Tổng hợp 15+ mẫu bài văn phân tích một tác phẩm thơ hay nhất với các bài nổi tiếng như: Qua đèo ngang, Cảnh khuya, Mời trầu,..
NỘI DUNG CHÍNH
Gợi Ý Một Số Tác Phẩm Thơ Lớp 8 Để Phân Tích
Thohay.vn gợi ý một số tác phẩm thơ được học trong chương trình ngữ văn lớp 8 để các em có thể làm bài văn phân tích.
- Mời trầu
- Xa ngắm thác núi Lư
- Cảnh khuya
- Lá đỏ
- Nam quốc sơn hà
- Vịnh Khoa Thi Hương
- Thiên trường vãn vọng
- Qua đèo ngang
- Ta đi tới
- Ông đồ
- Nhớ rừng
- Đảo Sơn Ca
- …
Hướng dẫn 👉 Viết Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Văn Học 👉 một tác phẩm thơ
Cách Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ
Đối với đề bài phân tích một tác phẩm thơ, ngoài phần giới thiệu những kiến thức cơ bản liên quan đến tác giả, tác phẩm ở mở bài, phần đánh giá chung về nội dung, nghệ thuật thì bạn cần vận dụng thêm các bước sau đây:
- Bước 1: Nhận xét khái quát bài thơ/đoạn thơ. Gồm các mặt như thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu nói chung. Đặc biệt là bố cục gồm bao nhiêu ý chính và định hướng cách phân tích theo bố cục như thế nào (cắt ngang, bổ dọc, hay kết hợp cả hai).
- Bước 2: Lần lượt phân tích theo định hướng bố cục trên. Thao tác này gồm các bước: lời dẫn hay chuyển ý, trích ngữ liệu thơ. Phải trích dẫn đầy đủ, chính xác.
- Bước 3: Bám vào những từ ngữ, hình ảnh trọng tâm, các biện pháp nghệ thuật… để phân tích sâu, kỹ. Đây là bước cơ bản nhất, nó thể hiện khả năng cảm thụ về thơ ca của người viết.
- Bước 4: So sánh, đối chiếu để làm nổi bật đoạn thơ. Có nhiều cách liên hệ, so sánh như về các hình ảnh, chi tiết, nghệ thuật trong bài thơ, ngoài bài thơ; so sánh với cùng một tác giả, khác tác giả hoặc những tác phẩm cùng viết về đề tài…
Ngoài bài văn phân tích, tham khảo mẫu 👉 Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Về Một Tác Phẩm Thơ
Dàn Ý Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ
Tham khảo ngay mẫu dàn ý viết bài văn phân tích một tác phẩm thơ cụ thể dưới đây để có thể dễ dàng hơn trong việc triển khai các ý chính của bài làm thêm logic và đầy đủ ý nhất.
I. Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác phẩm
II. Thân bài:
+ Nêu chủ đề tác phẩm
+ Phân tích nghệ thuật lựa chọn và xây dựng hình ảnh. Lí giải vì sao tác giả lại lựa chọn các hình ảnh ấy và phân tích để thấy được mục đích trào phúng.
+ Phân tích nghệ luật lựa chọn ngôn từ.
+ Chỉ ra và phân tích tác dụng của các phép đối đã được tác giả dụng trong tác phẩm.
+ Nêu lên những sũy nghĩ và cảm xúc của bản thân về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
III. Kết bài: Khái quát, tổng hợp lại vấn đề được trình bày.
Gợi ý cách 🌻 Viết Đoạn Văn Ghi Lại Cảm Nghĩ Về Một Bài Thơ Tự Do Lớp 8 🌻 bên cạnh bài văn phân tích một tác phẩm thơ
15+ Bài Văn Phân Tích Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ Ngắn Hay
Xem thêm tuyển tập những bài văn mẫu phân tích đánh giá một tác phẩm thơ nổi tiếng nhất được biên soạn dưới đây, đừng bỏ lỡ nhé.
Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ Đầy Đủ Ý – Đề Đền Sầm Nghi Đống
Hồ Xuân Hương, một nữ sĩ vượt thời đại của xa hội phong kiến, đã thể hiện sự phóng khoáng và sự yêu thích thám hiểm thông qua việc viết thơ. Điều này không phải là điều dễ dàng, đặc biệt đối với một phụ nữ trong thời kỳ đó. Việc viết thơ của bà không chỉ dựa vào sự nổi bật của địa điểm, mà còn là cách bày tỏ những tư tưởng, cảm xúc và quan điểm riêng của mình đối với nơi đó.
Sầm Nghi Đống, như một thái thú của Diễn Châu, Trung Quốc, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử qua việc tham gia vào cuộc xâm lược Việt Nam năm 1789. Tuy sống trong thời đại khá khó khăn, nhưng ông vẫn phục vụ với trách nhiệm tại đồn Khương Thượng. Khi bị quân Tây Sơn đánh bại, sự hy sinh của ông đã thể hiện sự tôn trọng và lòng kiên định đến cuối cùng. Miếu thờ Sầm Nghi Đống tại phía sau phố Hàng Buồm cũng là một biểu tượng của sự tôn vinh và nhớ nhung sâu sắc của nhân dân hai nước.
Hồ Xuân Hương, khi đi qua ngôi đền, đã để lại dòng thơ tôn vinh sự kỳ diệu của nơi này. Nhưng không chỉ đơn thuần là sự ngưỡng mộ, bà còn thể hiện sự sâu sắc về văn hóa và lịch sử của địa điểm đó:
Ghé mát trong ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Những ai được lập đền, dù là quân giặc hay người dân địa phương, đều được coi như thần thánh. Họ đến đây thắp hương, cúng bái, cầu vọng. Tuy nhiên, Hồ Xuân Hương lại có thái độ khác biệt. Bà chỉ nghiêng đầu một chút, đưa mắt nhìn, theo từ điển Tiếng Việt, hành động này chỉ đơn thuần là cách nhìn mà không chứa đựng ý nghĩa kính trọng. Việc nghiêng đầu nhìn ngang chứ không phải ngước lên cao đã thể hiện một thái độ bất kính đối với vị thần xâm lược đã thất bại.
Ngôi đền Thái thú đứng vững trên một ngọn đồi cao, không dễ dàng để có thể nhìn ngang. Rõ ràng Hồ Xuân Hương chủ đích chọn một góc độ nhìn coi thường đối với vị Thái thú tại nơi này. Từ “cheo leo” mô tả độ cao mà không có điểm bám vững chắc, dễ bị đổ sụp. Từ “kìa” mang theo ý nghĩa không tôn trọng, đi kèm với các động tác chỉ trỏ. Đối với các nơi linh thiêng, người viếng thăm không được phép nói lớn hoặc chỉ trỏ như đối với đồ vật.
Với hai câu thơ đó, Hồ Xuân Hương đã tước đi tính thiêng liêng, cung kính của ngôi đền đó. Bà không chỉ dừng lại ở việc nhìn ngang chỉ trỏ mà còn tự ví mình, so sánh bản thân với người được thờ.
Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu
Ý nghĩa của việc thay đổi số phận và trở thành nam giới thể hiện sự mặc cảm của phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến, một tình huống được áp đặt lên tâm hồn của nhà thơ. Tuy nhiên, nó cũng phản ánh nhu cầu thay đổi số phận và không chấp nhận sự nhượng bộ của bà.
Cách bà tự nhận mình như là người đang cố gắng “trả thù” Sầm Nghi Đống, dù rằng bà chưa thực sự đạt được điều này, bà vẫn khinh thường nam giới trong gia tộc Sầm. Kết thúc bài thơ có thể khiến người đọc cảm thấy như Hồ Xuân Hương tự tin mình có thể vượt xa sự thành công của Sầm. Tuy nhiên, điều này thực ra chỉ là một cách trêu chọc, nhấn mạnh rằng “Sự nghiệp của ngươi cũng không nhiều lắm, chẳng đáng bao nhiêu với một người đàn ông thật sự!”
