10+ Mẫu Phân Tích Thơ Trào Phúng (Một Số Bài Nổi Tiếng Nhất)

Thohay.vn gửi đến các bạn đọc 10 phân tích thơ trào phúng hay + một số bài nổi tiếng nhất mà có thể bạn chưa biết tại bài viết dưới đây.

Thơ Trào Phúng Có Đặc Điểm Gì?

Thơ trào phúng hay được sử dụng tiếng cười để phê phán, lên án các vấn nạn trong cuộc sống, về những thói hư tật xấu của con người bằng lối nói hài hước. Nội dung của thơ trào phúng cũng là để so sánh sự mâu thuẫn của cái khách quan bên ngoài đối với cái chủ thể bên trong của sự vật, sự việc.

Qua việc phê phán, lên án ấy cũng là những lời khuyên rút ra bài học về nhận thức, suy nghĩ cũng như đạo đức của con người trong cuộc sống xã hội.

Thơ trào phúng thường dùng những yếu tố nghệ thuật sau:

  • Lối nói phóng đại, so sánh, chơi chữ dí dỏm hay là những lời nói mát mẻ sâu cay
  • Những yếu tố bất ngờ trong mạch thơ
  • Dựa vào kết cấu của bài thơ
  • Những yếu tố vô lí hoặc thiếu lô-gic, đảo lộn trật tự thông thường hay là phá vỡ những khuôn khổ quen thuộc của cuộc sống.
    Trong thơ trào phúng có một số loại giọng điệu cơ bản: hài hước, mỉa mai – châm biếm, đả kích,…

Xem thêm ❤️️ Thơ Trào Phúng Là Gì ? ❤️️

Các Nhà Thơ Trào Phúng Tiêu Biểu

Thohay.vn tổng hợp cho bạn các nhà thơ trào phúng tiêu biểu nhất tại bài viết dưới đây.

Bạn xem chi tiết 💛 Tiến Sĩ Giấy (Nguyễn Khuyến) 💛Nội Dung, Đọc Hiểu, Phân Tích

Một Số Bài Thơ Trào Phúng Nổi Tiếng

Một số bài thơ trào phúng nổi tiếng mà có thể bạn chưa biết đến.

  • Lời Gái Goá – Nguyễn Khuyến
  • Đưa Đò – Hồ Xuân Hương
  • Ông trẻ già – Tú Mỡ
  • Đánh tổ tôm – Tú Xương

Xem thêm chùm 👉 Thơ Trào Phúng Nguyễn Khuyến

Một Số Bài Thơ Trào Phúng Hay

Dưới đây là một số bài thơ trào phúng hay mà bạn có thể tham khảo.

  • Năm mới chúc nhau – Tú Xương
  • Khoe lười – Tú Mỡ
  • Vịnh Đời Người – Hồ Xuân Hương
  • Cua Chơi Trăng – Nguyễn Khuyến

Tặng bạn chùm 👉 Thơ Trào Phúng Của Tú Xương

Cách Phân Tích Thơ Trào Phúng

Phân tích thơ trào phúng đòi hỏi sự hiểu biết về ngôn ngữ, văn hóa và bối cảnh xã hội mà tác phẩm được sáng tác.

Dưới đây là một số bước cơ bản để phân tích thơ trào phúng:

  1. Hiểu biết về tác giả và bối cảnh lịch sử: Tìm hiểu về cuộc đời và thời đại của tác giả có thể giúp bạn hiểu rõ hơn về ngữ cảnh của bài thơ.
  2. Xác định chủ đề và thông điệp: Phân tích nội dung để xác định chủ đề chính và thông điệp mà tác giả muốn truyền đạt.
  3. Phân tích phong cách và ngôn ngữ: Chú ý đến lựa chọn từ ngữ, cách dùng hình ảnh, biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nói quá, điệp ngữ, đảo ngữ… để tạo ra hiệu ứng trào phúng.
  4. Tìm hiểu đối tượng châm biếm: Xác định đối tượng mà tác giả nhắm đến trong bài thơ, có thể là một nhóm người, một tầng lớp xã hội, hoặc một hiện tượng cụ thể.
  5. Phân tích cấu trúc và kết cấu: Xem xét cách tác giả tổ chức bài thơ, từ việc sắp xếp các câu, đến việc phân chia các khổ thơ và sử dụng vần điệu.
  6. Đánh giá tác động và giá trị: Xem xét tác động của bài thơ đối với độc giả và đánh giá giá trị nghệ thuật cũng như giá trị xã hội của nó.

Thơ trào phúng thường có hai loại giọng điệu cơ bản: hài hước, mỉa mai – châm biếm, và đả kích. Mỗi loại sẽ có cách tiếp cận và mục đích khác nhau, từ việc giáo dục xã hội bằng nụ cười nhẹ nhàng đến việc lột mặt nạ kẻ thù bằng nụ cười có sức công phá mãnh liệt.

Bạn có thể tham khảo các bài văn mẫu phân tích các bài thơ trào phúng được Thơ Hay chia sẽ bên dưới để hiểu rõ.

10+ Mẫu Phân Tích Thơ Trào Phúng Hay Nhất

Tổng hợp cho các bạn đọc 10+ mẫu phân tích thơ trào phúng hay nhất mà chúng tôi chia sẻ tại bài viết sau đây. Mời bạn tham khảo.

Viết Bài Văn Phân Tích Thơ Trào Phúng Ngắn

Tú Xương là một nhà thơ với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là một trong những bài thơ trào phúng tiêu biểu của tác giả.

Mở đầu, tác giả đã giới thiệu đôi nét về khoa thi Đinh Dậu – có thật trong lịch sử:

“Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.”

Việc thi cử được tổ chức nhằm tuyển chọn nhân tài ra giúp vua. Nhưng trong hoàn cảnh thực dân Pháp xâm lược, nắm giữ chính quyền thì việc thi cử đã có nhiều thay đổi. Dù vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ “ba năm mở một khoa” nhưng kì thi lại hết sức hỗn tạp: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”.

Ở Bắc Kì vốn có hai trường thi Hương là “trường Nam” trường thi Nam Định và “trường Hà” – trường thi ở Hà Nội. Nhưng thực dân Pháp đã đánh chiếm Hà Nội, cho bỏ trường thi ở Hà Nội. Các sĩ tử Hà Nội phải xuống thi chung ở trường Nam Định.

Tiếp đến, hai câu thực đã miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh hiện lên vô cùng khôi hài:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”

“Sĩ tử” vốn là những người thuộc tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, theo nghiệp bút nghiên nên mang phong thái nho nhã. Nhưng hình ảnh “sĩ tử” ở đây lại hiện lên thật lôi thôi, nhếch nhác. Cách sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ, đưa từ láy “lôi thôi” lên đầu câu thơ đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc.

Không chỉ vậy, khung cảnh trường thi lúc này không còn là chốn tôn nghiêm mà trở nên ồn ào, chẳng khác nào cảnh họp chợ nên quan trường mới “ậm oẹ” và “thét loa” – những người coi thi cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Qua chi tiết này, người đọc cười đấy mà cũng buồn đấy trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ.

