bài thơ viết trước thời kỳ ghi chép lịch sử ở một nền văn hóa nào đó. Đây là những tác phẩm thường được truyền miệng từ đời này sang đời khác bằng cách hát hoặc kể lại. Thơ cổ đại có phong cách và ngôn ngữ thường rất đặc biệt và khác với tiếng nói thông thường của thời đại hiện tại.

Những Bài Thơ Cổ Phong Hay Nhất

Sưu tầm những bài thơ cổ phong hay nhất gửi tặng bạn đọc của Thohay.vn.

Phản chiêu hồn
Tác giả: Nguyễn Du

反招魂

魂兮魂兮胡不歸,
東西南北無所依。
上天下地皆不可,
鄢郢城中來何為。
城郭猶是人民非,
塵埃滾滾汙人衣。
出者驅車入踞坐,
坐談立議皆皋夔。
不露爪牙與角毒,
咬嚼人肉甘如飴。
君不見湖南數百州,
只有瘦瘠無充肥。
魂兮魂兮率此道,
三皇之後非其時。
早斂精神返太極,
慎勿再返令人嗤。
後世人人皆上官,
大地處處皆汨羅。
魚龍不食豺虎食,
魂兮魂兮奈魂何。

Phiên âm:

Hồn hề! Hồn hề! Hồ bất quy?
Đông tây nam bắc vô sở y.
Thướng thiên há địa giai bất khả,
Yên, Dĩnh thành trung lai hà vi?
Thành quách do thị, nhân dân phi,
Trần ai cổn cổn ô nhân y.
Xuất giả khu xa, nhập cứ toạ,
Toạ đàm lập nghị giai Cao, Quỳ.
Bất lộ trảo nha dữ giác độc,
Giảo tước nhân nhục cam như di!
Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu,
Chỉ hữu sấu tích, vô sung phì.
Hồn hề! hồn hề! suất thử đạo
Tam Hoàng chi hậu phi kỳ thì.
Tảo liễm tinh thần phản thái cực,
Thận vật tái phản linh nhân xi,
Hậu thế nhân gian giai Thượng Quan
Đại địa xứ xứ giai Mịch La,
Ngư long bất thực, sài hổ thực,
Hồn hề! hồn hề! nại hồn hà?

Dịch thơ:

Hồn ơi! sao chẳng trở về?
Ðông tây nam bắc chở che chốn nào?
Dù đất thấp trời cao chẳng ổn,
Yên, Dĩnh đành lạc lõng như nhau.
Thành đây, dân cũ còn đâu,
Bụi đời mù mịt dơ màu áo xưa.
Ra xe đưa, vào ngồi chễm chệ,
Bàn bạc xem ra vẻ hiền thần.
Vuốt nanh, nọc độc chứa ngầm,
Thịt người cắn xé như đường nuốt ngon!
Hồ Nam kia thấy không trăm xóm,
Toàn những người gầy ốm xanh xao.
Hồn ơi! lối ấy theo nhau,
Ðời Tam Hoàng trước lấy đâu hợp thời.
Thu tinh thần về nơi Thái cực,
Chớ về đây người chực mỉa mai.
Thượng quan thời buổi ai ai,
Khắp trên đất rộng sông dài: Mịch La!
Cá rồng nuốt, sói hùm tha,
Hồn ơi! hồn hỡi! hồn mà làm sao?

Cáo Tật Thị Chúng
Tác giả: Mãn Giác Thiền Sư

告疾示眾

春去百花落,
春到百花開。
事逐眼前過,
老從頭上來。
莫謂春殘花落盡,
庭前昨夜一枝梅

Phiên âm:

Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Dịch thơ:

Xuân trỗi, trăm hoa rụng
Xuân đến, trăm hoa cười
Trước mặt, việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai. 

Đăng U Châu đài ca
Tác giả: Trần Tử Ngang

登幽州臺歌

前不見古人,
後不見來者。
念天地之悠悠,
獨愴然而涕下。

Phiên âm:

Tiền bất kiến cổ nhân,
Hậu bất kiến lai giả.
Niệm thiên địa chi du du,
Ðộc sảng nhiên nhi thế há.

Dịch thơ:

Người trước chẳng thấy ai
Người sau thì chưa thấy
Gẫm trời đất thật vô cùng
Riêng lòng đau mà lệ chảy.

Tỳ bà hành
Tác giả: Bạch Cư Dị

琵琶行

潯陽江頭夜送客,
楓葉荻花秋瑟瑟。
主人下馬客在船,
舉酒欲飲無管弦。
醉不成歡慘將別,
別時茫茫江浸月。
忽聞水上琵琶聲,
主人忘歸客不發。
尋聲暗問彈者誰,
琵琶聲停欲語遲。
移船相近邀相見,
添酒回燈重開宴。
千呼萬喚始出來,
猶抱琵琶半遮面。
轉軸撥弦三兩聲,
未成曲調先有情。
弦弦掩抑聲聲思,
似訴生平不得志。
低眉信手續續彈,
說盡心中無限事。
輕攏慢撚抹復挑,
初為霓裳後六么。
大弦嘈嘈如急雨,
小弦切切如私語。
嘈嘈切切錯雜彈,
大珠小珠落玉盤。
閒關鶯語花底滑,
幽咽流景水下灘。
水泉冷澀弦凝絕,
凝絕不通聲漸歇。
別有幽愁暗恨生,
此時無聲勝有聲。
銀瓶乍破水漿迸,
鐵騎突出刀鎗鳴。
曲終收撥當心畫,
四弦一聲如裂帛。
東船西舫悄無言,
惟見江心秋月白。
沈吟放撥插弦中,
整頓衣裳起斂容。
自言本是京城女,
家在蝦蟆陵下住。
十三學得琵琶成,
名屬教坊第一部。
曲罷曾教善才服,
妝成每被秋娘妒。
五陵年少爭纏頭,
一曲紅綃不知數。
鈿頭銀篦擊節碎,
血色羅裙翻酒污。
今年歡笑復明年,
秋月春風等閒度。
弟走從軍阿姨死,
暮去朝來顏色故。
門前冷落車馬稀,
老大嫁作商人婦。
商人重利輕別離,
前月浮梁買茶去。
去來江口守空船,
繞船明月江水寒。
夜深忽夢少年事,
夢啼妝淚紅闌干。
我聞琵琶已歎息,
又聞此語重唧唧。
同是天涯淪落人,
相逢何必曾相識。
我從去年辭帝京,
謫居臥病潯陽城。
潯陽地僻無音樂,
終歲不聞絲竹聲。
往近湓城地底濕,
黃蘆苦竹繞宅生。
其間旦暮聞何物,
杜鵑啼血猿哀鳴。
春江花朝秋月夜,
往往取酒還獨傾。
豈無山歌與村笛,
嘔啞嘲哳難為聽。
今夜聞君琵琶語,
如聽仙樂耳暫明。
莫辭更坐彈一曲,
為君翻作琵琶行。
感我此言良久立,
卻坐促弦弦轉急。
淒淒不似向前聲,
滿座重聞皆掩泣。
座中泣下誰最多,
江州司馬青衫濕。

Phiên âm:

Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.
Chủ nhân há mã khách tại thuyền,
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền.
Tuý bất thành hoan thảm tương biệt,
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt.
Hốt văn thuỷ thượng tỳ bà thanh,
Chủ nhân vong quy khách bất phát.
Tầm thanh âm vấn đàn giả thuỳ,
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì.
Di thuyền tương cận yêu tương kiến,
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến.
Thiên hô vạn hoán thuỷ xuất lai,
Do bão tỳ bà bán già diện.
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh,
Vị thành khúc điệu tiên hữu tình.
Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ,
Tự tố bình sinh bất đắc chí.
Đê mi tín thủ tực tực đàn,
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự.
Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu,
Sơ vi Nghê thường hậu Lục yêu.
Đại huyền tào tào như cấp vũ,
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ.
Tào tào thiết thiết thác tạp đàn,
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn.
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt,
U yết lưu cảnh thuỷ hạ than.
Thuỷ tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt,
Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết.
Biệt hữu u sầu ám hận sinh,
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.
Ngân bình sạ phá thuỷ tương bính,
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh.
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch,
Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch.
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn,
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch.
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung,
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung.
Tự ngôn bản thị kinh thành nữ,
Gia tại Hà Mô lăng hạ trú.
Thập tam học đắc tỳ bà thành,
Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ.
Khúc bãi tằng giao thiện tài phục,
Trang thành mỗi bị Thu Nương đố.
Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu,
Nhất khúc hồng tiêu bất tri số.
Điền đầu ngân tì kích tiết toái,
Huyết sắc la quần phiên tửu ố.
Kim niên hoan tiếu phục minh niên,
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ.
Đệ tẩu tòng quân a di tử,
Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố.
Môn tiền lãnh lạc xa mã hy,
Lão đại giá tác thương nhân phụ.
Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly,
Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ.
Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền,
Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thuỷ hàn.
Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự,
Mộng đề trang lệ hồng lan can.
Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức,
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức.
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân,
Tương phùng hà tất tằng tương thức.
Ngã tòng khứ niên từ đế kinh,
Trích cư ngoạ bệnh Tầm Dương thành.
Tầm Dương địa tích vô âm nhạc,
Chung tuế bất văn ty trúc thanh.
Trú cận Bồn giang địa thế thấp,
Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh.
Kỳ gian đán mộ văn hà vật,
Đỗ quyên đề huyết viên ai minh.
Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ,
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh.
Khởi vô sơn ca dữ thôn địch,
Âu á triều triết nan vi thính.
Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ,
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh.
Mạc từ cánh toạ đàn nhất khúc,
Vị quân phiên tác Tỳ bà hành.
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập,
Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp.
Thê thê bất tự hướng tiền thanh,
Mãn toạ trùng văn giai yểm khấp.
Toạ trung khấp hạ thuỳ tối đa,
Giang Châu tư mã thanh sam thấp.