Bài thơ thể hiện sự khao khát của phụ nữ được đối xử công bằng và khao khát xây dựng một sự nghiệp vĩ đại như một người anh hùng. Thái độ “bất kính” của bà đối với nam giới và việc xem thường các “sự nghiệp anh hùng” của nam giới, thể hiện một thách thức đối với quan điểm trọng nam, khinh nữ, và đồng thời đối diện với các vị thần.
Bài thơ mạnh mẽ thể hiện nhu cầu giải phóng bản thân, không quan trọng những ràng buộc xã hội phong kiến có thể áp đặt.
Đọc thêm bài 👉 Đề Đền Sầm Nghi Đống 👉 ngoài bài văn phân tích một tác phẩm thơ
Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ Hay Nhất – Đảo Sơn Ca
Lê Cảnh Nhạc là nhà thơ có nhiều tác phẩm viết về đề tài quê hương, đất nước. Trong đó, Đảo Sơn Ca là một bài thơ khá tiêu biểu.
Những câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên của đảo Sơn Ca với những sự vật đặc trưng như màu xanh non của cây bàng hoa giấy đỏ và mùi nắng tươi mới:
“Quả bàng vuông xanh non màu lá
Mơn mởn thơm mùi nắng Sơn Ca
Hoa giấy đỏ dưới trời nắng cháy
Chim líu lo rót mật trước hiên nhà”
Tác giả đã cảm nhận thiên nhiên Đảo Sơn Ca qua nhiều giác quan. Với thị giác, thiên nhiên hiện ra với màu xanh non của những cây bàng, tô điểm thêm màu đỏ của những cây hoa giấy dưới trời nắng vàng. Về khứu giác, đó là “mùi nắng”, ở đây, nhà thơ đã sử dụng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, từ đó gợi ra nắng dường như còn chất chứa thêm thêm mùi vị mặn mà của biển. Cuối cùng là thính giác với tiếng chim hót líu lo bên hiên nhà vừa tạo một khung cảnh thanh bình nhưng không bị tĩnh lặng.
Ở khổ thơ thứ hai, cảnh vật hiện lên lại mang màu sắc cổ kính, rêu phong:
“Mái chùa cong veo chiều cổ tích
Tiếng cầu kinh bịn rịn níu hồn tôi
Khát từng giọt mưa mùa khô trên đảo
Cây vẫn mướt xanh vẫy gọi chim trời”
Mái chùa cong vút cùng với tiếng cầu kinh khiến không gian trở nên thanh bình, tĩnh lặng. Hình ảnh dường như đã xuất hiện trong những truyện cổ tích. Ngoài ra, mùa khô trên đảo cũng thường thiếu những giọt nước mưa tươi mát. Tuy nhiên cây cối vẫn luôn xanh mướt vẫy gọi và chào đón những chú chim trời bay đến. Cảnh vật trên đảo vẫn mang vẻ sức sống, tươi mới.
Bài thơ được kết thúc với sự xuất hiện của người lính. Họ đang làm công việc canh giữ chủ quyền của đất nước. Một công việc thiêng liêng và cao cả biết chừng nào. Hình ảnh “cánh chim trời” như một lời tuyên bố của tác giả rằng con người và thiên nhiên nơi đây luôn hòa hợp với nhau tạo nên một bức tranh vô cùng sinh động:
“Anh lính trẻ đứng canh chim làm tổ
Tiếng chim rơi nòng súng ngỡ sáo diều
Đảo Sơn Ca vẫn bốn mùa lảnh lót
Chim và người xây cột mốc tiền tiêu.”
Như vậy, bài thơ Đảo Sơn Ca đã khắc họa một bức tranh về thiên nhiên nơi hải đảo hùng vĩ nhưng không kém phần bình yên. Qua đó, nhà thơ cũng bộc lộ tình yêu thiên nhiên, con người và rộng hơn là tình yêu đất nước.
Gợi ý 👉 Trình Bày Ý Kiến Về Một Vấn Đề Xã Hội Lớp 8 👉 ngoài bài văn phân tích một tác phẩm thơ
Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ Chi Tiết – Thiên Trường Vãn Vọng
Trần Nhân Tông là một vị vua anh minh lỗi lạc nổi tiếng của nước ta. Ngoài ra, ông còn được biết đến với tài làm thơ vô cùng xuất chúng. Nổi tiếng nhất chính là thi phẩm Thiên Trường vãn vọng.
Bài thơ được dịch ra với tên gọi Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra. Đúng như tên gọi, toàn bài thơ là cảnh đẹp mà nhà thơ nhìn ngắm được khi đứng ở phủ Thiên Trường.
“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên
Đứng ở trên cao, nhà thơ phóng tầm mắt ra xa, bao quát hết toàn bộ ngôi làng. Từ trên cao nhìn xuống, ông nhìn thấy những vệt khói uống lượn bay lên cao từ những mái nhà tranh, tạo nên một tấm màn mây khói bồng bềnh che trên những ngôi nhà. Biến cả làng quê trở thành chốn bồng lai tiên cảnh nào đó.
Kết hợp với ánh hoàng hôn đỏ rực, chiếu xuyên qua những tầng khói, khiến cho cảnh đẹp bỗng mờ mờ ảo ảo, nửa thực nửa hư. Rõ là cảnh đẹp trước mắt, mà sao quá xa vời, mộng ảo. Bởi vậy, nhà thơ sử dụng điệp từ nửa để tỏ rõ sự nghi hoặc trước vẻ đẹp phi thực này.
“Mục đồng địch lí ngưu quy tận”
Bạch lộ song song phi hạ điền
Từ phía cánh đồng lúa chín, cậu bé chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về nhà. Cậu bước từ phía không gian đồng ruộng mênh mông, đi vào con đường làng dẫn về ngôi nhà tranh ấm áp. Ở đó, có người mẹ bên bếp lửa hồng, có làn khói bảng lảng bay lên cao.
Tuy không rõ cậu sẽ về đâu, nhưng những ngôi nhà trong làng đều đang đỏ lửa, mọi gia đình đều sum vầy, no đủ, thì cậu bé ấy đâu có gì phải lo âu. Chính vì vậy, cậu mới đủng đỉnh trên lưng trâu, thổi tiếng sáo vi vu, vi vu. Tiếng sáo ấy thể hiện rõ tâm trạng thảnh thơi, vui vẻ của cậu bé. Phía xa xa, từng đôi cò trắng sà xuống cánh đồng đã vắng người qua lại.
Hình ảnh những đôi cò trắng ấy là biểu tượng tượng trưng cho những gia đình nông dân chăm chỉ, cần cù yêu thương nhau, luôn cố gắng mỗi ngày. Chính những gia đình ấy là nòng cốt của xã hội. Do đó, sự xuất hiện của đôi cò trắng ở cuối bài thơ chính là khát vọng của nhà thơ về sự phát triển, mở rộng hơn nữa của thôn làng, đất nước.
Đọc Thiên Trường vãn vọng, em được chiêm ngưỡng vẻ đẹp trù phú, ấm êm của một làng quê dưới thời nhà Trần. Cách miêu tả chân thực, sống động của nhà thơ đã khiến tác phẩm thơ dễ dàng đi vào lòng người đọc.
Bật mí cách 👉 Viết Bài Văn Giới Thiệu Một Cuốn Sách Yêu Thích
Phân Tích Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ Cực Hay – Mùa Xuân Chín
Hàn Mặc Tử là một thi sĩ có phong cách thơ rất riêng biệt, độc đáo. Ông để lại cho đời nhiều tập thơ nổi tiếng như Gái Quê, Thơ Điên hay Chơi Giữa Mùa Trăng. Bài thơ “Mùa xuân chín” là một bài thơ tiêu biểu, góp phần làm nên tên tuổi của nhà thơ.