“Lọng cắm rợp trời: quan sứ đến;
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”

Một kì thi mang tính trọng đại của đất nước. Nhưng hình ảnh xuất hiện ở đây – “lọng cắm rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ” – lũ cướp nước đầy long trọng. Không chỉ vậy, từ xưa, chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, phụ nữ không được đến.

Vậy mà bây giờ lại có hình ảnh “mụ đầm ra” với “váy lê quét đất” càng làm tăng thêm sự nực cười. Qua chi tiết này, chúng ta thấy được sự suy thoái của đất nước lúc bấy giờ.

Cuối cùng, tác giả đã bộc lộ tâm trạng trước tình cảnh của đất nước lúc bấy giờ:

“Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”

Câu hỏi tu từ “nhân tài đất Bắc nào ai đó” nhưng không nhằm mục đích biết câu trả lời. Đó là một lời thức tỉnh các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Kẻ thù xâm lược vẫn còn đó, thì đường công danh này có ý nghĩa gì.

Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu đã khắc khắc họa khung cảnh trường thi nhốn nháo, để làm bật lên tiếng cười chua chát về cảnh ngộ mất nước trong buổi đầu của xã hội thực dân nửa phong kiến.

Chia sẻ bạn 💕 Bài Thơ Thói Đời Của Tú Xương 💕 Nội Dung, Phân Tích

Phân Tích Thơ Trào Phúng Ngắn Gọn

Một trong những cảnh giới cao nhất của thơ trào phúng, chính là giọng thơ tự trào. Trong đó, Nguyễn Khuyến là một cây bút tự trào nổi bật trong làng thơ ca Việt Nam. Nổi bật trong các tác phẩm của ông, là bài thơ Tự trào.

Vốn là một vị tiến sĩ với trí tuệ hơn người được dân chúng, vua quan kính trọng, nhưng do thời cuộc run rủi, cuối cùng Nguyễn Khuyến đã lựa chọn lui về ở ẩn. Tự trào chính là lời thơ mà ông tự cười chê chính bản thân mình, khi chẳng thể đem tài cán ra để giúp đỡ giang sơn:

“Ta cũng chẳng giàu, cũng chẳng sang,
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.
Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.”

Bốn câu thơ đầu gợi lên sự dở dang, vỡ lở của những đặc điểm mà Nguyễn Khuyến tự tả về mình. Chẳng giàu, chẳng sang, chẳng gầy, chẳng béo. Điệp từ “chẳng” khắc họa một chàng trai không có gì. Ông tự cho mình là một kẻ “làng nhàng”, không có gì đặc sắc.

Tự chê bai, hạ thấp mình như vậy, là để giải thích cho hành động rời bỏ chốn kinh thành khi đất nước rối loạn về ở ẩn của chính Nguyễn Khuyến. Từ “chạy làng” là hành động chỉ kẻ vô trách nhiệm, chối bỏ việc phải làm. Đó là cách mà nhà thơ nghĩ về bản thân. Ông thấy mình là một nam tử hán tầm thường, hèn nhát, không thể cáng đáng được việc nước.

“Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.”

Câu thơ là lời tự đối thoại với chính mình của Nguyễn Khuyến. Ông tự trào với chính mình. Rằng dù có bia xanh, có bảng vàng được người đời kính trọng thì có sao chứ? Để bây giờ lại sống ẩn dật, hèn nhát như một kẻ gàn dở. Bởi giờ đây ông chỉ nói ra “gàn bát sách”, chứ chẳng đóng góp được gì cho cuộc đời.

Sự tự giễu cợt bản thân ấy, cho thấy nhà thơ vô cùng day dứt khi chẳng thể làm tròn phận sự của một đấng nam nhi, khi chẳng thể cống hiến cho đất nước xứng với chức Tiến Sĩ năm đó đỗ đạt.

Giây phút Nguyễn Khuyến từ quan về ở ẩn để giữ sự trong sạch cho bản thân, cũng là lúc ông chối bỏ trách nhiệm của mình với vua, với nước, với dân. Điều đó khiến ông đau khổ, dằn vặt đến đau đớn khôn nguôi.

Tự trào là sự trào phúng, giễu cợt của Nguyễn Khuyến dành cho chính mình. Nhưng cũng là lời châm biếm cho những kẻ chỉ biết giữ mình, không chịu đem tài sức ra cống hiến cho đất nước trong bối cảnh triều chính rối ren lúc bấy giờ.

Chia sẻ bạn 💕 Tự Trào của Nguyễn Khuyến 💕 Nội Dung Bài Thơ, Đọc Hiểu, Phân Tích

Phân Tích Thơ Trào Phúng Trần Tế Xương Dài

Trần Tế Xương là một nhà thơ tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam, những áng thơ văn của ông không đơn thuần là để thỏa mãn tâm hồn thi nhân mà còn truyền tải đươc nhiều quan niệm, tư tưởng, cách đánh giá của cá nhân nhà thơ về thời đại mà mình sinh sống.

Cái mới ở Trần Tế Xương, đó chính là ông không thể hiện những quan điểm ấy theo lối thơ văn thông thường mà ông thể hiện đặc sắc qua bút pháp trào phúng. Vì vậy mà đọc các trang thơ của Trần Tế Xương ta vừa bắt gặp cái đả kích châm biếm từ nhẹ nhàng đến mạnh mẽ sâu cay, cái được đả kích là những thói hư tât xấu, những tiêu cực, hạn chế trong xã hội đương thời.

Đồng thời, thông qua các áng văn trào phúng ấy, tư tưởng, cảm xúc của nhà thơ lại được bộc lộ rõ nét hơn bao giờ hết, đó là thái độ bất bình, phẫn uất và cả sự xót xa, đau đớn trước nghịch cảnh thực tại. Tiêu biểu cho khuynh hướng thơ văn của Trần Tế Xương ta có thể kể đến bài thơ “Đất Vị Hoàng”.

Bài thơ “Đất vị Hoàng” là bài thơ được viết theo bút pháp trào phúng, qua đó tác giả Trần Tế Xương đã thể hiện thái độ phẫn uất, bất bình của mình trước những đổi thay của xã hội, sự đổi thay đó làm mất đi những thứ vốn có, đó là những giá trị, truyền thống tốt đẹp, thay vào đó là cái lối sống nửa tây nửa ta kệch cỡm, lố bịch, đáng lên án.

Qua bài thơ ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy sự xót xa, đau đớn đọng lại trong từng câu, từng chữ, đó chính là sự đau xót của một con người đầy ý thức, không chấp nhận được sự đổi thay chóng vánh, tiêu cực của xã hội Việt Nam đương thời.

Hai câu đề của bài đã gợi ra hoàn cảnh đổi thay của vùng quê, đồng thời cũng gợi lên sự đổi thay trong xã hội:

“Có đất nào như đất ấy không?