Dịch thơ:

Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách.
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.
Người xuống ngựa, khách dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.
Say những luống ngại khi hầu rẽ,
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.
Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông,
Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi.
Lần tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?
Lửng tiếng đàn, nấn ná làm thinh.
Dời thuyền theo hỏi thăm tình,
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui.
Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.
Vặn đàn vài tiếng dạo qua,
Tuy chưa trọn khúc, tình đà thoảng hay.
Nghe não nuột mấy dây bứt rứt,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu.
Chau mày, tay gảy khúc sầu,
Giãi bày mọi nỗi trước sau muôn vàn.
Ngón buông, bắt, khoan khoan dìu dặt,
Trước “Nghê thường”, sau thoắt “Lục yêu”.
Dây to nhường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng.
Tiếng cao thấp lần chen liền gảy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.
Trong hoa, oanh ríu rít nhau,
Suối tuông róc rách chảy mau xuống ghềnh.
Tiếng suối lạnh, dây mành ngừng tắt,
Ngừng tắt nên phút bặt tiếng tơ.
Ôm sầu, đau giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng lẽ bấy giờ càng hay.
Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước,
Ngựa sắt giong, thét ngược tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông.
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong,
Áo xiêm khép nép hầu mong giải lời.
Rằng xưa vốn là người kẻ chợ,
Cồn Hà Mô trú ở lân la.
Học đàn từ thuở mười ba,
Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên.
Gã thiện tài sợ phen dừng khúc,
Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô.
Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the tấm chuốc mua tiếng đàn.
Vành lược bạc gãy tay nhịp gõ,
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.
Năm năm lần lữa vui cười,
Mải gió trăng chẳng đoái hoài xuân thu.
Buồn em trẩy, lại sầu dì thác,
Lần hôm mai đổi khác hình dung.
Cửa ngoài xe ngựa vắng không,
Thân già mới kết đôi cùng khách thương.
Khách trọng lợi khinh thường ly cách,
Mải buôn chè, sớm tếch miền khơi.
Thuyền không đậu bến mặc ai,
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng.
Ðêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ,
Lệ trong mơ hoen vẻ phấn son.
Nghe đàn ta đã chạnh buồn,
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời.
Cùng một lứa bên trời lận đận,
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm Dương đất trích, gối sầu hôm mai.
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm.
Sông Bồn gần chốn cát lầm,
Lau vàng, trúc võ nảy mầm quanh hiên.
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối,
Cuốc kêu sầu, vượn hót nỉ non.
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn,
Lần lần tay chuốc chén son riêng ngừng.
Há chẳng có ca rừng địch nội,
Giọng líu lo, nhiều nỗi khó nghe.
Tiếng tỳ nghe dạo canh khuya,
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
Hãy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca.
Tần ngần dường cảm lời ta,
Dén ngồi bắt ngón đàn đà kíp dây.
Nghe não nuột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi.
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.

Top những lời 🌿Thơ Ngôn Tình Ngắn Hay🌿Ngoài Những Bài Thơ Cổ Phong Hay

Các Tác Phẩm Thơ Cổ Phong Hay Đặc Sắc

Điểm qua các tác phẩm thơ cổ phong hay đặc sắc, cùng thưởng thức ngay nhé!

Long thành cầm giả ca
Tác giả: Nguyễn Du

龍城琴者歌
龍城佳人,
不記名字。
獨善絃琴,
舉城之人以琴名。
學得先朝宮中供奉曲,
自是天上人間第一聲。
余在少年曾一見,
監湖湖邊夜開宴。
此時三七正芳年,
春風掩映桃花面。
酡顏憨態最宜人,
歷亂五聲隨手變。
緩如涼風度松林,
清如隻鶴鳴在陰。
烈如荐福碑頭碎霹靋,
哀如莊舄病中為越吟。
聽者靡靡不知倦,
盡是中和大內音。
西山諸臣滿座盡傾倒,
徹夜追歡不知曉。
左拋右擲爭纏頭,
泥土金錢殊草草。
豪華意氣凌公侯,
五陵年少不足道。
并將三十六宮春,
換取長安無賈寶。
此夕回頭二十年,
西山敗後余南遷。
咫尺龍城不復見,
何況城中歌舞莚。
宣撫使君為余重買笑,
席中歌妓皆年少。
席末一人髮半華,
顏醜神枯形略小。
狼藉殘眉不飾粧,
誰知便是當年城中第一調。
舊曲新聲暗淚垂,
耳中靜聽心中悲。
猛然億起二十年前事,
監湖湖邊曾見之。
城郭推移人事改,
幾度桑田變蒼海。
西山基業一旦盡消亡,
歌舞空留一人在。
瞬息百年曾幾時,
傷心往事淚沾衣。
南河歸來頭盡白,
怪底佳人顏色衰。
雙眼瞪瞪空想像,
可憐對面不相知。

Phiên âm:

Long thành giai nhân,
Bất ký danh tự.
Ðộc thiện huyền cầm,
Cử thành chi nhân dĩ cầm danh.
Học đắc tiên triều cung trung “Cung phụng” khúc,
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh.
Dư tại thiếu niên tằng nhất kiến,
Giám Hồ hồ biên dạ khai yến.
Thử thời tam thất chánh phương niên,
Xuân phong yểm ánh đào hoa diện.
Ðà nhan hám thái tối nghi nhân,
Lịch loạn ngũ thanh tuỳ thủ biến.
Hoãn như luơng phong độ tùng lâm,
Thanh như chích hạc minh tại âm.
Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái phích lịch,
Ai như Trang Tích bịnh trung vi Việt ngâm.
Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện,
Tận thị Trung Hoà Ðại Nội âm.
Tây Sơn chư thần mãn toạ tận khuynh đảo,
Triệt dạ truy hoan bất tri hiểu.
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu,
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo.
Hào hoa ý khí lăng công hầu,
Ngũ Lăng niên thiếu bất túc đạo.
Tính tương tam thập lục cung xuân,
Hoán thủ Trường An vô giá bảo.
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên,
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên.
Chỉ xích Long Thành bất phục kiến,
Hà huống thành trung ca vũ diên.
Tuyên phủ sứ quân vị dư trùng mãi tiếu,
Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu.
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa,
Nhan xú thần khô hình lược tiểu.
Lang tạ tàn my bất sức trang,
Thuỳ tri tiện thị đương niên thành trung đệ nhất điệu.
Cựu khúc tân thanh ám lệ thuỳ,
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi.
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự,
Giám Hồ hồ biên tằng kiến chi.
Thành quách suy di nhân sự cải,
Kỷ độ tang điền biến thương hải.
Tây Sơn cơ nghiệp nhất đán tận tiêu vong,
Ca vũ không lưu nhất nhân tại.
Thuấn tức bách niên tằng kỷ thì,
Thương tâm vãng sự lệ triêm y.
Nam Hà quy lai đầu tận bạch,
Quái để giai nhân nhan sắc suy.
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng,
Khả liên đối diện bất tương tri.

Dịch thơ:

Thành Thăng Long nhớ từ thuở nọ
Bậc giai nhân tên họ ai hay
Ðàn cầm thánh thoát mấy dây
Khắp thành quen miệng gọi ngay Nàng Cầm
“Cung Phụng khúc” xưa ngâm trong Nội
Phổ nên chương tiếng nổi một thời
Nhớ ngày đương độ vui chơi
Giám hồ yến tiệc gặp người tài hoa
Tuổi hăm mốt nõn nà lộng lẫy
Gió xuân êm hây hẩy bông đào
Men tô duyên não nùng sao
Nỉ non năm tiếng thấp cao tuyệt vời
Theo tay ngọc lòng người ủ rũ
Tiếng bổng trầm to nhỏ miên man
Khoan như gió lướt thông ngàn
Trong như tiếng hạc lạc đàn kêu sương
Mạnh như sấm phũ phàng xé đá
Tiến Phúc bia nổ phá ầm ầm
Buồn như khúc Việt ai ngâm
Nỗi lòng Trang Tích âm thầm mà đau
Ðiệu êm ấm nghe lâu chẳng mỏi
Chính khúc này đại nội triều xưa
Tây Sơn quân tướng thẫn thờ
Ngả nghiêng đến sáng còn chưa thỏa lòng
Quăng lụa thưởng tây đông tíu tít
Vàng tựa bùn cứ việc vung tay
Công hầu hào khí đua say
Ngũ lăng niên thiếu một bày sá chi
Dạo khúc xuân diễm kỳ lả lướt
Băm sáu cung thánh thót xinh xinh
Tràng An treo ngọc liên thành
Phẩm cao vô giá, tài tình riêng ai
Thoảng hai chục năm trời từ đấy
Tây Sơn thua, ta trẩy Nam Hà
Long Thành gang tấc còn xa
Ðiệu xưa nhớ mấy cũng là đành thôi
Tuyên phủ sứ lại mời dự tiệc
Thiếu chi người mày biếc má hồng
Cuối bàn phảng phất não nùng
Một nàng đầu tóc hình dung bơ phờ
Mình gầy võ mày thưa duyên nhạt
Ai biết nàng oanh liệt xưa kia
Khúc đâu lệ chảy đầm đìa
Khiến người nghe những đê mê xót thầm
Chợt nhớ lại bao năm chuyện cũ
Từng bên ai vui thú hồ xưa
Thành tàn duyên cũng xác xơ
Ngậm ngùi mấy cuộc biển mờ dâu xanh
Rồi một sớm bại thành là thế
Cảm khúc ca trời để một người
Trăm năm một thoáng bao dài
Ngậm ngùi chuyện cũ cho đời buồn đau
Ở Nam về, mái đầu đã bạc
Người đẹp xưa cũng khác hình xưa
Giương đôi mắt ngó mà mơ
Thảm thay ai biết bây giờ là ai