Tựa đề bài thơ đầy ấn tượng” Mùa xuân chín”, ta nghe như có sự mềm mại, hương thoang thoảng của vị xuân rạo rực mà không kém phần đằm thắm, ý tứ chất chồng những tầng sâu ý nghĩa khiến ta tò mò muốn khám phá, thôi thúc ta đi sâu vào nội dung tác phẩm để khám phá nét “chín” của mùa xuân trong thơ Hàn Mặc Tử ra sao.
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý bóng xuân sang”
Bức tranh mùa xuân chốn thôn quê thật thanh bình, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương. Trong làn nắng nhẹ của của bầu trời, làn khói xa như tan đi, tạo nên vẻ đẹp như mơ như thực, không quá chi tiết, chỉ đôi nét chấm phá nhưng khiến ta không khỏi xuyến xao trước khung trời đầy yên bình lúc này.
Trên những mái nhà tranh nơi quê nghèo lấm tấm màu hoa thiên lý điểm tô, cơn gió khẽ đung đưa những chiếc lá xanh biếc tạo nên thứ âm thanh lạ lùng” sột soạt”, tất cả đều quá đỗi nhẹ nhàng mà thân thương. Mùa xuân đang len lỏi vào cảnh vật, trên giàn thiên lý báo xuân về, mùa xuân đến, cây cỏ, thiên nhiên, đất trời, và lòng người như hòa quyện lấy nhau:
“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;”
Vạn vật mang sức xuân, làn mưa xuân tưới thêm cho cỏ cây sức sống mới đầy xanh tươi “gợn tới trời” như đang đùa giỡn với nắng, với gió với mây. Tiếng hát đón xuân của bao cô gái thôn quê đầy tình tứ, mùa xuân đến khiến ai cũng vui tươi, phấn khởi, tâm hồn đầy trẻ trung, yêu đời. Giai điệu nhạc cất lên cùng lời ca:
” Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.”
Niềm vui xuân hoà cùng niềm vui của hạnh phúc lứa đôi, thế là ngày mai trong đám cô thôn nữ ấy, có người đi lấy chồng bỏ lại sau lưng những cuộc vui, có chút gì đó tiếc nuối đan xen trong niềm vui ấy. Mùa xuân điểm tô cho đời, kết nên quả ngọt cho tình yêu, mùa của niềm hạnh phúc tràn đầy.
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây,
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây…”
Niềm yêu đời họa trong lời hát thơ ngây, trong sáng, tinh nghịch “tiếng ca vắt vẻo” trên lưng núi, hoà vào cảnh vật, âm vang mãi. Những âm thanh như đang chuyển động theo nhịp thời gian, “hổn hển” “thì thầm” với nhau đầy ý vị, thân thương. Tiếng thơ nghe sao khiến người bâng khuâng, xao xuyến đến lạ kỳ.
“Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”
Nếu ở khổ thơ đầu là hình ảnh cỏ cây tươi xanh thì đây chính là hình ảnh đối lập khi xuân chín, xuân đã không còn thơ mộng như khi vừa sang nữa, nó mang màu của nỗi tiếc nuối ngậm ngùi, mang màu của nắng gió thôn quê: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. m “ang” cuối bài làm cho câu thơ mang tâm trạng mênh mang khó tả, như nỗi lòng thì nhân đang băn khoăn, trĩu nặng xót xa về thân phận người con gái:
” Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”
Nếu ngày xưa khi đang tuổi xuân thì, nhịp xuân sang cùng lòng bao cô gái ngân nga lời ca, tiếng hát chào mừng thì giờ đây khi xuân chín, xa rời xuân xanh năm nào, “chị ấy” giờ trở thành một người phụ nữ với bao nỗi lo toan. Trách nhiệm cuộc sống và công việc của người mẹ, người vợ thêm nặng, song, dù vất vả, nhọc nhằn vẫn ánh lên nét đẹp rạng ngời.
Bài thơ thật nhẹ nhàng, ngôn ngữ dù giản dị nhưng được nhà thơ chọn lọc rất tinh tế. Mỗi tiếng thơ thốt lên là cả một bầu trời thương yêu vừa mang nỗi thương cảm vừa mang nỗi nhớ mênh mang chốn quê nhà vất vả, gian nan. Với ngôn ngữ kết tinh cùng tấm lòng hồn hậu của thi nhân, Hàn Mạc Tử đã viết nên một “mùa xuân chín” vẹn tròn, đầy đặn, thiết tha.
Đón đọc thêm 👉Mùa Xuân Chín của Hàn Mặc Tử 👉 ngoài bài văn phân tích một tác phẩm thơ
Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật Xuất Sắc – Thu Điếu
Bài thơ Thu điếu thuộc chùm thơ về mùa thu của Nguyễn Khuyến. Qua bài thơ, người đọc thấy được một bức tranh thu của nơi làng quê Bắc bộ.
Tác giả đã sử dụng điểm nhìn một cách linh hoạt từ gần đến xa, từ xa đến gần để khắc họa bức tranh thu. Bức tranh hiện ra với không gian khá hẹp trong một chiếc ao nhỏ bé với một chiếc thuyền câu nhẹ tênh. Mùa thu trong tâm hồn nhà thơ với hình ảnh “ao thu lạnh lẽo” với làn nước “trong veo” giống như một chiếc gương khổng lồ có thể phản chiếu mọi cảnh vật. Chiếc thuyền câu ở đấy rồi nhưng vẫn chưa thấy con người xuất hiện:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Đến hai câu thơ tiếp theo, khung cảnh làng quê lúc này đã không còn tĩnh lặng nữa mà đã bắt đầu có chút âm thanh:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Sóng nhỏ vì ao vốn nhỏ, bởi vậy mới có “theo làn hơi gợn tí”. Kế tiếp là hình ảnh “lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” – chỉ một động từ “vèo” thôi nhưng đã gợi ra một chuyển động thật tinh tế của chiếc lá.
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Tác giả mở rộng không gian lên tận trời xanh với hình ảnh những đám mây lơ lửng giữa trời. Dường như với hình ảnh này, bức tranh thu trở nên thật lãng mạn và trữ tình. Không gian mở rộng là thế, bỗng chốc lại trở về với cận cảnh. Hình ảnh “ngõ trúc quanh co” chính là con đường làng quen thuộc với bóng tre đã đứng đó từ bao đời. Trời thu lạnh lẽo khiến cho đường làng trở nên vắng vẻ hơn. Vần “eo” (veo – teo – vèo) thật độc đáo, góp phần khắc họa bức tranh mùa thu.
Bài thơ được kết thúc bởi hình ảnh của nhân vật trữ tình:
“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Con người đã xuất hiện trong bức tranh thu. Nhân vật trữ tình trong bài thơ đang câu cá mà dường như chẳng hề chú tâm đến công việc của mình “tựa gối buông cần”.
Có lẽ vì đang chìm đắm trong dòng suy nghĩ miên man của bản thân để rồi chỉ một âm thanh nhỏ bé của cá đớp động dưới chân bèo lại làm nhà thơ giật mình sực tỉnh. Hai câu cuối đã khắc họa hình ảnh nhân vật trữ tình – hay cũng chính là nhà thơ trong một tâm thế nhàn nhã trước bức tranh thu nơi quê hương. Từ đó, bài thơ cũng bộc lộ tình yêu thiên nhiên, đất nước sâu sắc, cùng với nỗi lo lắng cho cảnh ngộ đất nước ngay cả khi đã cáo quan về ở ẩn.