Phố phường tiếp giáp với bờ sông”

Tác giả đã nói vùng quê Đất Vị Hoàng có rất nhiều thay đổi. Ngay ở câu đầu” Có đất nào như đất ấy không” . Đây là một câu hỏi tu từ, câu hỏi không đợi để trả lời . Phải chăng vùng quê của Tế Xương có thay đổi gì mà nhà thơ lại đau đáu, lại đớn đau vậy? Câu thơ thứ hai, tác giải đã thốt lên” Phố phường tiếp giáp với bờ sông” . Thì ra làng của Tú Xương ở nay đã trở thành một chốn phồn vinh đô thị nhưng tại sao nó lại khiến cho tác giả lại cảm thấy đau xót như thế.

Câu hỏi tu từ gợi tả thái độ hoài nghi: Phải chăng sự đổi thay quá nhanh đã khiến cho mảnh đất chôn nhau cắt rốn của nhà thơ trở nên xa lạ, tạo ra cho con người một sự xa cách đến ngỡ ngàng. Sự lạ lẫm ở mảnh đất vốn thân quen, đó chính là sự xuất hiện của những phố phường, đây cũng là dấu hiệu của một cuộc sống mới, của nếp sống mới mà người Pháp đang xây dựng ở trong xã hội ta.

Thay thế những mái nhà ngói xan xan, những mảnh vườn thưở ruộng cùng với khung cảnh lao động thường nhật thì phố phường xuất hiện làm thay đổi tất cả. Cảnh vật còn xót lại của làng quê, đó chính là dòng sông Vị Hoàng vẫn lặng lẽ chảy, chứng kiến mọi sự đổi thay. Cảnh vật thay đổi, lối sống mới xâm nhập làm đổi thay cuộc sống của con người nơi đây. Chính bởi là vì đất có phồn vinh thêm như đó lại không còn là của nhân dân nữa.

Sự đổi thay này dường như chính là nguyên nhân dẫn tới những đổi thay to lớn trong lề lối gia đình xã hội, điều này được Tú Xương khắc họa một cách đầy trào phúng trong hai câu thực:

“Nhà kia lỗi phép con khinh bố,

Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.”

Hiện thực đau đớn, xấu xa được Tế Xương phơi bày đến đau lòng. Cách dùng “nhà kia, mụ nọ” vừa ám chỉ vừa vạch mặt chỉ tên đầy khinh bỉ trước những cảnh đời xấu xa vô đạo. Có cảnh nhà “lỗi phép”, con cái bất hiếu “Con khinh bố”. Có cảnh đời, đảo điên tình nghĩa “chanh chua” như mụ nọ “Vợ chửi chồng”.

Có lẽ chỉ vì tiền mà đồi bại đến cùng cực thế! Hai mối quan hệ làm rường cột của đạo lí: tình phụ tử, nghĩa phu — thê đã trở nên nhem nhuốc vô cùng. Hỏng từ gia đình hỏng ra. Không còn là hiện tượng cá biệt nữa. Qua hai câu thực, ta có thể thấy mọi trật tự, mọi luân lí đều bị đảo ngược.

Phải chăng khi lối sống mới được đưa vào thì mọi thứ đều bị đảo ngược, nếu con khinh cha mất đi cái nề nếp, gia giáo thì “vợ chửi chồng” lại là sự đổ vỡ của mô hình gia đình trong xã hội. Một gia đình không có sự kính trọng của con cái với bố mẹ, người vợ lấn quyền, chanh chua thì gia đình ấy cũng chỉ là tồn tại cưỡng ép trên hình thức mà thôi.

Thật đáng buồn thay cái chữ hiếu được nhân dân dân ta coi là đạo lí ngàn đời nay. Vậy mà hỡi ôi sao lại có cảnh con cái dám chửi lai bố mẹ dám khinh thường bố mẹ. Câu thơ khiến ta như hiểu được một phần nào đó giá trị đạo đức chuẩn mực đạo đức khi đó đã không còn nữa. Đọc câu thơ của Trần tế Xương, ta nghe ý thơ như một lời của chính tác giả đang than thở cho một xã hội đã suy tàn đã trên bờ diệt vong.

Vẫn là giọng điệu châm biếm đả kích phũ phàng, Tế Xương đã khắc họa sự đổi thay to lớn trong xã hội, nơi mà con người hiện ra với đủ mọi tính cách xấu xa, bần tiện, hôi hám:

“ Keo cú người đâu như cứt sắt

Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng”

Một bức tranh biếm họa hoàn chỉnh. Ở cái đất Vị Hoàng thuở ấy nhan nhản những loại người “tham lam” và “keo cú”. “Keo cú” đến bần tiện, ghê tởm và hôi hám. Nhà thơ ngạc nhiên hỏi và so sánh: “người đâu như cứt sắt” sao mà đáng sợ, đáng khinh bỉ! Lại có loại người “tham lam” đến cùng cực, nhịp sống cuộc đời họ chỉ là chuyện thở rặt hơi đồng”. “Thở” là nhãn tự, rất linh diệu; nếu thay bằng chữ “nói” hay một từ nào khác thì không lột tả được bản chất loại người tham lam, đê tiện này. Vì đã “thở” phải đi liền với “hơi” – “hơi đồng”, tiền bạc.

Những câu thơ khiến ta liên tưởng đến những câu thơ trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du: “Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê!”. Chỉ vì tiền, coi tiền bạc là trên hết, là trước hết trong mọi mối quan hệ gia đình và xã hội.

Ở hai câu luận này, tác giả đã sử dụng từ “rặt” là từ cổ, là nói cách dân gian, nghĩa là “toàn là”, “đều là”. Phép đảo ngữ ở từ “ keo cú, tham lam” lên đầu để nhấn mạnh, rất có giá trị thẩm mĩ, tạo nên ngữ điệu dữ dội, khinh bỉ, một tiếng chửi đời cay độc, lên án loại người tham lam, keo cú. Cùng với đó là hình ảnh so sánh, ẩn dụ để vạch trần nét tiêu cực tính cách con người trong thời đô thị hóa ở làng Vị Hoàng thời đó.

Hai câu kết của bài thơ là một câu hỏi không chỉ cho người dân đất Vị Hoàng mà câu hỏi cho người dân cả nước, đồng thời cũng chính là nỗi lòng của nhà thơ:

“Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh,

Có đất nào như đất ấy không?”

Cách dùng nghệ thuật mở đầu – kết thúc dưới hình thức câu hỏi tu từ nghẹn ngào cất lên như một lời đay nghiến, vừa xót xa đau đớn. Và câu hỏi này, tác giả Tế Xương đã thể hiện thái độ bất mãn, phẫn nộ trước cảnh tượng, lề lối đạo đức suy đồi, phép tắc gia đình đảo lộn, xã hội ngập tràn những xấu xa, bần tiện.