Thái Bình mại ca giả
Tác giả: Nguyễn Du

太平賣歌者
太平瞽師粗布衣,
小兒牽挽行江湄。
云是城外老乞子,
賣歌乞錢供晨炊。
鄰舟時有好音者,
牽手引上船窗下。
此時船中暗無燈,
棄飯潑水殊狼藉。
摸索引身向坐隅,
再三舉手稱多謝。
手挽弦索口作聲,
且彈且歌無暫停。
可音殊異不得辨,
但覺嘹喨殊可聽。
舟子寫字為余道,
此曲世民與建成。
觀者十數並無語,
但見江風蕭蕭江月明。
口噴白沫手酸縮,
卻坐斂弦告終曲。
殫盡心力幾一更,
所得銅錢僅五六。
小兒引待下船來,
猶且回顧禱多福。
我乍見之悲且辛,
凡人愿死不愿貧。
只道中華盡溫飽,
中華亦有如此人。
君不見使船朝來供頓例,
一船一船盈肉米。
行人飽食便棄餘,
殘肴泠飯沉江底。

Phiên âm:

Thái Bình cổ sư thô bố y
Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi
Vân thị thành ngoại lão khất tử
Mại ca khất tiền cung thần xuy
Lân chu thời hữu hiếu âm giả
Khiên thủ dẫn thướng thuyền song hạ
Thử thời thuyền trung ám vô đăng
Khí phạn bát thuỷ thù lang tạ
Mô sách dẫn thân hướng toạ ngung
Tái tam cử thủ xưng đa tạ
Thủ vãn huyền sách khẩu tác thanh
Thả đàn thả ca vô tạm đình
Thanh âm thù dị bất đắc biện
Ðãn giác liêu lượng thù khả thinh
Chu tử tả tự vị dư đạo
Thử khúc Thế Dân dữ Kiến Thành
Quan giả thập số tịnh vô ngữ
Ðãn kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh
Khẩu phún bạch mạt, thủ toan súc
Khước toạ, liễm huyền, cáo chung khúc
Ðàn tận tâm lực cơ nhất canh
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục
Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai
Do thả hồi cố đảo đa phúc
Ngã sạ kiến chi, bi thả tân
Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần
Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân
Quân bất kiến sứ thuyền triêu lai cung đốn lệ
Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ
Hành nhân bão thực tiện khí dư
Tàn hào lãnh phạn trầm giang để.

Dịch thơ:

Ở phủ Thái Bình có ông lão
Hai mắt mù mặc áo vải thô
Nắm tay trẻ dắt ngoại ô
Ven sông hát dạo lần mò kiếm ăn
Thuyền bên có kẻ ham nghe hát
Dẫn ông già xuống sát cửa thuyền
Lúc này thuyền tối không đèn
Cơm thừa canh cặn đổ tràn tứ tung
Lò dò vô trong cùng, một góc
Hai ba lần lóc ngóc cám ơn
Miệng ca, tay nắn dây đàn
Một hơi đàn hát chẳng lần nghỉ ngơi
Thanh âm lạ, lẽ lời không hiểu
Lắng nghe ra thì điệu cũng hay
Nhà thuyền viết chữ: “khúc này”
“Thế Dân tranh đoạt quyền oai Kiến Thành”
Chục người xem mà đành phăng phắc
Gió ru trăng vằng vặc trên sông
Miệng sùi, tay mỏi lão ông
Cất đàn, ngồi lại, thưa rằng đã xong
Gần một canh, hết lòng hết sức
Năm sáu đồng kiếm được thế thôi
Ðứa em dẫn khỏi thuyền rồi
Còn quay đầu lại gửi lời chúc may
Chợt nhìn thấy cảnh này đau xót
Phàm người ta chết tốt hơn nghèo
Trung Hoa no ấm, nghe nhiều
Trung Hoa cũng có người nghèo thế ư
Kìa không thấy sứ từ xa lại
Gạo thịt đầy thuyền cái thuyền con
Người ăn no ứ vẫn còn
Ðáy sông cơm ngọt món ngon đổ chìm.

Sở kiến hành
Tác giả: Nguyễn Du

所見行
有婦攜三兒,
相將坐道旁。
小者在懷中,
大者持竹筐。
筐中何所盛,
藜藿雜枇糠。
日晏不得食,
衣裙何框禳。
見人不仰視,
淚流襟浪浪。
群兒且喜笑,
不知母心傷。
母心傷如何,
歲饑流異鄉。
異鄉稍豐熟,
米價不甚昂。
不惜棄鄉土,
苟圖救生方。
一人竭傭力,
不充四口糧。
沿街日乞食,
此計安可長。
眼下委溝壑,
血肉飼豺狼。
母死不足恤,
撫兒增斷腸。
奇痛在心頭,
天日皆為黃。
陰風飄然至,
行人亦悽惶。
昨宵西河驛,
供具何張黃。
鹿筋雜魚翅,
滿棹陳豬羊。
長官不下箸,
小們只略嘗。
撥棄無顧惜,
鄰狗厭膏粱。
不知官道上,
有此窮兒娘。
誰人寫此圖,
持以奉君王。

Phiên âm:

Hữu phụ huề tam nhi
Tương tương toạ đạo bàng
Tiểu giả tại hoài trung
Ðại giả trì trúc khuông
Khuông trung hà sở thịnh
Lê hoắc tạp tì khang
Nhật án bất đắc thực
Y quần hà khuông nhương
Kiến nhân bất ngưỡng thị
Lệ lưu khâm lang lang
Quần nhi thả hỉ tiếu
Bất tri mẫu tâm thương
Mẫu tâm thương như hà
Tuế cơ lưu dị hương
Dị hương sảo phong thục
Mễ giá bất thậm ngang
Bất tích khí hương thổ
Cẩu đồ cứu sinh phương
Nhất nhân kiệt dung lực
Bất sung tứ khẩu lương
Duyên nhai nhật khất thực
Thử kế an khả trường
Nhãn hạ uỷ câu hác
Huyết nhục tự sài lang
Mẫu tử bất túc tuất
Phủ nhi tăng đoạn trường
Kỳ thống tại tâm đầu
Thiên nhật giai vị hoàng
Âm phong phiêu nhiên chí
Hành nhân diệc thê hoàng
Tạc tiêu Tây Hà dịch
Cung cụ hà trương hoàng
Lộc cân tạp ngư xí
Mãn trác trần trư dương
Trưởng quan bất hạ trợ
Tiểu môn chỉ lược thường
Bát khí vô cố tích
Lân cẩu yếm cao lương
Bất tri quan đạo thượng
Hữu thử cùng nhi nương
Thuỳ nhân tả thử đồ
Trì dĩ phụng quân vương

Dịch thơ:

Một mẹ dắt ba con
Cùng nhau ngồi vệ đường
Ðứa nhỏ nằm bụng mẹ
Ðứa lớn giỏ tre mang
Trong giỏ đựng chi lắm?
Rau lê, hoắc lẫn cám
Trưa rồi chửa được ăn
Áo quần, ôi rách thảm
Thấy người không ngẩng đầu
Vạt áo dòng lệ mau
Lũ con mải nô giỡn
Không biết lòng mẹ đau
Lòng mẹ đau ra sao?
Năm đói đến làng nào
Mùa màng thu hoạch tốt
Giá gạo không quá cao
Miễn tìm ra cách sống
Bỏ làng nước biết sao
Một người làm hết sức
Không đủ bốn miệng ăn
Ngày ngày đi khất thực
Cách ấy mãi sao đang
Mai bỏ xác bên ngòi
Máu thịt nuôi hùm sói
Mẹ chết đã đành rồi
Ôm con lòng đau nhói
Ðau xót tận tim gan
Mặt trời phải úa vàng
Gió lạnh bỗng ào tới
Khách qua cũng đoạn tràng
Ðêm qua trạm Tây Hà
Mở tiệc thật xa hoa
Gân hươu cùng vây cá
Ðầy bàn dê, lợn, gà
Quan lớn không đụng đũa
Quân hầu chỉ nếm qua
Vứt bỏ không luyến tiếc
Chó xóm chê thịt thà
Không biết trên đường cái
Mẹ con khổ dường này
Ai vẽ bức tranh ấy
Dâng cho nhà vua hay

Chùm Thơ Cổ Phong Trung Quốc Chọn Lọc

Đừng nên bỏ qua chùm thơ cổ phong Trung Quốc chọn lọc hay nhất dưới đây.

Nguyệt Dạ
Tác giả: Đỗ Phủ

月夜

今夜鄜州月,
閨中只獨看。
遙憐小兒女,
未解憶長安。
香霧雲鬟濕,
清輝玉臂寒。
何時倚虛幌,
雙照淚痕乾?

Phiên âm:

Kim dạ Phu Châu nguyệt,
Khuê trung chỉ độc khan.
Dao liên tiểu nhi nữ,
Vị giải ức Trường An.
Hương vụ vân hoàn thấp,
Thanh huy ngọc tý hàn.
Hà thì ỷ hư hoảng,
Song chiếu lệ ngân can?

Dịch thơ:

Đêm nay Phu Châu sáng,
Mình em ngắm trăng khuya.
Nỗi nhớ Trường An ấy,
Thương con chửa biết gì.
Sương thơm làn tóc đẫm,
Ánh lạnh cánh tay tê.
Bao nữa cùng soi bóng,
Đôi mình ngấn lệ se.