Qua bài thơ “Câu cá mùa thu”, tác giả đã khắc họa vẻ đẹp của mùa thu thật đặc trưng của vùng quê đồng bằng Bắc bộ, cũng như nỗi niềm tâm trạng của tác giả.
Chia sẻ cho bạn bài 👉Câu Cá Mùa Thu [Thu Điếu] 👉 ngoài bài văn phân tích một tác phẩm thơ
Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ Trào Phúng Tiêu Biểu – Thương Vợ
Nhà thơ Tú Xương nổi tiếng với các tác phẩm trào phúng. Một trong số đó có thể kể đến bài thơ Thương vợ.
“Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong số những bài thơ của Tú Xương viết về bà Tú. Tác giả đã khắc họa hình ảnh một người phụ nữ tần tảo, nhẫn nhục và giàu đức hy sinh. Nhà thơ đã đứng ở khía cạnh của một người chồng – một người đàn ông để bày tỏ niềm cảm thông với những người phụ nữ:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Bốn câu thơ đầu đã giới thiệu về công việc của bà Tú. “Buôn bán” vốn là công việc vô cùng vất vả, không lúc nào được nghỉ ngơi. Cụm từ “quanh năm” gợi ra rằng công việc này diễn ra hằng ngày, lặp lại hết năm này đến năm khác. Bà Tú tần tảo sớm hôm để “nuôi đủ năm con với một chồng” – việc tách riêng “một chồng” dường như thể hiện được một hoàn cảnh thật éo le.
Người chồng đáng ra phải là người chèo chống để nuôi cả gia đình. Vậy mà ở đây, người vợ phải một mình mưu sinh nuôi chồng nuôi con. Điều này làm bộc lộ nên tiếng cười mỉa mai, chua xót của chính tác gỉa. Họ không chỉ phải chịu đựng những ràng buộc phong kiến, không thể kêu ca, than thở mà chỉ biết im lặng chấp nhận, chịu đựng qua từng ngày: “Năm nắng mười mưa chẳng quản công”.
Đến hai câu thơ cuối cùng đọc lên giống như là một lời tự vấn của chính nhà thơ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”.
Tiếng “cha mẹ” vang lên sao mà chua xót, là tiếng chửi thói đời đấy mà cũng giống như một lời tự trách bản thân vô dụng để rồi khiến người vợ của mình phải chịu đựng khổ cực.
Qua bài thơ này, Tú Xương đã khắc họa hình ảnh bà Tú cũng chính là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa: những con người tần tảo, chịu khó và giàu đức hy sinh.
Cập nhật thêm bài thơ 👉 Thương Vợ của Tú Xương 👉 ngoài bài văn phân tích một tác phẩm thơ
Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ Mà Em Yêu Thích Nhất – Bạn Đến Chơi Nhà
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Một trong những bài thơ hay của ông có thể kể đến Bạn đến chơi nhà. Bài thơ đã ca ngợi tình bạn chân thành, thắm thiết.
“Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa”
Hai câu thơ mở đầu giới thiệu về việc người bạn đến chơi nhà. Cụm từ “đã bấy lâu nay” cho thấy khoảng thời gian kéo dài, rất lâu. Điều đó khiến cho nhân vật trữ tình rất vui vẻ, mong muốn được tiếp đón bạn thật chu đáo. Cách xưng hô “bác” thể hiện mối quan hệ gần gũi, thân mật. Nhưng hoàn cảnh lại không cho phép khi trẻ thì đi vắng, không có người để sai đi mua đồ tiếp đãi bạn mà chợ lại ở quá xa xôi.
Nhưng không dừng lại ở đó, hoàn cảnh của nhân vật trữ tình càng thêm éo le hơn với một loại hình ảnh được khắc họa:
“Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có”
Trong căn nhà của nhân vật trữ tình, mọi thứ đều chưa thể dùng để tiếp khách: “ao sâu – khôn chài cá”, “cải chửa ra cây, cà mới nụ”, “bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa”. Ngay cả “miếng trầu” quan trọng nhất bởi có câu “miếng trầu là đầu câu chuyện” thì ở đây cũng không có. Nhưng dù vậy, sự thiếu thốn đó vẫn không làm tăng thêm khoảng cách giữa những người bạn tri kỉ:
“Bác đến chơi đây ta với ta”
Câu thơ cuối như một lời khẳng định cho tình bạn tri kỉ của Nguyễn Khuyến. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng đã từng sử dụng cụm từ “ta với ta”:
“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
Nhưng “ta với ta” trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan chỉ tác giả, đang chỉ có một mình nơi đèo Ngang hoang vu. Từ đó, câu thơ càng làm tăng thêm nỗi buồn và nỗi cô đơn, sợ hãi trước dòng thời gian trôi chảy.
Còn trong thơ của Nguyễn Khuyến, cụm từ “ta với ta” lại mang ý nghĩa khác. Đại từ “ta” thứ nhất chính là nhân vật trữ tình, còn đại từ “ta” thứ hai chỉ người bạn. Từ “với” cho thấy mối quan hệ song hành, gắn bó. “Ta với ta” đồng nghĩa với tôi với bác, chúng ta với nhau. Cuộc sống tuy nghèo khó, thiếu thốn nhưng có bạn lại thấy vui vẻ, hạnh phúc. Tình bạn tri kỉ thật đáng ngưỡng mộ, cảm phục biết bao nhiêu.
Bằng những hình ảnh giản dị, giọng thơ dí dỏm, bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến đã gửi gắm được một thông điệp ý nghĩa, giá trị về tình bạn.
Xem thêm bài 👉 Bạn Đến Chơi Nhà 👉 ngoài bài văn phân tích một tác phẩm thơ
Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ Qua Đèo Ngang Đặc Sắc
Trong nền văn học hiện đại nếu như chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương thì chắc hẳn rằng sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ “Qua đèo Ngang” tiêu biểu cho phong cách ấy.
Bài thơ được sáng tác khi tác giả vào Phú Xuân (Huế) nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho thân gái nơi đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết.
Chỉ tám câu thơ nhưng nó đã diễn tả được hết cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như thế này. Hai câu đề gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ nơi đèo Ngang:
“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, lá chen hoa”
Không gian và thời gian ở đèo Ngang được tác giả thể hiện qua từ “bóng xế tà”. Có thể nói đây là thời gian là cảm xúc trong lòng người dường như nặng nề, gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong ca dao, dân ca, chúng ta vẫn bắt gặp thời điểm chiều tả để đặc tả nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai. Mặt trời xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi này.
Cảm giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên nơi đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Điệp từ “chen” dường như đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này. Hoa lá đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt nhau để sống, sinh sôi.
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Đến hai câu thực thì mới thấp thoáng hình ảnh con người, nhưng cũng chỉ là “tiều vài chú”. Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với phép đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hiu quạnh của đèo Ngang.
Việc sử dụng hai từ láy “lom khom” và “lác đác” vừa chỉ hoạt động gánh củi vất vả vừa chỉ ước tính số lượng cụ thể. Những hình ảnh ước lệ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã lột tả hết thần thái cũng như cảm xúc của tác giả lúc đó. Những sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh đang chờn vờn ở ngay trước mắt nhưng xa lắm. Muốn tìm bạn để tâm sự cũng trở nên khó khăn. Sang đến hai câu thơ luận thì cảm xúc và tâm sự của tác giả bỗng nhiên trỗi dậy
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
Điệp âm “con quốc quốc” và “cái gia gia” đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng vô cùng não nề thấm đến tâm can. Người lữ khách đường xa nghe văng vẳng tiếng cuốc và da da kêu mà lòng quạnh hiu, buồn tái tê. Thủ pháp lấy động tả tĩnh của tác giả thật đắc điệu, trên cái nền tĩnh lặng, quạnh quẽ bỗng nhiên có tiếng chim kêu thực sự càng thêm não nề và thê lương.