Điều này không chỉ đả kích mạnh vào xã hội đương thời mà còn đồng thời thể hiện rõ nét nỗi lòng lo lắng cho quê hương của chính nhà thơ. Câu hỏi ấy, có lẽ Trần Tế Xương không chỉ dành riêng cho người dân làng quê Vị Hoàng mà đó là câu chuyện xã hội của cả đất nước. Chính hai câu thơ kết bài này đã nâng cao, mở rộng tầm tư tưởng tình cảm của bài thơ.

Bài “Đất Vị Hoàng” được viết theo thể thơ thất ngồn bát cú Đường luật, thủ vĩ ngâm. Câu 1 và câu 8 là câu hỏi tu từ “Có đất nào như đất ấy không?”‘, nhà thơ hỏi mà nghe đau đớn, xót xa . Bởi nơi chôn nhau cắt rốn thân thương nay đã thay đổi nhiều rồi, ngày ngày diễn ra bao cảnh đau lòng.

Còn đâu nữa hình ảnh đẹp một thời, để tự hào và “nhớ”: “Đất Vị Hoàng” là bài thơ trào phúng độc đáo của Tế Xương. Nhà thơ vừa đau xót, vừa khinh bỉ xã hội thối nát đạo đức bấy giờ. Đúng là Tú Xương “đã đi bằng hai chân” hiện thực trào phúng và trữ tình, tạo nên giọng điệu riêng hiếm thấy.

“Đất Vị Hoàng” là bài thơ viết bằng chữ Nôm, ngôn ngữ bình dị mà sắc sảo cùng với bút pháp điêu luyện mà tự nhiên, hồn nhiên. Tác giả đã phê phán xã hội đương thời nhiều suy thoái đạo đức, luân thường, đạo lí. Lời bài thơ đã tạo nên ấu ấn thơ Tế Xương – một nhà thơ trào phúng bậc của nước ta.

Có thể khẳng định rằng Đất Vị Hoàng là một bài thơ trào phúng đặc sắc, tiêu biểu của Trần Tế Xương. Bài thơ ngắn gọn với kết cấu đường luật chặt chẽ cùng bút pháp hiện thực đã giúp ta cảm thấy được những thay đổi tiêu cực của vùng đất Vị Hoàng, đồng thời cũng là sự thay đổi của xã hội, càng cho ta thêm cảm phục tấm lòng lo lắng cho quê hương, đất nước của chính nhà thơ.

Khám phá thêm 💛 Bài Thơ Than Thân Của Tú Xương 💛 Ý Nghĩa + Cảm Nhận

Phân Tích Thơ Trào Phúng Lai Tân Văn 8 Hay

Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh là một tập nhật kí bằng thơ, và được viết trong thời gian hơn một năm trong các nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

Tập thơ này ban đầu được Bác viết cho chính mình, với mục đích chính là giữ cho tâm hồn an ổn và tinh thần mạnh mẽ trong thời gian Bác bị giam cầm, và cũng là để tự tìm động lực cho ngày Bác được tự do, như đã ghi ở bài “Khai quyển đầu cuốn sổ tay.”

Lai Tân là bài thơ thứ 97 trong tập nhật kí này, và Bác đã viết nó sau khi bị chuyển từ Thiên Giang đến Lai Tân. Bức tranh hiện thực trong bài thơ này, thể hiện rõ sự mỉa mai, châm biếm và phê phán của Hồ Chí Minh đối với giai cấp thống trị tại Lai Tân, và đồng thời cả xã hội Trung Quốc thời kỳ đó.

Phiên âm chữ Hán:

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.

Bài thơ này tạo ra một bức tranh sắc nét về hiện thực trong nhà tù Lai Tân và một phần nhỏ của xã hội Trung Quốc thời điểm đó. Bức tranh này được Hồ Chí Minh phản ánh một cách sống động, sử dụng một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa.

Bài thơ thành công chủ yếu nhờ vào nghệ thuật châm biếm sắc sảo và độc đáo, kết hợp với giọng điệu tự sự và trữ tình, cùng với một cấu trúc chặt chẽ và hợp lý. Cấu trúc của bài thơ gồm hai phần, nhưng khác với cấu trúc thông thường của tứ tuyệt Đường luật.

Phần thứ nhất bao gồm ba câu, trong khi phần thứ hai chỉ có một câu duy nhất. Ba câu đầu tiên đơn thuần kể chuyện, trong khi câu thứ tư là điểm nút, là nơi tất cả tư tưởng của bài thơ được tập trung và nó làm bung vỡ tất cả các ý châm biếm và mỉa mai của Hồ Chí Minh đối với đám quan chức thuộc giai cấp thống trị.

Phần thứ nhất của bài thơ “Lai Tân” của Hồ Chí Minh đã khắc họa một cách sắc sảo thần tình chân dung của ba nhân vật “quan trọng.” Trong đó, ban trưởng nhà lao công khai đánh bạc hàng ngày, trong khi đánh bạc bên ngoài bị quan bắt tội.

Cảnh trưởng thì trắng trợn ăn tiền đút lót của tù nhân, còn huyện trưởng thì đêm đêm chong đèn và hút thuốc phiện. Những người này đại diện cho chính quyền và luật pháp, nhưng lại hoàn toàn vi phạm pháp luật.

Điều này đã vượt ra khỏi khung cảnh của một nhà tù, trở thành biểu tượng cho cả xã hội Trung Quốc thời kỳ đó, khi quan trên thảnh thơi, vô trách nhiệm và tham lam, trong khi cấp dưới chỉ lo xoay xở kiếm ăn, không quan tâm đến các tệ nạn đang hoành hành. Hơn nữa, những hành vi tham lam và nhũng nhiễu của họ thậm chí còn đóng góp “tích cực” vào việc gia tăng tệ nạn xã hội.

Ba nhân vật này hoạt động trong một màn hài kịch câm, và cả ba đang đóng vai trò “nghiêm túc” trong khung cảnh thái bình (??!) dưới sự thống trị của họ Tưởng. Câu thơ ngắn gọn và hàm súc này tố cáo tình trạng hỗn độn, bát nháo của xã hội Trung Quốc thời điểm đó.

Phần thứ hai của bài thơ, câu cuối cùng, chứa nhận xét thâm thúy và trào lộng của người tù Hồ Chí Minh về tình trạng bộ máy cai trị tại Lai Tân. Đọc đến đoạn này, người ta có thể trông đợi một lời lên án mạnh mẽ.

Tuy nhiên, tác giả đã không làm như vậy, mà thay vào đó, ông đưa ra một câu nhận xét có vẻ rất khách quan: “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.” Câu này thực sự đánh đồng với tình trạng thối nát của những quan chức ở Lai Tân, và nó thể hiện một sự mỉa mai, châm biếm sâu sắc.

Hiệu quả của câu thơ này là gì? Nó làm cho tình trạng thối nát của những quan chức ở Lai Tân trở nên bình thường đến mức nó trở thành bản chất của họ. Bản chất này thậm chí đã trở thành một phần “nề nếp” được chấp nhận trong xã hội từ lâu.