Thu Hứng Kỳ
Tác giả: Đỗ Phủ

秋興其一

玉露凋傷楓樹林,
巫山巫峽氣蕭森。
江間波浪兼天湧,
塞上風雲接地陰。
叢菊兩開他日淚,
孤舟一繫故園心。
寒衣處處催刀尺,
白帝城高急暮砧。

Phiên âm:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Dịch thơ:

Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu loà.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước,
Thành Bạch, chầy vang bóng ác tà.

Trường hận ca
Tác giả: Bạch Cư Dị

漢皇重色思傾國,
御宇多年求不得。
楊家有女初長成,
養在深閨人未識。
天生麗質難自棄,
一朝選在君王側。
回眸一笑百媚生,
六宮粉黛無顏色。
春寒賜浴華清池,
溫泉水滑洗凝脂。
侍兒扶起嬌無力,
始是新承恩澤時。
雲鬢花顏金步搖,
芙蓉帳暖度春宵。
春宵苦短日高起,
從此君王不早朝。
承歡侍宴無閑暇,
春從春遊夜專夜。
後宮佳麗三千人,
三千寵愛在一身。
金星妝成嬌侍夜,
玉樓宴罷醉和春。
姊妹弟兄皆列士,
可憐光彩生門戶。
遂令天下父母心,
不重生男重生女。
驪宮高處入青雲,
仙樂風飄處處聞。
緩歌慢舞凝絲竹,
盡日君王看不足。
漁陽鼙鼓動地來,
驚破霓裳羽衣曲。
九重城闕煙塵生,
千乘萬騎西南行。
翠華搖搖行復止,
西出都門百餘里。
六軍不發無奈何,
宛轉蛾眉馬前死。
花鈿委地無人收,
翠翹金雀玉搔頭。
君王掩面救不得,
回看血淚相和流。
黃埃散漫風蕭索,
雲棧縈紆登劍閣。
峨嵋山下少人行,
旌旗無光日色薄。
蜀江水碧蜀山青,
聖主朝朝暮暮情。
行宮見月傷心色,
夜雨聞鈴腸斷聲。
天旋地轉迴龍馭,
到此躊躇不能去。
馬嵬坡下泥土中,
不見玉顏空死處。
君臣相顧盡霑衣,
東望都門信馬歸。
歸來池苑皆依舊,
太液芙蓉未央柳。
芙蓉如面柳如眉,
對此如何不淚垂。
春風桃李花開日,
秋雨梧桐葉落時。
西宮南內多秋草,
落葉滿階紅不掃。
梨園子弟白髮新,
椒房阿監青娥老。
夕殿螢飛思悄然,
孤燈挑盡未成眠。
遲遲鐘鼓初長夜,
耿耿星河欲曙天。
鴛鴦瓦冷霜華重,
翡翠衾寒誰與共。
悠悠生死別經年,
魂魄不曾來入夢。
臨邛道士鴻都客,
能以精誠致魂魄。
為感君王輾轉思,
遂教方士殷勤覓。
排空馭氣奔如電,
升天入地求之遍。
上窮碧落下黃泉,
兩處茫茫皆不見。
忽聞海上有仙山,
山在虛無縹緲間。
樓閣玲瓏五雲起,
其中綽約多仙子。
中有一人字太真,
雪膚花貌參差是。
金闕西廂叩玉扃,
轉教小玉報雙成。
聞道漢家天子使,
九華帳裡夢魂驚。
攬衣推枕起徘徊,
珠箔銀屏迤邐開。
雲鬢半偏新睡覺,
花冠不整下堂來。
風吹仙袂飄飄舉,
猶似霓裳羽衣舞。
玉容寂寞淚闌干,
梨花一枝春帶雨。
含情凝睇謝君王,
一別音容兩渺茫。
昭陽殿裡恩愛絕,
蓬萊宮中日月長。
回頭下望人寰處,
不見長安見塵霧。
唯將舊物表深情,
鈿合金釵寄將去。
釵留一股合一扇,
釵擘黃金合分鈿。
但教心似金鈿堅,
天上人間會相見。
臨別殷勤重寄詞,
詞中有誓兩心知。
七月七日長生殿,
夜半無人私語時。
在天願作比翼鳥,
在地願為連理枝。
天長地久有時盡,
此恨綿綿無絕期。

Phiên âm:

Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc,
Ngự vũ đa niên cầu bất đắc.
Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành,
Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức.
Thiên sinh lệ chất nan tự khí,
Nhất triêu tuyển tại quân vương trắc.
Hồi mâu nhất tiếu bách mị sinh,
Lục cung phấn đại vô nhan sắc.
Xuân hàn tứ dục Hoa Thanh trì,
Ôn tuyền thuỷ hoạt tẩy ngưng chi.
Thị nhi phù khởi kiều vô lực,
Thuỷ thị tân thừa ân trạch thì.
Vân mấn hoa nhan kim bộ dao,
Phù dung trướng noãn độ xuân tiêu.
Xuân tiêu khổ đoản nhật cao khởi,
Tòng thử quân vương bất tảo triều.
Thừa hoan thị yến vô nhàn hạ,
Xuân tòng xuân du dạ chuyển dạ.
Hậu cung giai lệ tam thiên nhân,
Tam thiên sủng ái tại nhất nhân.
Kim ốc trang thành kiều thị dạ,
Ngọc lâu yến bãi tuý hoà xuân.
Tỷ muội huynh đệ giai liệt thổ,
Khả liên quang thái sinh môn hộ.
Toại linh thiên hạ phụ mẫu tâm,
Bất trọng sinh nam trọng sinh nữ.
Ly cung cao xứ nhập thanh vân,
Tiên nhạc phong phiêu xứ xứ văn.
Hoãn ca mạn vũ ngưng ty trúc,
Tận nhật quân vương khan bất túc.
Ngư Dương bề cổ động địa lai,
Kinh phá “Nghê thường vũ y” khúc.
Cửu trùng thành khuyết yên trần sinh,
Thiên thặng vạn kỵ tây nam hành.
Thuý hoa dao dao hành phục chỉ,
Tây xuất đô môn bách dư lý.
Lục quân bất phát vô nại hà,
Uyển chuyển nga mi mã tiền tử.
Hoa điền uỷ địa vô nhân thu,
Thuý kiều, kim tước, ngọc tao đầu.
Quân vương yểm diện cứu bất đắc,
Hồi khan huyết lệ tương hoà lưu.
Hoàng ai tản mạn phong tiêu tác,
Vân sạn oanh vu đăng Kiếm Các.
Nga My sơn hạ thiểu nhân hành,
Tinh kỳ vô quang nhật sắc bạc.
Thục giang thuỷ bích, Thục sơn thanh,
Thánh chủ triêu triêu mộ mộ tình.
Hành cung kiến nguyệt thương tâm sắc,
Dạ vũ văn linh trường đoạn thanh.
Thiên tuyền địa chuyển hồi long ngự,
Đáo thử trừ trừ bất nhẫn khứ.
Mã Ngôi pha hạ nê thổ trung,
Bất kiến ngọc nhan không tử xứ.
Quân thần tương cố tận triêm y,
Đông vọng đô môn tín mã quy.
Quy lai trì uyển giai y cựu,
Thái Dịch phù dung, Vị Ương liễu;
Phù dung như diện liễu như mi,
Đối thử như hà bất lệ thuỳ.
Xuân phong đào lý hoa khai nhật,
Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì.
Tây Cung, Nam Nội đa thu thảo,
Lạc diệp mãn giai hồng bất tảo.
Lê Viên đệ tử bạch phát tân,
Tiêu phòng a giám thanh nga lão.
Tịch điện huỳnh phi tứ tiễu nhiên,
Cô đăng khiêu tận vị thành miên.
Trì trì chung cổ sơ trường dạ,
Cảnh cảnh tinh hà dục thự thiên.
Uyên ương ngoã lãnh sương hoa trọng,
Phỉ thuỷ khâm hàn thuỳ dữ cộng.
Du du sinh tử biệt kinh niên,
Hồn phách bất tằng lai nhập mộng.
Lâm Cùng đạo sĩ Hồng Đô khách,
Năng dĩ tinh thành trí hồn phách.
Vị cảm quân vương triển chuyển tư,
Toại giao phương sĩ ân cần mịch.
Bài không ngự khí bôn như điện,
Thăng thiên nhập địa cầu chi biến.
Thượng cùng bích lạc, hạ hoàng tuyền,
Lưỡng xứ mang mang giai bất kiến.
Hốt văn hải thượng hữu tiên sơn,
Sơn tại hư vô phiếu diểu gian.
Lâu các linh lung ngũ vân khởi,
Kỳ trung xước ước đa tiên tử.
Trung hữu nhất nhân tự Thái Chân,
Tuyết phu hoa mạo sâm si thị.
Kim khuyết tây sương khấu ngọc quynh,
Chuyển giao Tiểu Ngọc, báo Song Thành.
Văn đạo Hán gia thiên tử sứ,
Cửu hoa trướng lý mộng hồn kinh.
Lãm y thôi chẩm khởi bồi hồi,
Châu bạc ngân bình di lý khai.
Vân kết bán thiên tân thuỵ giác,
Hoa quan bất chỉnh há đường lai.
Phong xuy tiên duệ phiêu phiêu cử,
Do tự “Nghê thường vũ y” vũ.
Ngọc dung tịch mịch lệ lan can,
Lê hoa nhất chi xuân đới vũ.
Hàm tình ngưng thế tạ quân vương,
Nhất biệt âm dung lưỡng diểu mang!
Chiêu Dương điện lý ân ái tuyệt,
Bồng Lai cung trung nhật nguyệt trường.
Hồi đầu hạ vọng nhân hoàn xứ,
Bất kiến Trường An kiến trần vụ.
Duy tương cựu vật biểu thâm tình,
Điến hạp kim hoa ký tương khứ.
Thoa lưu nhất cổ, hạp nhất phiến,
Thoa phách hoàng kim hạp phân điến.
Đãn giao tâm tự kim điến kiên,
Thiên thượng nhân gian hội tương kiến.
Lâm biệt ân cần trung ký từ,
Từ trung hữu thệ lưỡng tâm tri:
Thất nguyệt thất nhật Trường Sinh điện,
Dạ bán vô nhân tư ngữ thì.
“Tại thiên nguyệt tác tỷ dực điểu,
Tại địa nguyện vi liên lý chi.”
Thiên trường địa cửu hữu thì tận,
Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ.