“Dừng chân nghỉ lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
Chỉ bốn chữ “dừng chân nghỉ lại” cũng đã khiến người đọc cảm thấy da diết, bồn chồn đến não nề. Cảnh trời nước mênh mông, vô tận nhưng con người thì bé nhỏ khiến cho tác giả thấy mình lạc lõng và không một nơi bấu víu. Đất trời rộng lớn, tác giả chỉ cảm thấy còn “một mảnh tình riêng”. Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Nỗi buồn dường như trở nên cực độ, buồn thấu tận tâm can, buồn nghiêng ngả trời đất.
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho người đọc cảm xúc khó quên. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu đây.
Đọc thêm bài 🍂 Nghe Và Tóm Tắt Nội Dung Thuyết Trình Của Người Khác 🍂
Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ – Đồng Chí Của Chính Hữu
Tác giả Chính Hữu được biết đến với phong trào thơ ca yêu nước thời chống Pháp. Với lời thơ chân thực, giản dị mà sâu lắng, vừa là một trang sử hào hùng, vừa như một khúc ca trầm lắng đi sâu vào lòng người. Và trong những hoàn cảnh gian nan, đã đưa những người đồng đội, đồng chí xích lại gần nhau hơn, trở thành những người tri kỉ của nhau.
Tác phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu ra đời năm 1948 kể về tình đồng chí đồng đội giản dị mà sâu đậm, thắm thiết, vượt lên trên mọi gian khó của những người chiến sĩ cách mạng lúc bấy giờ.
Ngay từ đầu, tác giả đã vẽ lên hình ảnh người bộ đội cụ Hồ giản dị, mộc mạc nhưng giàu tình cảm. Đức tính thiêng liêng cao đẹp của những người đồng chí, đồng đội trong những hoàn cảnh gian nguy. Dường như, ở mọi miền quê, mọi miền trên tổ quốc, các anh như hội tụ về cùng một nơi, ở đó họ có chung kẻ thù, chung lý tưởng sống và sẵn sàng hy sinh cho những lý tưởng cao đẹp ấy. Từ những con người xa lạ, bỗng chốc họ trở nên thân thiết:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Dù xa xôi ngàn dặm trên khắp miền tổ quốc, họ đã về đây, cùng nhìn về một phía. Tác giả sử dụng những cụm từ mang ý nghĩa tương xứng với nhau “nước mặn, đồng chua”, “ đất cày lên sỏi đá” một bên là vùng quê gần biển, nghèo nàn nước mặn, đồng chua như chẳng hoa màu gì có thể lên được, còn một bên là đất cằn cỗi, sỏi đá, cho ta thấy một cuộc sống nghèo nàn, đói khổ đầy cơ cực.
Mở đầu bài thơ, tác giả khéo léo đưa ra một điểm tương đồng, một điểm chung giữa hai con người, nó như là một chiếc cầu nối để hai người chiến sĩ có cùng cảnh ngộ đứng sát lại gần nhau hơn. Và bằng biện pháp đối lập “xa lạ” – “quen nhau” cuối cùng họ cũng tìm được một vị trí trong lòng mỗi người.
Cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, chung một mục đích sống, chung lý tưởng cách mạng, họ đã khoác lên mình khẩu súng của tự do, vũ khí của lòng trung kiên, bất khuất:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí”
Hai câu thơ gợi cho chúng ta hình ảnh hai người lính cầm chắc tay súng, đứng sát bên nhau, mắt nhìn xa xăm trong khoảng không giữa đêm tối. Họ đang canh gác, nhiệm vụ hết sức nguy hiểm. Hai người lính đứng hiên ngang, sát bên nhau, như đang cùng đối mặt với những gian khó, chung vai gánh vác những trách nhiệm cao cả.
Rồi từ những gian khó ấy, những con người xa lạ bỗng chốc trở thành những người bạn, rồi thành “đôi tri kỉ’, cùng nhau sẻ chia sẻ chút ngọt bùi, ấm nồng trong đêm giá buốt “đêm rét chung chăn”. Cụm từ “Đồng chí” nghe thật thân thiết và gần gũi, không còn từ ngữ nào có thể diễn tả được cảm xúc ấy, như bị dồn nén rồi chợt cất lên một cách vội vàng, đầy bồi hồi tha thiết.
Khi cảnh nước nhà lâm nguy, từ những người nông dân cần cù, chất phác, quanh năm gắn bó với ruộng đồng. Các anh đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, bỏ lại sau lưng quê hương, gửi lại ruộng nương, nhà cửa:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính”
Trước tình yêu quê hương đất nước, yêu xóm làng thân thương, nơi có những người thân yêu luôn dõi theo các anh. Rồi họ đã cất bước lên đường, khoác lên mình màu áo xanh, khoác lên vai khẩu súng trường để bảo vệ chính những thứ bình dị mà họ yêu quý.
Ruộng nương gửi bạn thân cày, gian nhà không “mặc kệ” gió lung lay, một sự ra đi đầy quyết đoán, rời xa cuộc sống bình yên, bình dị mỗi ngày mà không một chút đắn đo. Nhưng tình cảm ấy, trái tim ấy vẫn luôn hướng về quê nhà. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng những từ ngữ hết sức thân thuộc của làng quê, là “giếng nước”, “gốc đa”.
Đồng thời như thổi hồn vào trong những thứ vô tri vô giác ấy, từ “nhớ” chỉ sự lưu luyến, nhớ nhung các anh mỗi ngày. Ở đây không đơn giản là nỗi nhớ của “giếng nước”, “gốc đa” mà là cả sự mong mỏi, đợi chờ của những người thân yêu nơi quê nhà, là mẹ già, là người vợ hiền, hay những người con thơ của các anh. Và đó cũng chính là niềm quyết tâm chiến đấu, niềm hy vọng đến ngày trở về khi đất nước hòa bình.
Và trong cuộc chiến khốc liệt ấy, các anh phải trải qua biết bao nhiêu khó khăn, gian khổ và cả những hiểm nguy. Có biết bao người đã phải ngã xuống, góp một phần máu xương cho đất nước, cho những người ở lại thay họ tiếp tục chiến đấu. Dù vậy, tinh thần lạc quan vẫn luôn trong họ:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
…
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Như cụ thể hóa bằng những hình ảnh chân thực, bức tranh người bộ đội cụ Hồ với bao gian khó dần hiện ra. Họ phải đối mặt với sự lạnh lẽo, rừng thiêng nước độc bủa vây, đó là căn bệnh sốt rét quái ác “Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi” hay là cuộc sống nhọc nhằn, thiếu thốn đủ điều “Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá”, “chân không giày”.
Mặc dù phải đối mặt với những gian nguy như vậy, nhưng nụ cười vẫn nở trên môi các anh, một tinh thần lạc quan, vững chãi không chút lay động. Tác giả Chính Hữu đã khắc họa lên một hình ảnh giản dị, nhưng đẹp và sáng vô cùng “miệng cười buốt giá”. Dường như nụ cười ấy xua tan đi tất cả, nó như một lời động viên, một nỗ lực sống và chiến đấu đầy mãnh liệt.
Những khó khăn không chỉ dừng lại ở đấy, người lính áo vải còn phải chênh vai, đương đầu với những khó khăn, thử thách đang chực chờ:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Ở những câu thơ cuối là hình ảnh tư thế hiên ngang của những người lính, vì nhiệm vụ cao cả họ chấp nhận đối mặt với những gian khổ cận kề. Tiếp đó, là hình ảnh chung vai, sát cánh hướng mũi súng nơi kẻ thù. Trong cảnh đất trời bao la, hình ảnh đẹp đẽ của ánh trăng chợt hiện ra giữa đỉnh đầu, nơi nòng súng giương cao, luôn sẵn sàng chiến đấu, đương đầu với kẻ thù bất cứ lúc nào.