Câu kết luận trong bài thơ, dường như rất bình thản, lại ẩn chứa một lời châm biếm, mỉa mai và tiết lộ bản chất xấu xa của bộ máy thống trị ở Lai Tân. Từ “thái bình” có thể được coi là “thần tự,” “nhãn tự” của bài thơ này.

Điều này cho thấy tác giả đã sử dụng một cách tài tình từ “thái bình” để lôi kéo tất cả các hoạt động bất hợp pháp và thối nát ra ánh sáng, và châm biếm bản chất của họ Tưởng Giới Thạch đang lẩn trốn sau vẻ ngoài thái bình. Bằng cách này, câu thơ “Lai Tân” in đậm bút pháp nghệ thuật của Hồ Chí Minh, tạo nên một tác phẩm thơ châm biếm sắc sảo và đầy ẩn ý.

Gửi đến bạn ❤️️ Lai Tân [Hồ Chí Minh] ❤️️ Nội Dung, Phân Tích Bài Thơ 

Phân Tích Thơ Trào Phúng Năm Mới Chúc Nhau Ngắn Gọn

Tú Xương là một trong những tác giả nổi tiếng và tài năng của nền văn học Việt. Những sáng tác của ông có rất nhiều chủ đề đa dạng, và một trong số đó phải kể đến thơ ca Trung đại trào phúng. Bài thơ nổi tiếng nhất của Tú Xương chính là bài thơ Năm mới chúc nhau đã lên án, phê phán những thói hư trong xã hội.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau

Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu

Phen này ông quyết đi buôn cối

Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang

Đứa thì mua tước đứa mua quan

Phen này ông quyết đi buôn lọng

Vừa chửi, vừa la cũng đắt hàng.

Nó lại mừng nhau cái sự giàu

Trăm nghìn vạn mở để vào đâu

Phen này ắt hẳn gà ăn bạc

Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu.

Nó lại mừng nhau sự lắm con

Sinh năm đẻ bẩy được vuông tròn

Phố phường chật hẹp người đông đúc

Bồng bế nhau lên nó ở non.

Tú Xương là một nhà thơ tài ba của nền văn học Việt Nam, nhắc đến Tú Xương người đọc sẽ nhớ ngay đến phong cách thơ có sự kết hợp tài tình giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và đậm chất trữ tình. Bài thơ Năm mới chúc nhau là một bài thơ đặc biệt của Tú Xương được viết theo thể thơ trào phúng nhằm lên án, phê phán những điều xấu trong xã hội vào năm mới.

Thể thơ trào phúng là cách viết vô cùng độc đáo, lấy tiếng cười để xây dựng tâm tư, tình cảm của con người và rồi từ đó chống lại những điều xấu xa, thoái hoá, lạc hậu trong xã hội. Việc Tú Xương lựa chọn thể thơ này và viết nên bài thơ Năm mới chúc nhau cũng đã cho thấy được tư duy mới lạ, quyết bảo vệ những giá trị tốt đẹp của ông.

Bài thơ mở đầu với bốn câu thơ:

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau

Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu

 Phen này ông quyết đi buôn cối

Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.

Mùa xuân đến mang theo niềm vui và lời chúc tốt đẹp mà mọi người dành cho nhau. Thế nhưng trong những vần thơ của Tú Xương, ta đã cảm nhận được một góc nhìn khác. Ông “lẳng lặng” mà ngồi nghe bọn “nó” chúc lẫn nhau, chúc nhau “trăm tuổi bạc đầu râu” là một câu chúc mong muốn sức khoẻ, may mắn đến người nghe thế nhưng Tú Xương đã sử dụng từ “nó” để thể hiện sự chán ghét của mình

Cách xưng hô “ông – nó” đã thể hiện lối nói trịch thượng, lố lăng, coi thường người khác của những người có chức, có quyền trong xã hội ngày xưa. Ông bật cười khi nghe bọn chúng chúc nhau, dùng cối giã trầu có nghĩa là không còn răng để nhai trầu nữa, ta cảm nhận được sự thâm thuý và sâu cay trong những vần thơ của ông.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang

Đứa thì mua tước đứa mua quan

 Phen này ông quyết đi buôn lọng

Vừa chửi, vừa la cũng đắt hàng.

Đồng tiền trong thời kì này có ma lực vô cùng ghê gớm, nó có thể thao túng tất cả và trong đó có chức quan cao quý. Việc mà nhiều người phải cố gắng, ra sức học tập và tu dưỡng nay lại được mua bán một cách dễ dàng. Bốn câu thơ trên đã thể hiện sự thối nát của một thế hệ, sự kệch cỡm của bọn quan lại không có tài nhưng lại dùng tiền để che lấp. “Vừa chửi, vừa la cũng đắt hàng” là một câu thơ đặc biệt đã làm nổi bật rõ rệt thói trơ tráo và vô liêm sỉ của chúng.

Nó lại mừng nhau cái sự giàu

Trăm nghìn vạn mở để vào đâu

Phen này ắt hẳn gà ăn bạc

Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu.

Cách diễn đạt của câu thơ này vô cùng đặc biệt như cách nói khoa trương “trăm nghìn vạn mở”, bọn chung vui mừng và hạnh phúc khi tưởng chừng “phen này ắt hẳn gà ăn bạc” đã thể hiện sự lố lăng, xấu xa trong bản chất con người của chúng.

Nó lại mừng nhau sự lắm con

Sinh năm đẻ bẩy được vuông tròn

Phố phường chật hẹp người đông đúc

Bồng bế nhau lên nó ở non.

Và cuối cùng bọn chúng vui mừng vì “sinh năm đẻ bảy”, thế nhưng lúc này là lúc tiếng cười trào phúng bật ra để làm thấy rõ được sự lộn xộn, ô hợp của lớp người. Tú Xương đã bộc lộ rõ suy nghĩ của mình và lên án những người như thế trong xã hội xưa một cách trực diện và rõ ràng.

Bài thơ là sự vận dụng thành công của những từ ngữ giàu sức gợi hình và gợi tả nhằm mỉa mai những người có tầng lớp cao nhưng không xem ai ra gì trong xã hội xưa. Bài thơ xứng đáng là một trong những bài thơ hay và xuất xắc nhất của Tú Xương.

Xem ngay 👉 Các Bài Thơ Tú Xương Viết Về Vợ Hay

Phân Tích Thơ Trào Phúng Chừa Rượu Học Sinh Giỏi

Đây là một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Khuyến. Mặc dù chỉ với vỏn vẹn 4 câu thơ, nhưng tác giả đã cho chúng ta thấy được tác hại của rượu, nhưng ông lại không thể “chừa” được, tức là bỏ rượu. Do vậy mà tác giả muốn khuyên chúng ta đừng dính líu vào nó.

Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được. Lúc này, Nam Kỳ rơi vào tay thực dân Pháp. Năm 1882, quân Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội.

Năm 1885, chúng tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng, phong trào Cần Vương tan rã.

Có thể nói, sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của nhà thơ.