Dịch thơ:

Đức vua Hán mến người khuynh quốc
Trải bao năm tìm chuốc công tai
Nhà Dương có gái mới choai
Buồn xuân khoá kín chưa ai bạn cùng
Lạ gì của tuyết đông ngọc đúc
Chốn ngai vàng phút chốc ngồi bên
Một cười trăm vẻ thiên nhiên
Sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son
Trời xuân lạnh suối tuôn mạch ấm
Da mỡ đông kỳ tắm ao Hoa
Vua yêu bận ấy mới là
Con hầu nâng dậy coi đà mệt thay
Vàng nhẹ bước lung lay tóc mái
Màn phù dung êm ái đêm xuân
Đêm xuân vắn vủn có ngần
Ngai rồng từ đấy chậm phần vua ra
Suốt ngày tháng tiệc hoa vui mãi
Đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm
Ba nghìn xinh đẹp chị em
Ba nghìn yêu quí chất nêm một mình
Nhà vàng đúc, đêm thanh ấm áp
Lầu ngọc cao, say ắp mầu xuân
Anh em sướng đủ mọi phần
Mà cho thiên hạ có lần rẻ trai
Vẳng tiên nhạc khắp nơi nghe biết
Làn gió đưa cao tít Ly cung
Suốt ngày múa hát thung dung
Tiếng tơ, tiếng trúc say lòng quân vương
Ầm tiếng trống Ngư Dương kéo đến
Khúc Nghê Thường tan biến như không
Chín lần thành khuyết bị tung
Nghìn xe, muôn ngựa qua vùng Tây Nam
Đi lại đứng hơn trăm dậm đất
Cờ thuý hoa bóng phất lung lay
Sáu quân rúng rắng làm rầy
Mày ngài trước ngựa lúc này thương ôi!
Ai người nhặt thoa rơi bỏ đất
Ôi! Thuý Kiều ngọc nát vàng phai
Quân vương bưng mặt cho rồi
Quay đầu trông lại, máu trôi lệ dàn
Gió tung bụi mê man tản mác
Đường thang mây Kiếm Các lần đi
Vắng tanh, dưới núi Nga My
Mặt trời nhạt thếch, tinh kỳ buồn tênh
Đát Ba Thục non xanh nước biếc
Lòng vua cha thương tiếc hôm mai
Thấy trăng luống những đau người
Đêm mưa đứt ruột, canh dài tiếng chuông
Phút trời đất quay cuồng vận số
Bánh xe rồng đến chỗ ngày xưa
Đất bùn chỗ chết còn trơ
Thấy đâu mặt ngọc! Bây giờ Mã Ngôi!
Đầm vạt áo, vua tôi giọt lệ
Gióng dây cương, ngựa tế về đông
Cảnh xua dương liễu, phù dung
Vị Ương, Thái Dịch hồ cung vẹn mười
Phù dung đó, mặt ai đâu tá?
Mày liễu đâu? Cho lá còn như
Càng trông hoa liễu năm xưa
Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm
Xuân đào lý gió đêm huê nở
Thu khi mưa rụng lá ngô đồng
Kìa Nam Uyển, nọ Tây Cung
Đầy thềm ai quét lá hồng thu rơi?
Vườn lê cũ những ai con hát?
Mái tóc coi trắng phớt lạ lùng
Những ai coi giữ tiêu phòng?
Mày xanh thuở ấy nay cùng già nhăn
Trước cung điện nhìn sân đêm tối
Đom đóm bay gợi mối u sầu
Ngọn đền khêu đã cạn dầu
Khó thay, giấc ngủ dễ hầu ngủ xong!
Tiếng canh tối tùng tùng điểm trống
Năm canh dài chẳng giống đêm xưa
Sông Ngân lấp lánh sao thưa
Trời như muốn sáng, sao chưa sáng trời?
Tren mái ngói sương rơi ướt lạnh
Trong chăn nằm bên cạnh nào ai?
Cách năm sống thác đôi nơi
Thấy đâu hồn phách vãng lai giấc nồng?
Khách đạo sĩ Lâm Cùng có gã
Chơi Hồng Đô phép lạ thần thông
Xót vì vua chúa nhớ nhung
Mới sai phương sĩ hết lòng ra tay
Cưỡi luồng gió như bay như biến
Tren trời xanh, dưới đến đất đen
Hai nơi bích lạc, hoàng tuyền
Dưới tren tìm khắp mơ huyền thấy chi!
Sực nghe nói tìm đi mé bể,
Có non tiên ngoài phía hư không
Rỡ ràng cugn điện linh lung
Xa trông năm sắc mây lồng đẹp sao!
Trong tha thướt biết bao tiên tử
Một nàng tiên tên chữ Ngọc Chân
Mặt hoa da tuyết trắng ngần
Dáng như người ấy có phần phải chăng?
Mái tây gõ cửa vàng then ngọc
Cậy đưa tin Tiểu Ngọc, Song Thành
Nghe tin sứ giả Hán Đình
Cửa hoa trong trướng giật mình giấc mơ
Cầm áo dậy, thẩn thơ buồn bực,
Mở rèm châu, bình bạc lần ra
Bâng khuâng nửa mái mây tà
Thềm cao xuống chiếc mũ hoa lệch đầu
Phớt tay áo bay màu ngọn gió
Giống Nghê Thường khúc múa năm xưa
Lệ dàn mặt ngọc lưa thưa
Cành lê hoa trĩu hạt mưa xuân đầm
Ngừng nước mắt âm thầm buồn bã
Đội ơn lòng, xin tạ quân vương
Từ ngày cách trở đôi phương
Vắng tanh tăm tiếng, mơ màng hình dong
Nơi đế điện dứt vòng ân ái
Chốn tiên cugn thư thái hàng ngày
Cõi trần ngoảnh lại mà hay
Tràng An chẳng thấy, thấy đầy bụi nhơ!
Lấy chi tỏ tình xưa thăm thú?
Gửi cành hoa vật cũ cầm xuôi
Thoa vàng hộp khảm phân đôi
Nửa xin để lại nửa thời đem đi
Chỉ xin nguyện lòng ghi dạ tạc
Tựa hoa vàng bền chắc không phai
Thời cho cách trở đôi nơi
Nhân gian rồi với trên trời gặp nhau
Ân cần dặn mấy câu lâm biệt
Lời thề xưa lòng biết với lòng
Là đêm trùng thất ngồi chung
Trường Sinh sẵn điện vắng không bóng người
Xin kết nguyện chim trời liền cánh
Xin làm cây cành nhánh liền nhau
Thấm chi trời đất dài lâu
Giận này dặc dặc dễ hầu có nguôi…

Tĩnh Dạ Tứ
Tác giả: Lý Bạch

Tiếng Hán:

靜夜思

床前明月光,
疑是地上霜。
舉頭望明月,
低頭思故鄉。

Phiên âm:

Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.

Dịch thơ:

Ánh trăng chiếu sáng đầu giường
Ngỡ là mặt đất phủ sương móc dày
Ngẩng đầu ngắm ánh trăng đầy
Cúi đầu bỗng nhớ những ngày cố hương.

Hoàng Hạc Lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên Chi Quảng Lăng
Tác giả: Lý Bạch

Tiếng Hán:

黃鶴樓送孟浩然之廣陵

故人西辭黃鶴樓,
煙花三月下揚州。
孤帆遠影碧空盡,
惟見長江天際流。

Phiên âm:

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

Dịch thơ:

Bạn cũ dời chân Hoàng Hạc lâu
Tháng ba hoa khói xuống Dương Châu
Bóng buồm chìm lẫn trong trời biếc
Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy mau

Đối Tửu
Tác giả: Lý Bạch

Tiếng Hán:

對酒

蒲萄酒,
金叵羅,
吳姬十五細馬馱。
青黛畫眉紅錦靴,
道字不正嬌唱歌。
玳瑁筵中懷裏醉,
芙蓉帳底奈君何。

Phiên âm:

Bồ đào tửu,
Kim phả la,
Ngô cơ thập ngũ tế mã đà.
Thanh đại hoạ mi hồng cẩm ngoa,
Đạo tự bất chính kiều xướng ca.
Đại mội diên trung hoài lý tuý,
Phù dung trướng để nại quân hà.

Dịch thơ:

Rượu nho uống với chén vàng
Gái Ngô ngựa nhỏ tuổi chừng mười lăm
Mày xanh giày ủng gấm hồng
Giọng tuy chưa chuẩn thanh âm nhẹ nhàng
Tiệc đang dở bỗng say ngang
Trướng hoa bất tỉnh cô nàng cười chăng?

Hoạ Ưng
Tác giả: Đỗ Phủ

畫鷹

素練風霜起,
蒼鷹畫作殊,
攫身思狡兔,
徹目似愁胡。
絛鏇光堪摘,
軒楹勢可呼,
何當擊凡鳥,
毛血灑平蕪。

Phiên âm:

Tố luyện phong sương khởi,
Thương ưng hoạ tác thù.
Song thân tư giảo thố,
Trắc mục tự sầu Hồ.
Điều tuyền quang kham trích,
Hiên doanh thế khả hô.
Hà đương kích phàm điểu,
Mao huyết sái bình vu.