Chỉ bằng những từ ngữ ngắn gọn “Đầu súng trăng treo”, nhưng đây có lẽ điểm độc đáo nhất của bài thơ, với một bên là “trăng” một bên là “súng”, hai hình ảnh cùng thức giữa trời đêm. Tác giả đã kết hợp hai hình ảnh lại với nhau một cách hài hòa, mang một giá trị triết lý sâu sắc. Sự hòa quyện giữa chất thơ của hiện thực và sự lãng mạn đã đưa người đọc theo dòng cảm xúc mênh mông mà đẹp vô cùng, cho người đọc thấy rõ hơn về tinh thần lạc quan, vững vàng không chút lay động của người lính cách mạng lúc bấy giờ.
Bài thơ khép lại để lại cho chúng ta cảm xúc bồi hồi, đầy cảm phục về người bộ đội cụ Hồ trước những chông gai, nhọc nhằn. Đồng thời, cũng là những hình ảnh giản dị, mộc mạc mà trong đó là cả một tâm hồn lãng mạn, đẹp đẽ. Bài thơ “Đồng chí” như tái hiện lại cuộc chiến gian khổ đầy đau thương, mất mát một cách chân thực, đó là tinh thần sắt đá, là dòng huyết quản sôi sục, là sự sẻ chia, chung vai của những người đồng chí, đồng đội.
Đọc chi tiết hơn 👉 Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu
Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ Vịnh Khoa Thi Hương Của Trần Tế Xương Siêu Hay
Trần Tế Xương (1870 – 1907) thường được gọi là Tú Xương vì đi thi tới Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy nên chi đỗ Tú tài. Tuy nhiên, tài năng thơ ca, đặc biệt là thơ trào phúng đã tôn vinh tên tuổi của ông lên vị trí hàng đầu trong giai đoạn văn học cuối thế ki XIX, đầu thế ki XX.
Vịnh khoa thi Hương là bài thơ thể hiện thái độ mỉa mai căm uất của Tú Xương đối với chế độ thi cử đương thời và đối với con đường thi cử gian nan, lận đận của riêng ông. Có người cho rằng Vịnh khoa thi Hương là tiếng khóc nhưng lại có người cho đó là tiếng cười châm biếm sâu cay của Trần Tế Xương trước thời cuộc lúc bấy giờ. Tuy nhiên, cả hai nhận xét trên đều đúng.
Nhà nước ba năm mở một khoa,
…Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Bài thơ là bức biếm họa toàn cảnh khoa thi Hương năm Đinh Dậu (1897) Vì tình hình chính trị bất ổn nên sĩ tử ở Hà Nội phải xuống thi chung với sĩ tử của trường thi Nam Định. Chính vì thế mà quang cảnh lộn xộn, trái hẳn với không khí trang nghiêm vốn có chốn cửa Khổng sân Trình.
Cái lệ ba năm mở một khoa là quy định của triều đình phong kiến nhà Nguyễn đặt ra đã từ lâu. Nhưng từ Nhà nước mở đầu bài thơ lại ám chỉ chính quyền bảo hộ của thực dân Pháp lúc bấy giờ với ý châm biếm, vì triều đình nhà Nguyễn chi còn là bù nhìn mà thôi.
Hai câu đề:
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Câu phá đề đơn thuần mang tính chất thông báo, nhưng đốn câu thừa đề thì ý châm biếm của tác giả đã bộc lộ qua từ lẫn. Mọi chuyện bát nháo, nực cười nơi trường thi cũng khởi nguồn từ sự chung đụng lẫn lộn này.
Hai câu thực:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Với kết cấu đảo ngược đưa tính từ lên vị trí đầu câu, Tú xương đã đặc tả cảnh tượng đáng buồn của một trường thi ở giai đoạn chữ Hán đang bị chữ quốc ngữ đẩy lùi.
Ngày xưa, sĩ tử đi thi phải mang theo lều chõng, cơm nước, tráp để đựng bút, giấy, nghiên mực… và một ống quyển để đựng quyển thi. Lọ ở đây là lọ nước uống. Mang vác lỉnh kỉnh như thế nên trông họ lôi thôi, lại chen lấn, xô đẩy nên càng giống một đám đông hỗn loạn ngoài đường ngoài chợ chứ không phải ở chốn trường thi vốn dĩ uy nghiêm.
Sĩ tử thảm hại đã đành, còn quan trường cũng chẳng hơn gì. Tiếng loa gọi thí sinh lần lượt nhập trường thi lẽ ra phải rõ ràng, dõng dạc nhưng vì quá ồn ào, lộn xộn nên quan xướng danh phải cố thét lên cho thật to, riết rồi thành ậm oẹ, chẳng ra đâu vào đâu cả nên hoá buồn cười.
Hai câu luận:
Long cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Bằng bút pháp trào lộng sắc sảo, Tú Xương tiếp tục tả thực cái “chợ phiên” chữ nghĩa ấy với những chi tiết vô cùng độc đáo. Biết bao là trớ trêu, ngậm ngùi ẩn chứa trong khung cảnh ấy. Để chứng tỏ sự quan tâm của “mẫu quốc”, tên toàn quyền Pôn Đu-me (Paul Doumer) cùng vợ đã đến dự khai mạc trường thi cho thêm phần long trọng.
Con mắt tinh đời và tâm trạng phẫn uất của Tú Xương đã giúp mọi người nhận ra nỗi nhục mất nước qua hai hình ảnh tương phản trong hai câu thơ đối nhau chan chát là: Cờ của triều đình phong kiến bán nước đối với Váy của vợ tên quan thực dần cướp nước. Ngậm ngùi, cay đắng biết bao nhiêu! Dâu không có giọt nước mắt nào nhưng người đọc thấy rõ là nhà thơ đang cắn răng cố nuốt tiếng khóc vào trong, ông khóc vì quốc thể bị xúc phạm, khóc vì nỗi nhục nô lệ của giới trí thức nói riêng và cả dân tộc nói chung.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Nỗi ngậm ngùi bị dồn nén cao độ đã bật thốt thành lời cảm thán làm rung động lí trí và tình cảm người trong cuộc cũng như người ngoài cuộc.
Nhân tài đất Bắc là cách gọi mỉa mai của Tú xương đối với đám Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ đang chen chúc chốn trường thi nhốn nháo đúng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Trong đám đông ấy, hỏi có ai nghĩ tới cảnh nước nhà đáng đau, đáng hận; hay chỉ chúi mũi chúi tai tranh nhau cố kiếm miếng đinh chung mà quay lưng ngoảnh mặt làm ngơ?
Nhiều người có cùng một nhận xét là trong thơ Trần Tế xương, sự kết hợp hài hoà, chặt chẽ giữa tính hiện thực và tính trữ tình được thể hiện khá rõ. Có thể coi bài Vịnh khoa thi Hương này là một ví dụ tiêu biểu. Đằng sau tiếng cười châm biếm mang ý nghĩa xã hội sâu xa là tiếng khóc ngậm ngùi, nuối tiếc cho nền Hán học suy tàn và tất cả những gì từng được coi là tinh hoa của nó đã bị đẩy lùi trước làn sóng văn hoá phương Tây đang tràn vào nước ta theo bước chân của đạo quân viễn chinh xâm lược Pháp.
Chia sẻ cách 👉 Viết Bài Văn Nghị Luận Về Một Vấn Đề Đời Sống
Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ Lớp 8 Ngắn Gọn – Lá Đỏ
Nguyễn Đình Thi là nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Một trong những tác phẩm của ông có thể kể đến bài thơ “Lá đỏ”.
“Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ”
Cuộc gặp gỡ diễn ra trong không gian với “em” diễn ra ở rừng Trường Sơn “lộng gió”, “rừng lạ ào ào lá đỏ”, “bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”. Các hình ảnh vẽ lên khung cảnh rừng Trường Sơn khoáng đạt, gợi ấn tượng vừa lãng mạn, hào hùng dữ dội. Những vẻ đẹp lạ lùng của rừng lá đỏ, những trận lá đổ ào ào như trút trong gió lộng trên những đỉnh núi cao giữa mùa thu của đại ngàn Trường Sơn, lửa bụi chiến tranh bay nhòa trời.
Bốn câu thơ tiếp theo là hình ảnh con đường Trường Sơn mùa ra trận. Mở đầu là hình ảnh cô thanh niên xung phong đứng bên đường. Nhắc đến con đường Trường Sơn không thể thiểu hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong, vì lòng yêu nước mà sẵn sàng lên đường.
“Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc, quàng súng trường”
Cách gọi “em gái tiền phương” nghe thật gần gũi, nhưng cũng đầy sự trân trọng. Hình ảnh của những cô gái hiện lên gợi cảm giác vừa thân thương, gần gũi, giản dị; vừa dũng cảm, kiên cường, vững vàng khi làm nhiệm vụ. Hình ảnh “em gái tiền phương” được so sánh với “như quê hương” trở thành biểu tượng của quê hương, đất nước. Họ cũng chính là biểu tượng cho cuộc chiến tranh nhân dân của dân tộc, cho khát vọng tự do, hòa bình của nhân dân.
“Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa.”
Hình ảnh đoàn quân trên đường ra tiền tuyến gợi lên không khí hào hùng, thần tốc trong khung cảnh “bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”. Từ láy “vội vã” đã làm nổi bật tinh thần khẩn trương, tranh thủ từng phút giây hành quân ra tiền tuyến cho kịp bước vào chiến trận cuối cùng, bất chấp gian khổ hiểm nguy. Hình ảnh đoàn quân là kết tinh của ý chí, tinh thần, khát vọng độc lập, tự do và chiến thắng của dân tộc.
Hai câu thơ cuối của bài thơ là lời chào tạm biệt và lời hứa hẹn gặp lại giữa Sài Gòn khi đất nước ta thống nhất.
“Chào em em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn…”
Lời chào nghe thì rất đơn giản nhưng ẩn sâu bên trong lời chào đấy là lời hứa hẹn về ngày trở lại khi đất nước đã giành được độc lập. Chiến dịch cuối cùng của cuộc trường chinh ấy sẽ mang tên Bác, gặp nhau giữa Sài Gòn là gặp nhau trong ngày toàn thắng.
Bài thơ “Lá đỏ” đã c a ngợi tình yêu đất nước, những đóng góp to lớn của người anh hùng chưa biết tên đã tạo ra sức mạnh dân tộc, góp phần làm nên chiến thắng trong những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ Lớp 8 Mời Trầu Đơn Giản
Thơ Xuân Hương vẫn thu hút người đọc, với sự tinh tế và biểu cảm trong những câu thơ. Bài thơ Mời trầu là tuyệt tác nhỏ nhưng chứa đựng biết bao tâm sự của Hồ Xuân Hương về cuộc sống và tình yêu. Bài thơ thể hiện lòng bênh vực cho phụ nữ và là giọng nói mạnh mẽ của nàng thơ Nôm.
Nhan đề Mời trầu mang đầy ý nghĩa, bộc lộ chủ đề của tác phẩm. Miếng trầu trong thơ không chỉ là hình ảnh đẹp mắt, mà còn là biểu tượng cho khát khao hạnh phúc lứa đôi của Xuân Hương. Bài thơ mở ra với hình ảnh miếng trầu nhỏ và thơm, là sự tượng trưng cho nguyện ước của bà.
Thơ sưu tầm nói về miếng trầu này và người tạo nên nó – Xuân Hương:
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Hình ảnh miếng trầu nhỏ được tạo nên từ lá cây cay, nhưng vô cùng đẹp đẽ. Quả cau nhỏ đó như biểu tượng cho thân phận nhỏ bé của phụ nữ xưa, với một vẻ đẹp và tinh tế riêng. Miếng trầu vừa mới quệt, tươi xanh và thơm ngon, chứa đựng biết bao tâm sự và mong ước của Hồ Xuân Hương. Đây không chỉ là miếng trầu thông thường, mà còn là biểu tượng của trái tim và tâm hồn nữ sĩ đầy khao khát.
Đến hai câu thơ sau, nhà thơ muốn truyền đạt điều gì đó đặc biệt:
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi
Nhà thơ mong muốn rằng nếu có duyên với Xuân Hương, người đó hãy giữ được sự thắm thiết, không để tình cảm phai nhạt như lá cây. Đừng để bản thân trở nên nhạt nhòa như vôi bạc. Xuân Hương sử dụng so sánh tự nhiên để thể hiện mong muốn của mình trong tình yêu.
Bài thơ như một cuốn nhật ký, ghi lại tâm tư và cảm xúc của Hồ Xuân Hương. Cô luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc lứa đôi, và điều đó khiến cho người đọc yêu quý và trân trọng hơn người phụ nữ tài năng này.
Tìm hiểu về 👉 Thơ Hồ Xuân Hương
Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ Lớp 8 Bài Cảnh Khuya Hay Nhất
Cảnh khuya là một trong những bài thơ hay của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ đã miêu tả cảnh ánh trăng ở chiến khu Việt Bắc cũng như thể hiện tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước của nhà thơ:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.”
Bài thơ được Bác Hồ sáng tác khi còn ở chiến khu Việt Bắc, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954). Cuối năm 1947, quân Pháp ồ ạt tấn công lên căn cứ Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não và lãnh đạo của quân ta. Nhưng với sự đồng lòng cùng sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chiến dịch Việt Bắc đã làm thất bại kế hoạch của quân địch.
Mở đầu bài thơ, Hồ Chí Minh đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên. Khi màn đêm buông xuống, ánh trăng càng sáng và lan tỏa khắp mọi không gian. Nhà thơ cảm nhận được tiếng suối chảy róc rách. Cách so sánh “tiếng suối như tiếng hát xa” gợi ra sự vang vọng của tiếng suối. Tiếp đến là vẻ đẹp của ánh trăng. Hình ảnh trăng vốn là một đề tài quen thuộc.
Lý Bạch từng khắc họa ánh trăng trong “Tĩnh dạ tứ” để gợi nhớ về cố hương với tấm lòng nhớ quê da diết:
“Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.”
(Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.)
Còn “Cảnh khuya”, ánh trăng được Bác diễn tả qua hình ảnh: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Câu thơ đêm đến hai cách hiểu. Thứ nhất, ánh trăng chiếu xuống mặt đất xuyên qua từng tán cây, chiếu xuống cả những bông hoa rừng. Không gian núi rừng Việt Bắc đều ngập trong ánh trăng. Thứ hai là ánh trăng sáng chiếu xuyên qua từng tán cây cổ thụ, khi phản chiếu xuống mặt đất tạo ra hình thù như những bông hoa. Cả hai cách hiểu đều gợi ra vẻ đẹp thơ mộng của bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng Việt Bắc.
Trước vẻ đẹp của thiên nhiên, Bác đã gửi gắm tâm tư, tình cảm. Con người hiện lên với hành động “chưa ngủ”. Có lẽ chưa ngủ vì khung cảnh thiên nhiên quá đỗi thơ mộng. Điều ấy khiến cho nhà thơ qua say mê trước vẻ đẹp đó mà quên rằng đêm đã về khuya.