Nguyễn Khuyến nổi tiếng mê uống rượu. Cuốn thơ văn Nguyễn Khuyến có in ảnh của ông trang đầu, đầu khăn xếp, mặt xương xương, hai mắt sáng và tay thì đang cầm chén rượu.

Rồi có đôi khi đọc thơ Nguyễn Khuyến thì quả thực lắm khi cũng thấy phảng phất… mùi rượu, tỷ như bài “Tạ người cho hoa trà” thì nghe ra còn cả tiếng khề khà hơi thở của người say. “Chừa rượu” là bài thơ vui vẻ viết lối liên hoàn khá thú vị,

Những lúc say sưa cũng muốn chừa,

Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa,

Hay ưa nên nỗi không chừa được,

Chừa được nhưng ta… cũng chẳng chừa.

Trong bài thơ, có thể thấy tâm trạng đối lập của nhà thơ. Hai vế đối liên hoàn thể hiện đúng sự băn khoăn của người yêu rượu.

Đó là khi say muốn chừa rượu – bỏ rượu, không uống rượu. Thế nhưng, thực chất trong lòng lại không muốn bỏ rượu. 

Những lúc say sưa cũng muốn chừa,

Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa,

Nguyễn Khuyến đã sử dụng lối nói cực kỳ hóm hỉnh: muốn chừa nhưng tính lại hay ưa. Đây chính là một trong những lý do được các mọt rượu hay lấy ra để chống chế. Đó cũng là nguyên nhân để bắt đầu cho những việc tiếp theo:

Hay ưa nên nỗi không chừa được,

Đọc đến câu thơ này, người ta sẽ cảm thấy thật lắm lý do, làm gì có chuyện không thể chừa được rượu, chỉ cần có quyết tâm là sẽ bỏ được.

Thế nhưng, câu thơ cuối của Nguyễn Khuyến thực sự khiến bạn đọc phải tâm phục, khẩu phục:

Chừa được nhưng ta… cũng chẳng chừa.

Thật ra, bỏ rượu không khó, thế nhưng, giữa thế sự loạn lạc, bất bình mà không thể làm gì được, chẳng thể thay đổi thì việc say rượu sẽ giúp người ta quên đi những bất công. Không chỉ Nguyễn Khuyến, các thi sĩ cũng đều lấy cách này để quên đi hiện thực bất công.

Bài thơ đơn giản nhưng đúng lối hóm hỉnh của Nguyễn Khuyến. Bài thơ tên là “Chừa rượu” mà chẳng có ý chừa tí nào. Mà hay là nếu ai có mê rượu thì mới thấy nó tả đúng cái tâm sự của mình, thật tiện lợi mà đem ra chống chế…

Xem ngay nội dung bài 👉 Chợ Đồng Của Nguyễn Khuyến

Phân Tích Thơ Trào Phúng Vịnh Cây Vông Ngắn

Bài thơ “Vịnh cây vông” của Nguyễn Công Trứ là một tác phẩm nghệ thuật mang tính chất trào phúng, được viết dưới hình thức vịnh câu đối. Bài thơ miêu tả về cây vông và sử dụng cây vông như một biểu tượng để phê phán những người không có giá trị thực sự trong xã hội.

Trong bài thơ, tác giả miêu tả cây vông như một loại cây không đáng để trồng và chăm sóc. Cây vông cao lớn nhưng không có giá trị, khi già trở nên xốp xáp và không còn ruột gan, chỉ còn lại gai chông. Tác giả cũng phê phán những người ra tài nhưng không đáng để ngưỡng mộ, chỉ dựa vào chốn phiên ly để đỡ lòng.

Bài thơ cũng nhấn mạnh rằng, mỗi người sinh ra đã có nòi nào thì giống nấy, không thể thay đổi được. Ngay cả khi khen ngợi cho những người như cây vông, cũng chỉ là trổ ra những bông hoa không có ý nghĩa thực sự.

Từ ngôn ngữ và hình ảnh trong bài thơ, tác giả sử dụng những từ ngữ tươi sáng, tươi vui để miêu tả cây vông và những người không đáng để ngưỡng mộ. Tuy nhiên, qua sự tương phản giữa sự tươi vui của cây vông và sự tàn phá của thời gian, tác giả cũng biểu đạt tâm trạng và tình cảm của người thơ.

Từ bài thơ “Vịnh cây vông” của Nguyễn Công Trứ, chúng ta có thể thấy ý nghĩa về sự tàn phá của thời gian và sự đổi thay của cuộc sống. Bài thơ cũng nhắc nhở chúng ta không nên chỉ nhìn vào bề ngoài mà quan trọng hơn là giá trị thực sự của mỗi người và mỗi vật.

Tóm lại, bài thơ “Vịnh cây vông” của Nguyễn Công Trứ là một tác phẩm trào phúng, phê phán những người không có giá trị thực sự trong xã hội. Từ bài thơ, chúng ta có thể rút ra được ý nghĩa về sự tàn phá của thời gian và sự đổi thay của cuộc sống

Tuyển tập cho bạn 💛 Thơ Nguyễn Công Trứ 💛 Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ

Phân Tích Thơ Trào Phúng Tứ Tuyệt Đường Luật Chọn Lọc

Lai Tân của nhà thơ Hồ Chí Minh là một tác phẩm thơ trào phúng xuất sắc trong tập Nhật kí trong tù. Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt quen thuộc, nhà thơ khéo léo khắc họa cuộc sống của các nhà cầm quyền tại Lai Tân nồng đậm sự châm biếm:

“Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự”

Từ “trưởng” được lặp lại liên tiếp ba lần, nhấn mạnh tầm quan trọng của ba chức vụ được nhắc đến. Lần lượt ban trưởng, cảnh trưởng và huyện trưởng đều là những vị quan đứng đầu của huyện Lai Tân. Họ có chức trách bảo vệ và chăm lo cho cuộc sống của người dân. Ấy thế mà giữa ban ngày, ban trưởng thì thì đánh bạc, cảnh trưởng thì ăn hối lộ.

Họ ngang nhiên làm điều vi phạm pháp luật mà chẳng phải sợ hãi hay lén lút. Cấp trên của họ là huyện trưởng, dù rất chăm chỉ làm việc công nhưng lại chăng hề phát hiện ra. Kể cũng phải, bởi huyện trưởng chỉ làm việc ban đêm, còn ban ngày ông ta làm gì, đi đâu thì chẳng ai biết được. Việc công, việc dân phải đêm khuya thanh vắng ông mới đem ra làm.

Sự đối lập thú vị khi người thực thi pháp luật lại là kẻ phạm luật, khi việc sai trái thì làm vào ban ngày còn việc công chính thì lại làm vào ban đêm. Đã tạo nên tiếng cười trào phúng cho bài thơ. Tiếng cười ấy còn bật lên giòn giã hơn khi tác giả châm biếm vô cùng sâu cay ở câu thơ cuối:

“Lai Tân y cựu thái bình thiên”

Các vị quan cầm quyền tham ô, cờ bạc như vậy mà trời đấy Lai Tân vẫn được xem là “thái bình”. Đã vậy sự “thái bình” đó vẫn được duy trì đều đặn bấy lâu nay. Hóa ra, ở vùng đất này cái trì trệ, thối nát, mục rỗng vẫn được duy trì bền vững như vậy sao? Từ “thái bình” như một nhát kéo rạch ngang bộ mặt giả dối của giới cầm quyền nơi đây. Cưởi chê trực diện vào vẻ giả tạo bên ngoài của chúng.