Dịch thơ:

Ưng xanh ai khéo vẽ vời?
Nổi trên lụa trắng, một trời gió sương.
Gườm gườm đôi mắt liếc ngang,
Nghiêng nghiêng mình né như đương rình mồi.
Dây xinh, vòng sáng hẳn hoi,
Gọi thường bay xuống hiên ngoài cũng nên!
Bao giờ đánh bọn chim hèn:
Máu, lông tung rắc giữa miền đồng hoang?

Ngoài Thơ Cổ Phong, Chia sẻ thêm 🌹Thơ Đường Trung Quốc🌹 35+ Bài Thơ Tiếng Trung Hay Nhất

Tuyển Tập Thơ Cổ Phong Việt Nam Ngắn Hay

Nếu bạn đang tìm tuyển tập thơ cổ phong Việt Nam ngắn hay thì có thể tham khảo các gợi ý sau:

Dế ruổi bên đèn
Tác giả: Tú Quỳ

Kiến chẳng phải kiến, voi chẳng voi,
Trời sinh dế duổi cũng choi choi.
Ngắn cánh lên trời bay chẳng thấu,
Co tay vạch đất cũng khoe tài.
Mưa sa nước chảy lên cao ở,
Lửa đỏ dầu sôi nhảy tới chơi.
Quân tử có thương xin chớ phụ,
Lăm lăm bay nhảy để mà coi.

Bài xướng
Tác giả: Hạng Võ

Lực bạt sơn hề khí cái thế
Thời bất lợi hề truy bất thệ
Truy bất thệ hề khả nại hà
Ngu hề Ngu hề nại nhược hà

Bài họa không tên
Tác giả: Ngu Cơ

Hán binh dĩ lược địa
Tứ diện Sở ca thanh
Đại vương ý chí tận
Tiện thiếp hà liêu sinh

Khen Trần Bình Trọng
Tác giả: Phan Kế Bính

Giỏi thay Trần Bình Trọng!
Dòng dõi Lê Đại Hành.
Đánh giặc dư tài mạnh,
Thờ vua một tiết trung.
Bắc vương sống mà nhục,
Nam quỷ thác cũng vinh.
Cứng cỏi lòng trung nghĩa.
Ngàn thu tỏ đại danh.

Thơ Cổ Phong Về Tình Yêu Cảm Xúc

Sưu tầm một số bài thơ cổ phong về tình yêu cảm xúc nhất gửi tặng bạn đọc thân thiết của Thohay.vn.

Oán Tình
Tác giả: Lý Bạch

怨情

美人捲珠簾,
深坐顰蛾眉。
但見淚痕濕,
不知心恨誰。

Phiên âm:

Mỹ nhân quyển châu liêm,
Thâm toạ tần nga my.
Đãn kiến lệ ngân thấp,
Bất tri tâm hận thuỳ.

Dịch thơ:

Người đẹp cuốn bức rèm châu
Mày ngài lặng lẽ khẽ chau mơ màng.
Bỗng nhìn lệ ướt hai hàng
Làm sao biết được là nàng giận ai!

Thu Phong Từ
Tác giả: Lý Bạch

秋風詞
秋風清,
秋月明。
落葉聚還散,
寒鴉棲復驚。
相思相見知何日,
此時此夜難為情。

Phiên âm:

Thu phong thanh,
Thu nguyệt minh.
Lạc diệp tụ hoàn tán,
Hàn nha thê phục kinh.
Tương tư, tương kiến tri hà nhật?
Thử thì, thử dạ nan vi tình…

Dịch thơ:

Gió thu lành
Trăng thu thanh
Lá rơi tụ lại tán
Quạ lạnh chợt rùng mình
Thương nhớ, biết bao giờ mới gặp?
Lúc này đêm ấy ngẩn ngơ tình…

Khúc ngâm đầu bạc
Tác giả: Trác Văn Quân

白頭吟
皚如山上雪,
皎若雲間月。
聞君有兩意,
故來相決絕。
今日斗酒會,
明旦溝水頭。
躞蹀御溝上,
溝水東西流。

淒淒復淒淒,
嫁娶不須啼。
願得一心人,
白頭不相離。
竹竿何嫋嫋,
魚尾何簁簁。
男兒重意氣,
何用錢刀為。

Phiên âm:

Ngai như sơn thượng tuyết,
Kiểu nhược vân gian nguyệt.
Văn quân hữu lưỡng ý,
Cố lai tương quyết tuyệt.
Kim nhật đấu tửu hội,
Minh đán câu thuỷ đầu.
Tiệp điệp ngự câu thượng,
Câu thuỷ đông tây lưu.

Thê thê phục thê thê,
Giá thú bất tu đề.
Nguyện đắc nhất tâm nhân,
Bạch đầu bất tương ly.
Trúc can hà niệu niệu,
Ngư vĩ hà si si.
Nam nhi trọng ý khí,
Hà dụng tiền đao vi.

Dịch thơ:

Trắng như tuyết trên núi,
Sáng tựa trăng giữa mây.
Nghe lòng chàng hai ý,
Thiếp đành đoạn tình này.
Hôm nay chén sum họp,
Đầu sông tiễn sớm mai.
Lững thững theo dòng nước,
Nước mãi chảy đông tây.

Buồn đau lại buồn đau,
Vợ chồng chẳng nên than.
Mong người lòng chỉ một,
Bạc đầu chẳng xa nhau.
Chiếc cần sao lay động,
Đuôi cá sao cong cong.
Nam nhi trọng ý khí,
Sao tiền bạc thay lòng.

Kim Hương Tống Vi Bát Chi Tây Kinh
Tác giả: Lý Bạch

金鄉送韋八之西京

客自長安來,
還歸長安去。
狂風吹我心,
西挂咸陽樹。
此情不可道,
此別何時遇。
望望不見君,
連山起煙霧。

Phiên âm:

Khách tự Trường An lai,
Hoàn quy Trường An khứ.
Cuồng phong xuy ngã tâm,
Tây quải Hàm Dương thụ.
Thử tình bất khả đạo,
Thử biệt hà thời ngộ.
Vọng vọng bất kiến quân,
Liên sơn khởi yên vụ.

Dịch thơ:

Từ Trường An khách đến
Nhắm Trường An khách về
Lòng tôi như gió bão
Hàm Dương cây phủ che
Xa nhau gặp lại không
Tình ấy để trong lòng
Ngóng theo người chẳng thấy
Sương núi phủ mênh mông.

Việt Nữ Từ Kỳ 4
Tác giả: Lý Bạch

越女詞其四

東陽素足女,
會稽素舸郎。
相看月未墮,
白地斷肝腸。

Phiên âm:

Đông Dương tố túc nữ,
Cối Kê tố khả lang.
Tương khan nguyệt vị đoạ,
Bạch địa đoạn can tràng (trường).

Dịch thơ:

Nõn nà chân gái Đông Dương,
Kìa trên thuyền đẹp có chàng Cối Kê.
Nhìn nhau trăng hãy chưa đi,
Ánh soi trắng đất tái tê dạ người.

Cửu Biệt Ly
Tác giả: Lý Bạch

久別離

別來幾春未還家,
玉窗五見櫻桃花。
況有錦字書,
開緘使人嗟。
至此腸斷彼心絕,
雲鬟綠鬢罷梳結,
愁如回飆亂白雪。
去年寄書報陽臺,
今年寄書重相催。
東風兮東風,
爲我吹行雲使西來,
待來竟不來,
落花寂寂委蒼苔。

Phiên âm:

Biệt lai kỷ xuân vị hoàn gia,
Ngọc song ngũ kiến anh đào hoa.
Huống hữu cẩm tự thư,
Khai giam sử nhân ta.
Chí thử trường đoạn bỉ tâm tuyệt,
Vân hoàn lục mấn bãi sơ kết,
Sầu như hồi phiêu loạn bạch tuyết.
Khứ niên ký thư báo Dương Đài,
Kim niên ký thư trùng tương thôi.
Đông phong hề đông phong
Vị ngã xuy hành vân sử tây lai
Đãi lai cánh bất lai!
Lạc hoa tịch tịch uỷ thương đài.

Dịch thơ:

Mấy xuân xa cách chửa về nhà
Năm lần cửa ngọc thấy đào hoa
Huống còn thư chữ gấm
Mở xem dạ xót xa…
Quặn lòng đứt ruột đau khôn xiết
Tóc mây biếng chải, mai thôi kết
Sầu tựa gió về tung bạch tuyết
Năm trước được thư nhắn Dương Đài
Năm nay đưa thư giục giã hoài…
Gió đông chừ gió đông!
Hãy thổi mây bay về tây cho ai…
Hẹn về sao cứ sai ?
Hoa rơi lặng lẽ lớp rêu phai…

Khuê Tình
Tác giả: Lý Bạch

閨情

流水去絕國,
浮雲辭故關。
水或戀前浦,
雲猶歸舊山。
恨君流沙去,
棄妾漁陽間。
玉箸夜垂流,
雙雙落朱顏。
黃鳥坐相悲,
綠楊誰更攀。
織錦心草草,
挑燈淚斑斑。
窺鏡不自識,
況乃狂夫還。

Phiên âm:

Lưu thuỷ khứ tuyệt quốc,
Phù vân từ cố quan.
Thuỷ hoặc luyến tiền phố,
Vân do quy cựu san.
Hận quân Lưu Sa khứ
Khí thiếp Ngư Dương gian.
Ngọc trợ dạ thuỳ lưu,
Song song lạc châu nhan.
Hoàng điểu toạ tương bi.
Lục dương thuỳ cánh phan?
Chức cẩm tâm thảo thảo,
Khiêu đăng lệ ban ban.
Khuy kính bất tự thức,
Huống nãi cuồng phu hoàn.