Hay “chưa ngủ” là vì lo cho nhân dân, cho sự nghiệp cách mạng của đất nước. Bác đã khéo léo sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ – cụm từ “chưa ngủ” được lặp lại tới hai lần, qua đó nhấn mạnh tâm trạng lo âu, sự trăn trở của nhà thơ đối với cuộc sống nhân dân, sự nghiệp cách mạng của đất nước trong hoàn cảnh đất nước ta đang bị xâm lược bởi thực dân Pháp.
Với giọng thơ lạc quan và yêu đời, bài thơ “Cảnh khuya” đã thể hiện được tình yêu thiên nhiên cũng như quê hương, đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Mời bạn xem thêm 👉 Viết Văn Bản Kiến Nghị Về Một Vấn Đề Của Đời Sống
Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ Lớp 8 Cánh Diều – Xa Ngắm Thác Núi Lư
Lý Bạch là một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc. Một trong những bài thơ giúp người đọc cảm nhận được điều đó là “Xa ngắm thác núi Lư” (Vọng Lư sơn bộc bố):
“Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên”
Mở đầu bài thơ, Lý Bạch khắc họa một thế giới tuyệt đẹp vời của khung cảnh thiên nhiên núi Lư. Ánh mặt trời tươi sáng rọi chiếu xuống núi Hương Lô, tỏa sáng trên khung cảnh núi non kỳ vĩ. Nhà thơ còn điểm xuyết một màu sắc vô cùng rực rỡ, lộng lẫy với làn khói tía bốc lên từ ngọn thác, cùng với từ “sinh” gợi bức tranh thiên nhiên tràn đầy sự sống.
Giữa cảnh núi hùng vĩ, dòng thác hiện lên với những chuyển động tinh tế. Câu thơ “Dao khan bộc bố quải tiền xuyên” có thể hiểu là dòng thác đang treo trên dòng sông phía trước. Dòng thác lớn từ trên đỉnh núi cao đổ xuống được nhà thơ hình dung như là nó được treo lơ lửng giữa không trung, dựa vào vách núi Hương Lô kỳ vĩ. Lúc này, dòng thác như đang ào ào chảy xuống con sông ở phía dưới từ “ba nghìn thước” – con số mang tính ước lệ gợi một khoảng cách rất cao và xa.
Câu thơ cuối cùng gợi liên tưởng thác nước tựa như một dải ngân hà rộng lớn giữa bầu trời, đầy màu sắc. Thác núi Lư hiện lên không chỉ thơ mộng mà còn hùng vĩ tráng lệ. Qua đó, Lí Bạch muốn gửi gắm tình cảm yêu thiên nhiên tha thiết, cung với niềm tự hào trước vẻ đẹp của đất nước.
Bài thơ “Xa ngắm thác núi Lư” đã khắc họa đẹp độc đáo của thác nước chảy từ đỉnh Hương Lô thuộc dãy núi Lư cũng như bộc lộ tình yêu nước của Lí Bạch.
Xem thêm 👉 Giới Thiệu Về Một Cuốn Sách (Truyện) Lớp 8
Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ Trang 48 Lớp 8 Ngắn Hay
Tú Xương là một nhà thơ được sinh ra và lớn lên trong giai đoạn có thể nói là bi thương nhất của đất nước – nước ta bị Pháp tấn công và thống trị. Trước cảnh đất nước bị tù đày ấy, thơ của ông là một bức tranh hiện thực vừa bày tỏ sự đau xót của một người con nước Nam, đồng thời cũng tố cáo tội ác đen tối của bọn thực dân. Và “Vịnh khoa thi hương” cũng là một tác phẩm như thế.
Mở đầu bài thơ là hai câu thơ giới thiệu kì thi Hương năm ấy:
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”
Kì thi này được tổ chức một cách bình thường, cứ ba năm một lần. Nhưng điều bất thường của nó là, các thí sinh của trường Hà Nội cũng bị dồn về trường Nam Định để thi. Chỉ một từ “lẫn”, tác giả đã khéo léo nói lên tình trạng hồn loạn, bát nháo, tạp nham của khoa thi Hương năm ấy.
Và đúng là, việc thi cử ấy tạp nham thật:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
Từ “lôi thôi” được đặt lên đầu câu, nhấn mạnh vẻ lếch thếch, không gọn gàng của các vị “sĩ tử”. Bình thường, những người đi thi đều là những người đọc sách, những người luôn gọn gàng, chỉn chu. Vậy mà nay, thí sinh đi thi với vẻ xốc xếch, với lọ chai lỉnh kỉnh, không còn cái vẻ tao nhã của người đọc sách. Chỉ một đối tượng, nhưng cũng đủ để chỉ sự xuống cấp của toàn xã hội.
Thí sinh không còn vẻ nho nhã trí thức thì những vị giám khảo cũng không còn vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước nữa, chỉ còn cái dáng “thét loa” như ngoài chợ, mà nói thì cũng “ậm ọe” chẳng thành câu. Một lần nữa, tính từ miêu tả “ậm ọe” lại được cho lên đầu câu giống như từ “lôi thôi” ở trên để làm nổi bật lên sự bất tài của đám quan trông trường thi.
Chúng chỉ là những kẻ vênh váo, dựa hơi, chẳng có tài năng cũng chẳng có thực quyền. Trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh của một trường thi nhốn nháo, quan trông thi thì luôn miệng hống hách, quát tháo, sĩ tử đi thi thì lôi thôi, lếch thếch, xiêu vẹo lều chõng lọ giấy đi thi. Thật là đáng buồn và đáng cười thay!
Trong cái nhốn nháo, tạp nham ấy, hai nhân vật “quan trọng” xuất hiện một cách hoành tráng:
“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra”
Theo như lịch sử, kì thi năm Đinh Dậu 1897 có vợ chồng toàn quyền Pháp và vợ chồng tôn công sứ Nam Định đến dự. Đang trong không khí trường thi căng thẳng, vậy mà quan sứ và vợ vẫn được đón tiếp một cách long trọng, “lọng cắm rợp trời”, mưa không đến mặt, nắng không đến đầu. Kẻ xâm lược được đón tiếp một cách tốt nhất, đặt lên một vị trí cao nhất cho thấy một thực trạng đau lòng nước ta thời bấy giờ – một xã hội mà thực dân nắm quyền và xã hội phong kiến chỉ làm bù nhìn.
Ở đây, Tú Xương dùng từ vô cùng đắt, gọi “quan sứ” một cách quan trọng, nhưng lại gọi vợ chúng là “mụ đầm”. “Mụ” là một từ để chỉ người đàn bà không ra gì, là cách gọi thô tục. Tú Xương “chửi” một cách vô cùng sắc bén. Vừa châm biếm, nhưng đó cũng vừa là nỗi đau xót, căm hận của một con người phải chứng kiến cảnh nước mất nhà tan.
Trước cảnh nhốn nháo, biến chất ấy, nhà thơ đã phải thốt lên rằng:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”
Hai câu thơ vừa là lời tự vấn bản thân, cũng là tự vấn những người đồng cảnh ngộ. Có mấy người còn nghĩ đến nỗi nhục của cảnh nước mất nhà tan, mà cùng nhau đứng lên hành động? Có bao nhiêu người vẫn đang mù quáng tin vào nhà nước, tin vào chính quyền mà không chịu nhìn vào thực tế?
Thơ của Tú Xương, là sự kết hợp của cả hiện thực và trữ tình. Từ việc tả lại kì thi Hương đã thoái hóa, biến chất, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh đất nước bị tù đày, đàn áp bởi bọn thực dân, đồng thời cũng bày tỏ nỗi niềm đau xót trước cảnh nước mất nhà tan của một người, một thế hệ trí thức yêu nước trước cảnh nước mất nhà tan.
Chia sẻ đến bạn những bài văn mẫu về 👉 Phân Tích Một Tác Phẩm Truyện