Từ tiếng cười châm biếm về hiện thực giả dối của vùng đất Lai Tân, nhà thơ Hồ Chí minh đã thể hiện sự phê phán, chê trách về giai cấp thống trị, chính quyền ở nơi đây. Từ đó thể hiện sự thương xót cho những người dân bất hạnh phải sống dưới bầu trời u ám đó

Xem thêm chùm 👉 Thơ Trào Phúng Hồ Xuân Hương

Viết Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ Trào Phúng Mà Em Yêu Thích

Nhà thơ Tú Xương nổi tiếng với các tác phẩm trào phúng. Một trong số đó có thể kể đến bài thơ Thương vợ. “Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong số những bài thơ của Tú Xương viết về bà Tú.

Tác giả đã khắc họa hình ảnh một người phụ nữ tần tảo, nhẫn nhục và giàu đức hy sinh. Nhà thơ đã đứng ở khía cạnh của một người chồng – một người đàn ông để bày tỏ niềm cảm thông với những người phụ nữ:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Bốn câu thơ đầu đã giới thiệu về công việc của bà Tú. “Buôn bán” vốn là công việc vô cùng vất vả, không lúc nào được nghỉ ngơi. Cụm từ “quanh năm” gợi ra rằng công việc này diễn ra hằng ngày, lặp lại hết năm này đến năm khác.

Bà Tú tần tảo sớm hôm để “nuôi đủ năm con với một chồng” – việc tách riêng “một chồng” dường như thể hiện được một hoàn cảnh thật éo le. Người chồng đáng ra phải là người chèo chống để nuôi cả gia đình. Vậy mà ở đây, người vợ phải một mình mưu sinh nuôi chồng nuôi con.

Điều này làm bộc lộ nên tiếng cười mỉa mai, chua xót của chính tác gỉa. Họ không chỉ phải chịu đựng những ràng buộc phong kiến, không thể kêu ca, than thở mà chỉ biết im lặng chấp nhận, chịu đựng qua từng ngày: “Năm nắng mười mưa chẳng quản công”.

Đến hai câu thơ cuối cùng đọc lên giống như là một lời tự vấn của chính nhà thơ:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”.

Tiếng “cha mẹ” vang lên sao mà chua xót, là tiếng chửi thói đời đấy mà cũng giống như một lời tự trách bản thân vô dụng để rồi khiến người vợ của mình phải chịu đựng khổ cực.

Qua bài thơ này, Tú Xương đã khắc họa hình ảnh bà Tú cũng chính là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa: những con người tần tảo, chịu khó và giàu đức hy sinh.

Chia sẻ thêm bài thơ 💕 Thương Vợ của Tú Xương 💕 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích

Viết Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Văn Học (Thơ Trào Phúng Ông Phỗng Đá)

Nếu như Xuân Diệu được mệnh danh là “ông hoàng của thơ tình” thì Nguyễn Khuyến lại như là một “nhà thơ của dân tình, làng cảnh Việt Nam”. Thơ của ông nói lên tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu gia đình, bạn bè, phản ánh cuộc sống thuần khổ của nông dân, châm biếm đả kích tầng lớp thống trị, đồng thời bộc lộ tấm lòng ưu ái với dân, với nước.

Trong số tác phẩm đặc sắc đó, không thể không kể đến bài thơ “Ông phỗng đá” – đỉnh cao chói sáng trong thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến. Bài thơ là lời tự trào của tác giả khi đứng trước hình ảnh ông phỗng đá trên hòn non bộ.

Bài thơ trào phúng ngay từ nhan đề gợi hình ảnh “ông phỗng” – hình tượng đá thường được trưng trong văn hóa Việt Nam. Trong buổi dạy học ở nhà quan kinh lược Hoàng Cao khải, nhân thấy đôi phỗng đá ngoài vườn, thi sĩ Nguyễn Khuyến bèn tức cảnh làm bài thơ Ông phỗng đá.

Hình ảnh phỗng đá là hình ảnh rất quen thuộc ở làng quê Việt Nam, cũng như rất quen thuộc trong thơ ca. Với Nguyễn Dư là “thằng phỗng, ông phỗng”, còn đối với Nguyễn Khuyến – người để ý tới phỗng nhiều nhất lại là hình ảnh ông phỗng đá đang đứng cô đơn, lẻ bóng trên hòn non bộ ở giữa hồ. Hai câu thơ đầu là câu hỏi tu từ khắc họa hình ảnh ông phỗng đá:

Ông đứng đó làm chi hỡi ông?

Trơ trơ như đá, vững như đồng

Câu hỏi tu từ ngay khi vừa mở đầu vừa như là một sự băn khoăn, vừa như là sự mỉa mai và ngụ ý châm biếm của tác giả. Câu thơ cất lên phải chăng như một sự thăm dò công việc của ông phỗng đá. Thán từ “ hỡi” kết hợp với đại từ “ông” làm cho câu thơ mang giá trị biểu cảm cao, bộc lộ cảm xúc dâng trào.

Tác giả hỏi ông phỗng đá đứng đó làm gì, dường như cũng có thêm sự mỉa mai, bởi vì chính bản thân ông phỗng đá cũng đâu biết mình đang làm công việc gì. Câu thơ tiếp theo càng làm rõ thêm bức chân dung về ông phỗng đá:

“Trơ trơ như đá, vững như đồng”

Từ láy “trơ trơ”, kết hợp với hình ảnh so sánh “ như đá”, “vững như đồng” càng làm rõ nét thêm hình ảnh của ông phỗng đá. Đó phải chăng là hình ảnh phỗng đá đứng bất động mặc kệ sự biến động của trời đất, hình ảnh ông phỗng đá trơ trơ không quan tâm tới xung quanh, lúc nào cũng vậy, cũng đứng đó như một kẻ bù nhìn?

Hay là sự mỉa mai, phê phán của nhà thơ về những thói xấu ở đời, thói xấu của bọn quan lại không biết xót thương tới những cảnh lầm than của người dân trong cái xã hội cùng cực đó, chỉ biết như “ông phỗng đá” kệ mặc cuộc sống của những con người cùng cực ấy.

Những dòng thơ trào phúng mang giọng điệu phê phán của Nguyễn Khuyến không chỉ xuất hiện trong những câu thơ trên, mà nó như một nỗi ám ảnh, day dứt, khiến nhà thơ trăn trở mãi, và nó còn xuất hiện trong bài “Lời vợ anh phường chèo”:

“Vua chèo còn chẳng ra gì

Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”

Hai câu thơ tiếp theo mở ra giúp ta hiểu rõ hơn về công việc, cũng như hình ảnh ông phỗng, đồng thời hiểu rõ được dụng ý mỉa mai sâu cay tầng lớp thống trị và tấm lòng nhà thơ:

“Đêm ngày gìn giữ cho ai đó?