Dịch thơ:

Nước trôi hút tận biên thuỳ
Mây bay từ tạ chuỗi ngày ải xưa
Nước còn lưu luyến bến bờ
Mây rồi có lúc lững lơ núi nhà
Hận chàng đến bãi Lưu Sa
Nở lòng bỏ thiếp lạc bờ Ngư Dương
Đêm đêm mộng nhớ thương chàng
Châu sa đũa ngọc, má hồng phôi phai
Cùng hoàng oanh, nổi u hoài
Nay ai vin cánh liễu ngời biếc xanh?
Dệt hoa gấm, xót khuê tình
Đèn khuya hiu hắt lunh linh giọt sầu
Khuê phòng đối ảnh mà đau
Chàng về có lẻ nhìn nhau giụa giàn…

Sưu tầm chùm🌷 Thơ Trung Quốc Về Tình Yêu 🌷Bên Cạnh Chùm Thơ Cổ Phong

Những Câu Thơ Cổ Phong Hay

Cùng điểm qua những câu thơ cổ phong hay, ngắn gọn vừa được sưu tầm mới nhất.

Bốc Toán Tử
Tác giả: Lý Chi Nghi

卜算子
我住长江头,
君住长江尾。
日日思君不见君,
共饮长江水。
此水几时休?
我恨何时已?
只愿君心似我心,
定不负相思意。

Phiên âm:

Ngã trú Trường Giang đầu,
Quân trú Trường Giang vĩ.
Nhật nhật tư quân bất kiến quân,
Cộng ẩm Trường Giang thủy.
Thử thủy kỷ thời hưu?
Thử hận hà thời dĩ?
Chỉ nguyện quân tâm tự ngã tâm,
Định bất phụ tương tư ý.

Dịch thơ:

Nhà thiếp ở đầu sông,
Nhà chàng ở phía cuối.
Dòng nước Trường Giang cùng uống chung,
Vắng chàng mong sớm tối.
Nược nọ mấy khi ngừng,
Hận này bao thuở vơi.
Những mong ý thiếp giống lòng chàng,
Mối tình quyết không thay đổi.

Biện Giả
Tác giả: Nguyễn Du

辯賈

不涉湖南道,
安知湘水深。
不讀懷沙賦,
安識屈原心。
屈原心湘江水,
千秋萬秋清見底。
古今安得同心人,
賈生一賦徒為耳。
烈女從來不二夫,
何得栖栖相九州。
未必古人知有我,
眼中湘水空悠悠。

Phiên âm:

Bất thiệp Hồ Nam đạo,
An tri Tương Thuỷ thâm?
Bất độc Hoài sa phú
An thức Khuất Nguyên tâm?
Khuất Nguyên tâm, Tương giang thuỷ,
Thiên thu vạn thu thanh kiến để.
Cổ kim an đắc đồng tâm nhân,
Giả sinh nhất phú đồ vi nhĩ.
Liệt nữ tòng lai bất nhị phu,
Hà đắc thê thê “tướng cửu châu”.
Vị tất cổ nhân tri hữu ngã,
Nhãn trung Tương Thuỷ, không du du!

Dịch thơ:

Hồ Nam chưa đi tới
Sao biết sông Tương sâu
Phú Hoài Sa chưa đọc
Lòng Khuất Nguyên biết đâu.
Khuất Nguyên đau, sông Tương chảy
Trong vắt muôn đời nhìn thấy đáy
Mấy ai có được bạn đồng tâm
Bài phú Giả sinh vô nghĩa ấy!
Liệt nữ xưa nay chỉ một chồng
Chín châu hà tất kiếm long đong
Có ta chưa hẳn người xưa biết
Lờ lững sông Tương trong mắt trong.

Ngẫu Thư Công Quán Bích
Tác giả: Nguyễn Du

偶書公館壁

朝餐一盂飯,
暮浴一盆水。
閉門謝知交,
開窗見荊杞。
窗外荊杞蔓且長,
美人悠悠隔高牆。
杜宇一聲春去矣,
魂兮歸來悲故鄉。

Phiên âm:

Triêu xan nhất vu phạn,
Mộ dục nhất bồn thuỷ.
Bế môn tạ tri giao,
Khai song kiến kinh kỷ.
Song ngoại kinh kỷ mạn thả trường,
Mĩ nhân du du cách cao tường.
Đỗ vũ nhất thanh xuân khứ hĩ,
Hồn hề quy lai bi cố hương.

Dịch thơ:

Sớm ăn một bát cơm
Chiều tắm một bồn nước
Đóng cửa tạ người quen
Hé song thấy gai góc
Gai góc ngoài song mọc ngổn ngang
Mỹ nhân vòi vọi cách cao tường
Cuốc kêu một tiếng xuân đi mất
Hồn hỡi! Về đi… thương cố hương

Độc Tiểu Thanh Ký
Tác giả: Nguyễn Du

讀小青記

西湖花苑盡成墟,
獨吊窗前一紙書。
脂粉有神憐死後,
文章無命累焚餘。
古今恨事天難問,
風韻奇冤我自居。
不知三百餘年後,
天下何人泣素如。

Phiên âm:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Dịch thơ:

Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Há Than Hỷ Phú
Tác giả: Nguyễn Du

下灘喜賦

心香拜禱將軍祠,
一掉中流肆所之。
到處江山如識趣,
喜人蛇虎不施威。
萬株松樹僧人屋,
一帶寒煙燕子磯。
寂寂船窗無箇事,
漁歌江上看斜暉。

Phiên âm:

Tâm hương bái đảo tướng quân tỳ (từ),
Nhất trạo trung lưu tứ sở chi.
Ðáo xứ giang sơn như thức thú,
Hỷ nhân xà hổ bất thi uy.
Vạn châu tùng thụ tăng nhân ốc,
Nhất đới hàn yên Yến Tử ky (cơ).
Tịch tịch thuyền song vô cá sự,
Ngư ca giang thượng khán tà huy.

Dịch thơ:

Thành khẩn dâng hương vái trước đền
Một thuyền theo nước cứ lênh đênh
Mừng người rắn cọp không làm dữ
Thích cảnh non sông như đã quen
Muôn cụm tùng xanh sư trú ngụ
Một Hòn Én lạnh khói dâng lên
Bên song lặng lẽ không gì bận
Nghe khúc chài ca, ngó nắng nghiêng.

Dạ Tranh
Tác giả: Bạch Cư Dị

Tiếng Hán:

夜箏

紫袖紅弦明月中,
自彈自感闇低容。
弦凝指咽聲停處,
別有深情一萬重。

Phiên âm:

Tử tụ hồng huyền minh nguyệt trung,
Tự đàn tự cảm ám đê dung.
Huyền ngưng chỉ yết thanh đình xứ,
Biệt hữu thâm tình nhất vạn trùng.

Dịch thơ:

Áo tía dây hồng dưới bóng trăng,
Tự đàn tự cảm thẹn nghi dung.
Dây ngừng ngón nghẹn cùng âm dứt,
Ly biệt tình sâu tới vạn trùng.

Ngọc Giai Oán
Tác giả: Lý Bạch

玉階怨

玉階生白露,
夜久侵羅襪。
欲下水晶簾,
玲瓏望秋月。

Phiên âm:

Ngọc giai sinh bạch lộ
Dạ cửu xâm la miệt
Dục hạ thuỷ tinh liêm
Linh lung vọng thu nguyệt

Dịch thơ:

Sương trắng phơi trên thềm
Đêm khuya lan dép lụa
Toan rủ bức rèm thưa
Ngắm trăng thu sáng tỏ

Ô Thê Khúc
Tác giả: Lý Bạch

烏棲曲

姑蘇台上烏棲時,
吳王宮裡醉西施。
吳歌楚舞歡未畢,
青山欲含半邊日。
銀箭金壺漏水多,
起看秋月墜江波,
東方漸高奈樂何。

Phiên âm:

Cô Tô đài thượng ô thê thì,
Ngô vương cung lý tuý Tây Thi.
Ngô ca Sở vũ hoan vị tất,
Thanh sơn dục hàm bán biên nhật.
Ngân tiễn kim hồ lậu thuỷ đa,
Khởi khan thu nguyệt truỵ giang ba,
Đông phương tiệm cao nại lạc hà.

Dịch thơ:

Khi đàn quạ đậu mái Cô Tô
Vua với Tây Thi ở điện Ngô
Múa Sở, ca Ngô vui chửa tắt
Mặt trời ngậm nửa non xanh ngắt
Bình vàng tên bạc nước dần hao
Trông ánh trăng thu toả sóng xao
Bóng nắng cao rồi, vui mãi sao ?

Ông đồ
Tác giả: Vũ Đình Liên

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài:
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”

Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?

Thơ Tình Cổ Đại Thi Vị

Thưởng thức những áng thơ tình cổ đại thi vị, cảm nhận sâu sắc những nét độc đáo trong thơ ca cổ đại.

Tương Tư Khúc
Tác giả: Đới Thúc Luân

作者:戴叔伦 – 唐。
高楼重重闭明月,
肠断仙郎隔年别。
紫萧横笛寂无声,
独向瑶窗坐愁绝。
鱼沉雁杳天涯路,
始信人间别离苦。
恨满牙床翡翠衾,
怨折金钗凤凰股。
井深辘轳嗟绠短,
衣带相思日应缓。
将刀斫水水复连,
挥刃割情情不断。
落红乱逐东流水,
一点芳心为君死。
妾身愿作巫山云,
飞入仙郎梦魂里。

Phiên âm:

Cao lâu trùng trùng bế minh nguyệt,
Trường đoạn tiên lang cách niên biệt.
Tử tiêu hoành địch tịch vô thanh,
Độc hướng dao song toạ sầu tuyệt.
Ngư trầm nhạn diểu thiên nhai lộ,
Thuỷ tín nhân gian biệt ly khổ.
Hận mãn nha sàng phí thuý khâm,
Oán chiết kim thoa phụng hoàng cổ.
Tỉnh thâm lộc lư ta cảnh đoản,
Y đới tương tư nhật ưng hoãn.
Tương đao phá thuỷ thuỷ phục liên,
Huy nhẫn cát tình tình bất đoạn.
Lạc hồng loạn trục đông lưu thuỷ,
Nhất điểm phương tâm vị quân tử.
Thiếp thân nguyện tác Vu Sơn vân,
Phi nhập tiên lang mộng hồn lý.

Dịch thơ:

Mảnh trăng thanh lầu cao che khuất
Lòng đau vì xa cách nhiều năm
Tiếng tiêu điệu sáo lặng im
Một mình buồn bã ngóng nhìn phương xa
Bên chân trời chim bay cá lặn
Mòn mõi vì âm tín không về
Chiếu chăn hờn oán não nề
Kim thoa bẻ gãy lời thề còn đâu
Giếng nước sâu mà giây thì ngắn
Xiêm y buồn người chẳng điểm trang
Dùng dao chém nước nước liền
Kéo kia cắt đứt mối tình được không?
Theo dòng nước loạn hồng trôi mãi
Tấm tình em một phiến vì chàng
Xin làm mây núi Vu Sơn
Nhập sâu vào cõi mộng hồn người thương.

Tương Tư
Tác giả: Vương Duy

作者 – 王维 – 唐
红豆生南国,
春来发几枝?
愿君多采撷,
此物最相思!

Phiên âm:

Hồng đậu sinh nam quốc,
Xuân lai phát kỷ chi.
Nguyện quân đa thái hiệt,
Thử vật tối tương tư.

Dịch nghĩa:

Nước nam sinh đậu đỏ,
Xuân về nở cành xinh.
Chàng ơi hái nhiều nhé,
Nhớ nhau tha thiết tình.

Đoạn Chương
Tác giả: Biện Chi Lâm

断章
你站在桥上看风景,
看风景人在楼上看你。
明月装饰了你的窗子,
你装饰了别人的梦。

Dịch thơ:

Em đứng trên cầu ngắm cảnh
Người ngắm cảnh trên cầu lại ngắm em
Ánh trăng điểm tô cửa sổ phòng em
Giấc mộng ai kia lại được em tô điểm.

Ngọc Lâu Xuân
Tác giả: Án Thù

玉楼春-春恨
绿杨芳草长亭路,
年少抛人容易去。
楼头残梦五更钟,
花底离愁三月雨。
无情不似多情苦,
一寸还成千万缕。
天涯地角有穷时,
只有相思无尽处。

Phiên âm:

Ngọc lâu xuân – Xuân hận
Lục dương phương thảo trường đình lộ,
Niên thiếu phao nhân dung dị khứ.
Lâu đầu tàn mộng ngũ canh chung,
Hoa để ly sầu tam nguyệt vũ.
Vô tình bất tự đa tình khổ,
Nhất thốn hoàn thành thiên vạn lũ.
Thiên nhai địa giác hữu cùng thì,
Chỉ hữu tương tư vô tận xứ.

Dịch thơ:

Liễu xanh cỏ ngát hương ngoài lộ
Tuổi trẻ ra đi đâu có khó
Trên lầu trằn trọc suốt năm canh
Ly biệt tháng ba hoa ướt rũ

Vô tình nào khổ tựa đa tình
Một tấc tơ lòng muôn vạn mớ
Chân trời mặt đất còn chia ngăn
Chỉ có nhớ nhau không hạn chỗ

Gửi tặng bạn 🔻 Thơ Hán Việt Về Tình Yêu 🔻 Ngoài Các Bài Thơ Cổ Phong

Những Bài Thơ Cổ Điển Thú Vị

Ngoài thơ cổ phong, nếu bạn hứng thú với thể thơ cổ điển thì không nên bỏ qua những bài thơ cổ điển thú vị sau:

Tửu Thi Lầu
Tác Giả: Sơn Nguyên

Lầu xưa độc khách chờ tri kỷ
Hãm giọt tương phùng bên cửa thúy
Ngắm nhũ mây lồng cạnh ải quan
Nhìn hoa tuyết phủ ngoài giang lũy
Mong vào phủi hết nỗi sầu vương
Hãy đến chùi tan niềm khổ lụy
Để gió sương đừng giễu dạ… y
Nào xin uống cạn… bầu sơn thủy.

Họa Bì
Tác Giả: Vô Danh

Vẽ lại khuôn mặt người, họa lại trong lòng ta
Không thể quên được hình ảnh lần đầu gặp gỡ
Sợ rằng tháng năm sẽ cướp đi má phấn hồng nhan
Mà người vẫn như xưa, cậu thiếu niên đa tình.

Cuộc tình của đôi ta giờ chỉ như lớp vỏ bọc
Nhân tình đã sớm thay đổi hình dạng
Nhưng ta vẫn quyết ôm chặt nỗi đau, có ra sao cũng không buông bỏ
Cuối cùng chỉ còn lại bao ký ức cuồng dại.

Chẳng muốn quên đi, chẳng muốn tường tỏ
Vì điều ta thực sự mong, là trở thành bờ vai của người.

Vẽ lại khuôn mặt người, họa lại trong tim ta
Không thể quên được hình ảnh lần đầu gặp gỡ
Năm tháng trôi , không còn là yêu kiều ngày xưa nữa
Vẫn là người năm ấy , cậu thiếu niên đa tình

Giữ được người một lối, xương cốt cũng nhớ thương
Lời phù phiếm thế gian, ai yêu ai xét đoán
Sinh tử có là chi, đâu ai muốn bận tâm
Nếu không có người, ta sức tàn lực kiệt.

Bộ Bộ Kinh Tâm
Tác Giả: Đồng Hoa

Khởi từ tham ái sinh ra
Sinh lo, sinh sợ khó mà tránh đi
Khi mà tham ái xa lìa
Chẳng còn lo sợ chút gì nữa đâu.
Đừng yêu đến độ say mê
Kẻo khi ly biệt não nề héo hon.
Nếu mà yêu ghét không còn,
Chẳng chi ràng buộc, tâm hồn thảnh thơi.

Từng Thế Ước
Tác giả: Đồng Hoa

Trời nghiêng có thể chống
Đất nứt có thể đắp lại
Lòng người tan nát rồi
Còn có thể vá víu lại được không?

Qua Đèo Ngang
Tác giả: Bà Huyện Thanh Quan

Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Chiều hôm nhớ nhà
Tác giả: Bà Huyện Thanh Quan

Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.

Thơ Ca Cổ Điển Nhật Bản Ngắn Gọn

Bên cạnh thơ cổ phong, với những ai yêu mến văn hóa Nhật thì có thể xem qua chùm thơ ca cổ điển Nhật bản ngắn gọn sau:

Nguồn: Sưu tầm

秋涼し
手ごとにむけや
瓜茄子
Bản dịch:
Cùng nhau gọt vỏ dưa cà
Gió thu dìu dịu bao la đất trời

夏草や 
兵共が 
ゆめの跡
Bản dịch:
Cỏ cao mùa hè
Những chiến sĩ
Sau giấc mơ.

田一枚植
て立去る
柳かな
Bản dịch:
Người ta gieo mạ trên đồng
Lúc đó tôi rời
Cây liễu.

むざんやな    
甲の下の    
きりぎりす
Bản dịch:
Sự tình ai trót gây nên,
Đâu mâu mũ đó, dế rền rĩ kêu!

世の人の    
見付ぬ花や   
軒の栗
Bản dịch:
Đoá hoa
Người đời không biết đến
Cây lật bên hiên nhà.

あらたふと
青葉若葉
の日の光
Bản dịch:
Đáng kính nể làm sao!
Trên chòm lá xanh non
Ánh sáng mặt trời.

蛤の 
ふたみにわかれ 
行秋ぞ
Bản dịch:
Vấn vương giờ phút chia ly,
Một mùa thu lại sắp đi qua rồi!

雲の峰  
幾つ崩て  
月の山
Bản dịch:
Đỉnh mây
đã tan dần thành nhiều cụm
Trăng lên đầu núi

五月雨の 
降のこしてや 
光堂
Bản dịch:
Những cơn mưa tháng năm
vẫn còn chưa làm đổ nát
Quang Đường.

夏(なつ)野(の)ゆく
雄(おし)鹿(か)の角(つの)の
束(つか)の間(ま)も
妹(いも)が心を
忘れて思へ(え)や
人(ひと)麻(ま)呂(ろ)
Tạm dịch
Trên đồng mùa hạ
Lang thang con nai
Sừng còn nhỏ quá
Cho dù một khắc
Tôi chẳng quên ai

うたた寝(ね)に
恋(こい)しき人を
見てしより
夢てふ(ちょ)ものは
頼(たの)みそめてき
Tạm dịch
Từ khi nhìn thấy
Người tôi mong chờ
Trong một giấc mơ
Thì niềm tin từ đấy
Tôi đặt vào trong mơ

冬(ふゆ)枯(が)れの
野(の)べとわが身(み)を
思(おも)ひ(い)せば
もえても春(はる)を
待(ま)たましものを
Tạm dịch
Nếu thân xác tôi
Trông tựa một cánh đồng
Tàn úa giữa mùa đông
Thì cho dù cỏ cháy
Tôi vẫn mộng ngày xuân

Tham khảo thêm 🍃Thơ Nhật Bản Hay🍃Bên Cạnh Thơ Cổ Phong

Viết một bình luận