Non nước đầy vơi có biết không?

Cả bài thơ có bốn dòng thơ, nhưng lại tới ba câu là câu hỏi tu từ. Ba câu hỏi dồn dập nhau với nhiều ý tưởng: Ông phỗng đá đứng đó làm chi vậy? Trước mặt ông phỗng đá là giang sơn gấm vóc của Tổ tiên nhà, có phải muốn canh chừng, giữ gìn cho ai đó chăng? Và cái mảnh giang sơn đó giờ như nào? Hắn có biết chăng? Các câu hỏi dồn dập nhau, ý chừng cụ Tam Nguyên Yên Đổ như muốn khuynh đáo pho tượng, bắt buộc ông phỗng đá phải đáp lại, phải thốt lên thành lời..

Nhưng ông phỗng đá sao trả lời được..Những câu hỏi ấy của nhà thơ như là lời tự trào, như một tiếng hú, tiếng kêu thất thanh trong nhân loại.

Câu thơ “Đêm ngày giữ gìn cho ai đó?”, ý hỏi ông phỗng đá đang ngày đêm gìn giữ điều gì, có phải đang níu kéo cái đạo lý cương thường một thời của Nho giáo đang mất dần vị thế độc tôn? Câu thơ cuối cùng như là một sự trách móc khéo léo mà thâm thúy của nhà thơ:

“Non nước đầy vơi có biết không?”

Hình ảnh “non nước đầy vơi” gợi mở ra nhiều ý nghĩa. Non nước đầy vơi ấy không chỉ là hình ảnh giang sơn, núi đầy vơi như nào, khung cảnh ra sao. Mà “non nước đầy vơi” ở đây chính là cái thực trạng xã hội khi đó Nguyễn Khuyến sống.

Đó là cái xã hội phong kiến đầy biến động: Thực dân Pháp đang rêu rao xâm lược, triều đình thì bạc nhược, quan lại thì bù nhìn, các phong trào đấu tranh yêu nước thì dập tắt. Với việc sử dụng liên tiếp hai câu hỏi tu tiếp ở đây không chỉ thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm của tác giả trước sự vô cảm, vô trách nhiệm của đám quan lại, triều đình phong kiến trước an nguy của đất nước, sự suy vọng của dân tộc.

Mà phải chăng đó là sự tự trách mình của chính nhà thơ? Nguyễn Khuyến thấy mình như một kẻ thừa thãi trong guồng máy thống trị phong kiến. Ông trách mình vô dụng, trách bản thân cũng như một ông phỗng, cũng chỉ biết đứng nhìn chứ không giúp gì được cho dân, cho nước.

Giọng điệu thơ của tác giả nhẹ nhàng, mà thâm thúy khác hẳn với tiếng trào phúng đầy suồng sã, chua cay, dữ dội của Tú Xương trong bài “Ông cử Nhu”:

“Sơ khảo trường Nam bác cử Nhu

Thật là vừa dốt mà lại vừa ngu”

Lê-ô-nit Lê-ô-nốp từng nói: “Mỗi tác phẩm không chỉ là một khám phá về nội dung, mà còn là phát minh về hình thức”. Quả đúng như vậy, bài thơ “Ông phỗng đá” không chỉ hấp dẫn người đọc bởi nội dung đặc sắc, mà còn bởi nghệ thuật vô cùng đọc đáo của Nguyễn Khuyến trong thơ trào phúng.

Lối trào phúng của Nguyễn Khuyến trong bài thơ này là lối trào phúng gián tiếp, kín đáo và thâm thúy, ý định trào phúng của tác giả không bộc lộ trên bề mặt văn bản mà chìm sâu sau hình ảnh và từ ngữ. Không những thế, tác giả còn sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt hết sức tài tình, ngôn ngữ, hình ảnh gần gũi đối với quê hương.

Các từ láy, biện pháp tu từ so sánh được sử dụng linh hoạt trong bốn câu thơ khiến cho bài thơ trở nên đặc sắc. Đặc biệt, là cách sử dụng câu hỏi tu từ ba trên bốn dòng thơ, hỏi mà không có người trả lời, đã khơi dậy trong lòng đọc giả biết bao suy tư, băn khoăn về xã hội một thời.

Tất cả những biện pháp nghệ thuật ấy đã giúp phần làm nổi bật hình ảnh ông phỗng đá giữa hòn núi non bộ, đồng thời còn là sự phê phán của tác giả giữa thực trạng xã hội đó, cái xã hội mà ở đó, quan lại triều đình thờ ơ trước sự sống còn của những người dân thấp cổ bé họng.

Bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến với những biểu hiện lố lăng, kệch cỡm. Ở đó mọi giá trị đạo đức truyền thống đã bị đảo lộn, còn cái mới lại mang bộ mặt của kẻ xâm lược. Ngòi bút thâm trầm mà sâu cay của Nguyễn Khuyến đã chĩa mũi nhọn vào những chỗ hiểm yếu nhất của cái ung nhọt ấy.

Trong “Ông phỗng đá” nhà thơ đã đem ra trào phúng, châm biếm, hình ảnh triều đình, quan lại, bạc nhược thờ ơ trước những nỗi đau khốn cùng của người dân. Để có được sự thành công khi sử dụng lối trào phúng ấy, chính Nguyễn Khuyến cũng là người trong cuộc, ông cũng là người làm quan một thời, là người trơ trơ như ông phỗng đá không giúp ích gì được cho dân, cho nước.

Tính tự trào của bài thơ cũng hé mở cho ta nhận thấy, nghe thấy, chứng kiến cuộc đối thoại của nhà thơ với chính mình – tiếng nói phản tỉnh của một người trong cuộc.

Đó cũng chính là tiếng nói phản chính thống, một hành vi tưởng như là nói ngược nhưng thực chất lại phản ánh một cách chính xác nhất bản chất của xã hội và sự tha hóa của lớp người đại diện cho tinh hoa của thể chế đương thời.

Tuy chỉ là một bài thơ ngắn, thế nhưng tác phẩm không chỉ giúp ta hiểu rõ hơn về nghệ thuật thơ trào phúng, mà còn khiến tả cảm nhận rõ hơn thực trạng xã hội phong kiến với những “ông phỗng” thờ ơ trước vận mệnh của nhân dân.

Chính vì thế, lớp bụi thời gian có thể phủ nhòa đi mọi thứ, nhưng bài thơ này cùng giá trị châm biếm, mỉa mai sâu cay thì vẫn còn mãi như minh chứng cho tấm lòng lo lắng cho “non nước” của nhà thơ Nguyễn Khuyến.

Bạn xem chi tiết 💛 Ông Phỗng Đá 💛 Nội Dung, Đọc Hiểu, Phân Tích

Viết một bình luận